Trang

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

01-08-2012 : THỨ TƯ TUẦN XVII MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Tư Tuần XVII Thường Niên Năm II


THÁNH ANPHONG MARIA LIGORI, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
Dụ ngôn KHO TÀNG và VIÊN NGỌC QUÝ.

BÀI ĐỌC I: Gr 15, 10. 16-21
"Tại sao tôi cứ buồn sầu mãi? Nếu ngươi quay trở về, ngươi sẽ hiên ngang
trước mặt Ta".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Mẹ hỡi, khốn cho con, tại sao mẹ đã sinh ra con là kẻ hay tranh luận và cãi vã trong khắp xứ? Con không cho vay mượn và cũng không ai cho con vay mượn, thế mà mọi người đều nguyền rủa con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, con lấy lời Chúa làm của ăn. Lời của Chúa trở nên sự vui mừng và hân hoan cho lòng con, vì danh Chúa được kêu cầu trên con.
Con không ngồi trong đám người chơi bời; con hãnh diện vì các việc tay Chúa làm. Con chỉ ngồi một mình, vì Chúa đã khiến con đầy lời Chúa đe phạt. Tại sao con cứ buồn sầu mãi, và vết thương con trở thành hiểm nghèo bất trị? Nó trở nên như nước giả dối chóng cạn.
Vì vậy, Chúa phán thế này: "Nếu ngươi quay trở về, Ta sẽ cho ngươi về đứng trước mặt Ta: nếu ngươi phân biệt được vật quý với vật hèn, ngươi sẽ nên như miệng Ta, người ta sẽ quay về với ngươi, và ngươi không phải quay về với họ. Ta sẽ khiến ngươi nên tường đồng kiên cố cho dân này. Họ sẽ giao chiến với ngươi, nhưng họ không thắng được, vì Chúa phán: Ta ở cùng ngươi để giải thoát và cứu chữa ngươi. Ta sẽ giải phóng ngươi khỏi tay kẻ độc dữ, và sẽ cứu chữa ngươi khỏi tay kẻ hung bạo".
 Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 58, 2-3. 4-5a. 10-11. 17. 18
Đáp: Thiên Chúa là chỗ con nương thân trong ngày cơ khổ (c. 17d).
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, xin cứu con thoát lũ địch nhân; bảo vệ con khỏi bọn người nổi lên chống đối! Xin giải gỡ con khỏi những kẻ chuyên làm điều ác, và cứu con xa thoát bọn sát nhân. - Đáp.
2) Kìa chúng đang gài bẫy để sát hại con; âm mưu chống đối con là bọn người quyền thế. Lạy Chúa, con không vương tội ác lỗi lầm; dầu con vô tội, chúng cũng ùa tới tấn công. - Đáp.
3) Lạy Chúa là sức mạnh con, con hướng thân tìm về Chúa, vì lạy Chúa, Chúa là đồn lũy bảo vệ con. Thân lạy Chúa, Chúa là Đấng xót thương con; lạy Chúa, xin Ngài ra tay nâng đỡ, khiến cho con được vui nhìn quân nghịch phải thua. - Đáp.
4) Phần con, con sẽ ca ngợi quyền năng Chúa, và mỗi buổi sáng, con hoan hỉ vì đức từ bi của Chúa, vì Chúa đã trở nên đồn lũy bảo vệ con, và chỗ con nương thân trong ngày cơ khổ. - Đáp.
5) Lạy Chúa là sức mạnh con, con ca ngợi Chúa; vì lạy Chúa, Chúa là đồn lũy bảo vệ con, thân lạy Chúa, Chúa là Đấng xót thương con. - Đáp.

ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 13, 44-46
"Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy. Đó là lời Chúa.

LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ TƯ TUẦN XVII THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: Jer 15:10, 16-21; Mt 13:44-46
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Làm mọi sự để đạt tới nước trời.
Để biết quí trọng điều gì, một người trước tiên cần biết điều đó làm gì cho mình. Nếu không biết giá trị của nó, người đó sẽ không quí trọng và không bỏ thời giờ cũng như công sức để tìm điều đó. Ví dụ, ngọc quí đặt trước miệng con heo, hay những khám phá về các văn bản cổ của Kinh Thánh đặt trước kẻ vô thần.
Các bài đọc hôm nay muốn nhấn mạnh tới việc con người phải có cặp mắt tinh đời để nhận ra sự quí trọng của Lời Chúa và của Nước Trời. Hai điều này có liên hệ mật thiết với nhau: Lời Chúa soi dẫn cho con người đạt tới Nước Trời. Trong bài đọc I, khi ngôn sứ Jeremiah gặp được Lời Chúa, ông đã vui mừng “nuốt” vào; nhưng cũng vì Lời Chúa, ông bị mọi người chống đối và chê bỏ đến nỗi ông nghi ngờ ngay cả về sự hiện hữu của mình trong cuộc đời. Thiên Chúa đã đến để củng cố tinh thần cho ông. Ngài hứa nếu ông trung thành với sứ vụ ngôn sứ, Ngài sẽ làm cho ông trở nên như một thành đồng vững chắc, sẽ giải thoát ông khỏi tay mọi kẻ thù hung ác, và sẽ ban ơn cứu độ cho ông. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu ví Nước Trời như một kho tàng giấu trong ruộng hay như một viên ngọc quí đến nỗi khi một người tìm được, người đó sẽ vui mừng về nhà bán hết mọi sự ông có để mua cho được.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa cung cấp hy vọng cho ngôn sứ Jeremiah khi ông chịu đau khổ.

1.1/ Sự nghịch lý của Lời Chúa: Đối với ngôn sứ, Lời Chúa là lý do cho sứ vụ của ông. Nếu không nói Lời Chúa, ông không còn là ngôn sứ của Thiên Chúa. Người ngôn sứ vui mừng khi nhận được Lời Chúa như Jeremiah xác tín trong trình thuật hôm nay: “Gặp được Lời Chúa, con đã nuốt vào, Lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thoả lòng con, vì con được mang danh Ngài,
lạy Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh.” Tác giả Sách Khải Huyền diễn tả cách khác: “Tôi cầm lấy cuốn sách nhỏ từ tay thiên thần và nuốt đi. Trong miệng tôi nó ngọt ngào như mật ong, nhưng khi tôi nuốt rồi, thì bụng dạ tôi cay đắng” (Rev 10:10).
Ngôn sứ Jeremiah cũng cảm thấy sự cay đắng của Lời Chúa khi ông thi hành sứ vụ, đến nỗi đã phải thốt lên: “Con vô phúc quá, mẹ ơi, mẹ sinh con ra làm gì, để cho người ta chống đối, cho cả nước gây gổ với con? Con chẳng cho ai vay, cũng không mượn của người, thế mà vẫn cứ bị nguyền rủa.” Ông bị chống đối và nguyền rủa vì ông nói những lời mà thiên hạ không thích nghe. Họ muốn hòa bình trong khi ông cứ tiên đoán chiến tranh, họ muốn thịnh vượng mà ông cứ tiên đoán điêu tàn đổ vỡ...
Ngôn sứ phải nói và sống theo sự thật trong khi dân chúng ưa chuộng sự hời hợt và giả dối bên ngoài. Đó là lý do nhiều khi ngôn sứ thấy mình sống cách biệt khỏi mọi người, ông “không ngồi chung vui với phường giễu cợt... phải ngồi riêng một mình.” Không những thế, ông còn bị mọi người xa lánh như tránh một điều gì ghê tởm. Chính Jeremiah cũng bị người ta ném xuống giếng. Ngồi trên bùn, ông băn khoăn tự hỏi hiệu quả của Lời Chúa cho con người!

1.2/ Thiên Chúa củng cố niềm tin cho ngôn sứ Jeremiah.
Trước tiên, Thiên Chúa muốn Jeremiah hiểu ngôn sứ là “miệng” của Thiên Chúa, ông không thể nói khác hơn những gì Thiên Chúa muốn ông nói. Nếu ông không chịu nói hay nói những gì khác với những điều Thiên Chúa truyền, ông không còn là ngôn sứ của Ngài.
Thứ đến, dân chúng phải lắng nghe và thi hành Lời Chúa nói qua các ngôn sứ; chứ không phải ngôn sứ thay đổi Lời Chúa cho phù hợp với lối sống và nguyện vọng của dân. Ngài nhắc nhở Jeremiah: “Chính họ sẽ quay về với ngươi chứ không phải ngươi quay về với họ.”
Tiếp đến, chống đối và đau khổ không thể nào tránh được trên bước đường thi hành sứ vụ của ngôn sứ, vì tự bản chất sứ vụ của ngôn sứ bao gồm điều này. Vì dân chúng lạc hướng xa Thiên Chúa, nên ông phải chiến đấu chống lại ma quỉ, thế gian, và yếu đuối xác thịt để đưa họ trở về. Chống lại ba thù là điều không dễ dàng; nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, ông có thể làm được. Thiên Chúa hứa với Jeremiah: “Ta sẽ làm cho ngươi nên thành đồng kiên cố đối với dân này. Chúng có chống lại ngươi cũng chẳng làm chi được.”
Sau cùng, ngôn sứ sẽ chiến thắng mọi trở ngại và được lãnh phần thưởng vinh quang. Ngôn sứ của Thiên Chúa không thể thất bại vì ông không chiến đấu một mình, nhưng chiến đấu cùng với Thiên Chúa các đạo binh. Ngài sẽ ban phần thưởng chiến thắng sau cùng cho ông.

2/ Phúc Âm: Ông vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.

2.1/ Cần biết giá trị của Nước Trời: Chúa Giêsu mặc khải rõ ràng ý định của Thiên Chúa cho con người là Ngài muốn cho con người về hưởng hạnh phúc với Ngài trên trời (Jn 6:39-40). Như vậy,
mục đích của cuộc đời là chiếm cho được Nước Trời, chứ không phải bất cứ điều gì khác, như: làm nhiều tiền, có quyền cao chức trọng, có vợ đẹp con khôn...
Tại sao Nước Trời quan trọng hơn mọi giá trị của trần thế? Có rất nhiều so sánh về hai giá trị của Nước Trời và của trần thế, chúng ta chỉ vắn tắt ở đây. Giá trị của Nước Trời vĩnh cửu, hoàn hảo, mang lại hạnh phúc, không ai có thể tước đoạt; trong khi giá trị của trần thế chỉ tạm thời, bất toàn, không đem lại hạnh phúc đích thực, và có thể bị mất dễ dàng.

2.2/ Dám hy sinh mọi sự để đạt tới Nước Trời: Làm sao để đạt được Nước Trời? Chúa Giêsu trả lời: phải về nhà gom góp mọi sự và bán hết!
Trước tiên, cám dỗ của con người là muốn cả hai: vừa muốn Nước Trời vừa muốn hưởng thụ theo tiêu chuẩn của người đời. Nguy hiểm của việc bắt cá hai tay: nếu không bán hết, những gì chúng ta giữ lại sẽ làm cho chúng ta chia trí; rồi thay vì mua lấy Nước Trời, chúng ta lại bằng lòng với cuộc sống của nước trần thế này.
Nếu muốn đạt được Nước Trời, Chúa Giêsu đòi chúng ta phải lằng nghe và thi hành Lời Chúa dạy. Những điều này không dễ dàng thi hành vì tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa rất khác với tư tưởng và đường lối của con người. Sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa, chúng ta phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, chống đối, và ngay cả cái chết.
Nhưng chúng ta không chiến đấu một mình, Thiên Chúa sẽ chiến đấu với chúng ta qua sức mạnh của ơn thánh. Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn trở ngại, và hứa ban chiến thắng cho những người trung thành bước theo Ngài. Kinh nghiệm cho thấy: sống theo tiêu chuẩn Nước Trời không chỉ mang lại cho chúng ta nguồn vui vĩnh cửu mai sau mà còn đem lại niềm vui và bình an trong cuộc sống hiện tại.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải hiểu rõ và xác tín sự quan trọng của Nước Trời; nếu không, chúng ta sẽ không dám hy sinh những gì mình đang có.
- Bán của cải vật chất đã khó, nhưng khi phải hy sinh từ bỏ ý riêng và vác thánh giá theo Chúa còn khó hơn bội phần. Chúng ta cần cầu xin sức mạnh của Thiên Chúa.
- Những gì khó với con người, nhưng mọi sự đều có thể và không khó với Thiên Chúa. Chúng ta cần tin tưởng những lời Người hứa với tiên tri Jeremiah: Ta sẽ ở với ngươi để cứu độ và giải thoát ngươi khỏi tay kẻ thù.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.

Thứ Tư tuần 17 thường niên
Sứ điệp: Nước Trời có một giá trị cao quý vô cùng đến độ có thể đánh đổi tất cả những gì ta có. Thế nhưng điều quan trọng hơn, đó là con người phải nhận ra giá trị cao quý ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay cho con hiểu rằng Nước Trời thật giá trị cao quý, cao quý đến độ người ta có thể đánh đổi tất cả để chiếm đoạt và có thể từ bỏ tất cả để giành lấy. Nước Trời thật giá trị cao quý, bởi vì Nước Trời là chính Chúa, là được sống trong tình yêu của Chúa, được chia sẻ chính sự sống của Chúa.
Xin Chúa giúp con học hỏi, tìm hiểu không ngừng, để con khám phá giá trị cao quý của Nước Trời, để mỗi ngày con lại càng nhận ra Chúa thật là cần thiết cho con. Lúc đó con sẽ bỏ tất cả, đánh đổi tất cả, để chiếm đoạt Nước Chúa cho bằng được, và lòng hân hoan vui sướng vì được cả một kho tàng.
Người đi tìm ngọc quý, người thương gia, là những người sành sỏi, biết nhận định hơn hay kém, thật hay giả… để có thể quyết định chọn lựa dứt khoát. Cũng vậy, để có thể dấn thân hoàn toàn sống cho Chúa, con cũng phải nhận định. Xin giúp con nhận ra rằng Chúa trổi vượt hơn mọi sự ở đời này. Chúa là lẽ sống và là hạnh phúc của con. Được Chúa là được tất cả, mà mất Chúa là mất tất cả.
Trong cuộc sống thường ngày, khi mua một món hàng, con hỏi những người thông thạo để mua món hàng nào tốt nhất và đẹp nhất. Cũng thế, để nhận ra giá trị Nước Trời, xin cho con biết siêng năng học hỏi nơi Lời Chúa, nơi các thánh, nơi giáo lý của Hội Thánh, con sẽ không chọn lầm và không có gì phải nuối tiếc khi chọn Chúa. Amen.
Ghi nhớ : "Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".



 01/08/12 THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 17 TN
Th. Anphong Maria Ligôri, giám mục, tiến sĩ HT
Mt 13,44-46

KHO TÀNG ĐÍCH THỰC

“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng… Tìm được rồi, ông ra đi, vui mừng bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng đó.” (Mc 13,44)

Suy niệm: Trong đà phát triển một đất nước hiện đại hoá, mọi thành phố thậm chí cả thôn quê đều cần phải qui hoạch, chỉnh trang… Thế là phải di dời, giải toả. Và thế là có những mảnh đất từ hồi nào đến giờ bỏ hoang không ai thèm ngó, bỗng trở nên “tấc đất tấc vàng”. Và những người đoán trước được giá trị những mảnh đất như thế, không ngại bỏ ra những số tiền lớn để mua lại, vì biết rằng sẽ thu lời gấp mười, thậm chí gấp trăm trong một thời gian ngắn. Qua dụ ngôn kho tàng chôn giấu trong ruộng (và cả dụ ngôn viên ngọc quí nữa), Chúa Giê-su cho biết Nước Trời còn quí giá gấp bội phần. Sẽ thật đáng tiếc nếu chúng ta hụt mất “lô đất” đang dành sẵn cho mỗi người chúng ta đó. Điều kiện để sở hữu “lô đất” đó là phải bán đi tất cả những gì là ích kỷ, tham lam, hẹp hòi để sắm cho mình một vốn liếng duy nhất là MẾN CHÚA – YÊU NGƯỜI. Có như vậy chắc chắc sẽ chiếm hữu được kho tàng.

Mời Bạn: Kiểm điểm cuộc sống của mình xem bạn còn đang chiếm hữu “tài sản” nào mà chưa chịu bán đi để có đủ khả năng mua được kho tàng Nước Trời.

Sống Lời Chúa: Đối chiếu những chi tiết trong 2 dụ ngôn (kho tàng và viên ngọc quí) với đời sống của bạn để khám phá ra điều Chúa muốn bạn từ bỏ để đạt tới Nước Trời. Và bạn hãy thực hiện đúng những gì mà Chúa soi sáng cho bạn qua việc chia sẻ này.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con lòng mến đích thực, để chúng con dám bán đi tất cả, để chỉ có Chúa là kho tàng, là gia nghiệp đời con.




Vui mừng bán tất cả 
Suy nim:
Tất cả bắt đầu từ một sự tình cờ may mắn.
Người nông dân nghèo phải làm thuê cho điền chủ
tình cờ gặp được kho báu chôn trong ruộng.
Người buôn ngọc tình cờ gặp được viên ngọc tuyệt vời,
có giá trị lớn lao mà người bán không hề biết.
Sau đó phản ứng của cả hai rất giống nhau:
ra đi, bán tất cả những gì mình có và mua...
Không thấy có dấu vết của sự nuối tiếc
hay ngần ngại giằng co.
Tất cả diễn ra thật nhanh
và tràn ngập niềm vui thanh thản.
Ai cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào
khi chiếm được kho báu và viên ngọc.
Cuộc đời họ chuyển sang một giai đoạn mới.
Thái độ của hai người trên được coi là bình thường.
Ở địa vị ta, ta cũng làm như thế.
Kho báu và viên ngọc là những thứ thấy được,
có giá trị hiển nhiên và hết sức hấp dẫn.
Chúng hứa hẹn một sự giàu sang mà ai cũng thèm thuồng,
nên người ta dễ bán tất cả để mua được chúng.
Bị ảnh hưởng bởi não trạng hưởng thụ vật chất,
chúng ta thường coi kho báu duy nhất ở đời này
là tiền bạc, quyền uy và khoái lạc.
Khi nói Nước Trời là kho báu bền vững,
Ðức Giêsu là viên ngọc quý đích thực,
chúng ta lại thấy đó là cái gì mơ hồ,
xa xôi, ít lôi cuốn, thậm chí không có thật.
Chính vì thế chúng ta thường ngần ngại khi từ bỏ,
dè sẻ, nuối tiếc khi phải hy sinh cho Chúa.
Vậy vấn đề là khả năng thấy, nhờ lòng tin.
Bản thân tôi có thấy Ðức Giêsu là viên ngọc quý,
và Nước Trời là kho báu không?
Chỉ ai thấy được những thực tại vô hình
và ngây ngất trước giá trị của chúng,
người ấy mới hồn nhiên và vui tươi
đánh đổi tất cả kho báu phù phiếm của đời này
để lấy kho báu bất diệt trên trời (x. Mt 6,20).
Có khi tình cờ, qua một biến cố, một người bạn,
qua một cuốn sách, một đoạn Lời Chúa, một kỳ tĩnh tâm,
tôi chợt gặp Ðức Giêsu như viên ngọc ngời sáng,
hấp dẫn, mời gọi tôi bay lên khỏi cái tôi tầm thường:
tôi có dám bán nỗi đam mê ích kỷ của mình
để mua lấy tình bạn với Ngài không?
Nếu ta còn ngần ngại khi phải bán đi tất cả
thì chỉ vì ta chưa thấy.
Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi,
ắt ta sẽ thấy.
Niềm vui chỉ đến với người dám bán tất cả.

Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

 
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
1 THÁNG TÁM
Tại Sao Thiên Chúa Cho Phép Sự Dữ Xảy Ra?
Thánh Kinh đảm bảo rằng “sự ác không lướt thắng được sự khôn ngoan” (Kn 7,30). Điều đó khích lệ chúng ta xác tín rằng trong kế hoạch quan phòng của Đấng Tạo Hóa, rốt cục sự dữ cũng ‘chịu thua’ sự thiện. Trong ánh sáng của sự quan phòng thần linh, chúng ta bắt đầu hiểu hai sự thật này: một là, “Thiên Chúa không muốn sự dữ vì chính nó”; hai là, “Thiên Chúa cho phép điều dữ xảy ra”.
Để hiểu tại sao “Thiên Chúa không muốn sự dữ vì chính nó”, chúng ta cần nhớ lại những lời trong Sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa không làm ra cái chết; Ngài cũng chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Ngài đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kn 1,13-14).
Để hiểu tại sao Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra giữa những sự vật thể lý, rất cần nhớ lại rằng vật chất thể lý – trong đó có thân xác con người – là những thứ dễ hư nát và tiêu vong. Chúng ta cần nhấn mạnh rằng điều này ảnh hưởng đến chính cơ cấu của bản tính vật chất của các tạo vật này. Nhưng điều này hoàn toàn lô-gíc. Thật khó mà hình dung rằng các thụ tạo vật chất có thể tồn tại mà không bị giới hạn trong tình trạng hiện hữu của thế giới vật chất chúng ta. Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng nếu “Thiên Chúa không làm ra cái chết” – như Sách Khôn Ngoan khẳng định – thì đồng thời Ngài vẫn cho phép cái chết xảy ra, trong viễn tượng của sự tốt lành phổ quát của toàn vũ trụ vật chất.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Alphongsô Maria Liguori, giám mục tiến sĩ Hội Thánh;                                  Gr 15,10.16-21; Mt 13, 44-46
LỜI SUY NIỆM: “Nước Trời cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13, 45-46).
          Trong cuộc sống của một đời người có rất nhiều cái quý, nhưng phải có một cái quý nhất. Những cái quý mà con người đang có, nó chỉ có một giá trị nhất thời, trong một không gian thời gian nào đó thôi. Cái khát vọng của con người là sự hạnh phúc vĩnh cữu; sự sống trường tồn. Chúa Giêsu đang giới thiệu cho con người hôm nay: đó là Nước Trời, muốn chiếm hữu được Nước Trời con người phải đầu tư cả cuộc sống của mình, phải biết hy sinh tất cả những gì mình đang có; để thực thi những gì mà Tin Mừng đang đòi hỏi.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 01-08
Thánh Anphong Maria Liguori.

Thánh ALPHONSÔ LIGUORI
Giám mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (1696 - 1787)
Thánh Alphongsô Maria Liguori sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 tại Marinella gần Naples và là con trưởng trong 7 anh em. Ngay từ trong nôi, Ngài là giao điểm tập hợp ân huệ đáng mơ ước như trí thông minh, danh giá, tài sản, thiên khiếu nghệ thuật và một tấm lòng đại độ.
Trong khi đó người mẹ rất đạo hạnh nghĩ rằng: - Các ân huệ tốt đẹp nhất sẽ chẳng có giá trị gì nếu không hướng về Chúa. Người lãnh nhiều phải trả nhiều.
Như vậy ân phúc kỳ diệu nhất mà Alphongsô nhận được chính là giáo huấn của người mẹ. Alphongsô học tiếng Hy lạp, tiếng Latinh, tiếng Pháp và toán. Ngài say mê âm nhạc và hội họa. Là một con người có chí. Alphongsô gây ảnh hưởng tốt đối với chúng bạn. Bằng sự trong trắng tế nhị và lòng đạo đức của mình. Một người bạn kể lại rằng: có lần thua cuộc chơi và giận dữ đến độ trở nên sỗ sàng. Alphongsô buồn phiền nghỉ chơi và nói: - "Chúa không muốn tôi được chút tiền đã khiến cho bạn làm phiền lòng Ngài"
Thế rồi Alphongsô biến mất vào vườn. Các bạn đổ xô đi tìm Ngài và gặp Ngài đang quỳ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ đặt trên cành cây. Người bạn xấu xúc động nói : - "Tôi đã làm phiền một vị thánh".
Alphongsô thành công rất sớm trên cùng đời. 17 tuổi Ngài đậu bằng tiến sĩ luật khoa cả về giáo luật lẫn dân luật và đã bắt đầu hành nghề luật sư. Khả năng hùng biện của Ngài hứa hẹn một tương lai sáng lạn. Nhưng tuổi trẻ cũng có cớ dẫn Ngài tới lỗi lầm với trong hậu quả bi thảm, năm 1723 trong một vụ kiện, Ngài biện hộ với một giọng nói hùng hồn. Lý lẽ vững chắc, làm cho cả tòa án phải ngỡ ngàng tán thưởng. Nhưng khi vừa dứt lời, đối thủ ôn hoà vạch ra một lỗi nhỏ mà Ngài không nhận thấy. Chính lỗi nhỏ đó đã tiêu hủy luận chứng lẫn danh tiếng của Ngài.
Thất bại Alphongsô rất đau buồn và đã đóng cửa phòng hai ngày liền. Ngài suy nghĩ và tự hỏi rằng: "Đây không phải là lời mời gọi của Chúa hay sao ...? Bỏ nghề, Ngài nói : - "Oi thế gian, ta đã biết ngươi. Hỡi pháp đình, ngươi sẽ không còn gặp ta nữa".
Ngài tìm đường sống và dấn thân cho công cuộc bác ái. Một ngày kia, đang khi thăm viếng các bệnh nhân trong một nhà thương, Ngài nghe hỏi: - "Ngươi làm gì ở thế gian này ?"
Nhìn chung quanh Ngài không thấy ai, nhưng Ngài vẫn nghe hỏi một lần nữa. Vào một nguyện đường dâng kính Đức Mẹ từ bi gần đó, Ngài hứa sẽ gia nhập dòng giảng thuyết và làm linh mục. Đặt thanh gươm trên bàn thờ Ngài nói:- "Lạy Chúa này con đây, xin hãy làm nơi con điều đẹp lòng Chúa. Con là gì và con có chi, con xin hiến dâng để phụng sự Chúa".
Nghe tin này cha Ngài giận dữ, Ngài quyết bỏ nghề, bỏ cả vị hôn thê của Ngài sao ? Ngài đã trả lời rằng: đối với Chúa chẳng có hy sinh nào gọi là quá lớn lao cả. Ngài cương quyết giữ ý định và cha Ngài không thèm nhìn đến Ngài nữa. Năm 1726, Ngài thụ phong linh mục.
Thánh nhân rao giảng khắp vương quốc Naples. Cha Ngài giận dữ quyết không chịu nghe. Ngày kia ông vào một thánh đường, đúng lúc con ông đang thuyết giảng. Thoạt đầu ông giận dữ, nhưng rồi dần dần ông mềm lòng. Ơn Chúa đã đến nhờ lời giảng dạy của con ông. Kết thúc giờ phụng vụ ra về ông nói: "Con tôi đã làm cho tôi được biết Chúa".
Suốt đời, thánh Alphongsô không những chỉ nỗ lực trong công việc tri thức mà còn lo tiếp xúc với dân chúng. Ngài chỉ thích việc ngồi tòa hơn là việc nghiên cứu. Ngài mang đặc điểm của một linh mục truyền giáo. Thành quả của Ngài thực hiện được chính là dòng Chúa Cứu Thế, thành lập tại Scala tháng 11 năm 1732. Dầu cho từ đầu, hội dòng đã bị phân rẽ thành hai phe và thánh Alphongsô phải khởi đầu lại, với hai người bạn, nhưng hội dòng cũng khởi sự lớn dần. Dòng được chuẩn nhận ngày 21 tháng 2 năm 1749.
Năm 1548 thánh nhân xuất bản bộ thần học luân lý, được đức giáo hoàng Bênêdictô XIV phê chuẩn và gặt trong nhiều thành quả tức thời.
Năm 1762 Đức Clementô XIV đặt Ngài làm giám mục cai quản địa phận Agata. Ngài nỗ lực thăng tiến lòng đạo đức trong điạ phận, khởi sự từ viêc canh tân hàng giáo sĩ. Năm 1775 Ngài được đức giáo hoàng Piô VI cho phép từ nhiệm để về sống trong dòng tại Nocera.
Những năm cuối đời, thánh Alphongsô đã trải qua rất nhiều đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần. Dầu trong "đêm tối của linh hồn" Ngài vẫn không nao núng và luôn kiên trì cầu nguyện. Ngài nói: "Ai cầu nguyện sẽ được cứu thoát, ai không cầu nguyện sẽ tự luận phạt". Cuối cùng Ngài tìm được bình an và qua đời năm 1787.
(Daminhvn.net)
+++++++++++++++++
01 Tháng Tám
Bài Giảng Của Vị Giáo Trưởng

Trong một thị trấn nhỏ bên Liên Xô. Một số người Do Thái đang chờ đón vị giáo trưởng của họ. Ðã lâu lắm cộng đoàn của họ không có người lãnh đạo. Vị giáo trưởng lại cư ngụ trong một thành phố khác. Ông chỉ đến thăm cộng đoàn nhỏ bé này mỗi năm một lần. Ai ai cũng náo nức được gặp con người thánh thiện nổi tiếng này. Mọi người chuẩn bị những câu hỏi mà họ sẽ lần lượt nêu lên để xin vị giáo trưởng giải đáp.
Khi ông đến nơi, sự căng thẳng càng hiện lên trên nét mặt của nhiều người. Ai cũng đang trong tư thế giơ tay để đặt câu hỏi. Nhưng khi mọi người đã an tọa trong phòng họp, vị giáo trưởng không nói lời nào. Ông đưa mắt nhìn mọi người. Một hồi lâu, ông bỗng ngân nga một điệu nhạc. Mọi người đều bắt chước làm theo. Vị giáo trưởng lại cất tiếng hát lên một bài ca quen thuộc. Mọi người cũng hát theo ông... Mọi người tưởng nghi thức mở đầu ấy sẽ chấm dứt và vị giáo trưởng sẽ nói lên những lời vàng ngọc.
Nhưng không, trái với sự chờ đợi của mọi người, hết bài ca này đến bài ca khác, ông không ngừng bắt lên những bài ca mới. Khi các bài ca vừa dứt, ông bước xuống khỏi bục giảng và bắt đầu nhảy múa. Ông vừa nhảy vừa vỗ tay, không mấy chốc cả cử tọa cũng bước ra khỏi ghế và nhảy theo ông. Tiếng vỗ tay, tiếng hát, tiếng nhịp chân lôi kéo mọi người vào điệu múa khiến họ không còn nhớ đến những câu hỏi mà họ đã chuẩn bị từ mấy hôm trước. Cả cộng đoàn hòa nhịp với nhau trong đôi chân, cùng nắm tay nhau, cùng khăng khít với nhau trong phấn khởi, vui tươi, cảm thông, hiệp nhất...
Khi các điệu vũ đã chấm dứt, mọi người trở về chỗ ngồi của mình. Lúc bấy giờ, vị giáo trưởng mới lên tiếng nói và ông chỉ nói có vỏn vẹn một câu ngắn ngủi như sau: "Tôi tin chắc rằng tôi đã trả lời cho mọi thắc mắc của anh chị em".
Cô đơn là nguyên nhân gây ra mọi thứ xáo trộn, bệnh tật trong chúng ta. Cô đơn đưa chúng ta đến sầu muộn. Sầu muộn đưa chúng ta đến nổi loạn. Nổi loạn đưa chúng ta đến tội ác...
Có những người bị người khác đày đọa cô đơn, nhưng cũng không thiếu những người tự giam hãm vào cô đơn. Nhưng đày đọa kẻ khác vào cô đơn cũng có nghĩa là cắt bớt đi một sợi dây liên kết, là tiến dần đến chỗ cô đơn.
Ðể ra khỏi cô đơn, liều thuốc duy nhất chính là làm cho người khác bớt cô đơn. Một tiếng hát vui tươi cất lên để mời gọi mọi người cùng hát với mình, một tiếng vỗ tay tung ra để mời gọi mọi người cùng phấn khởi với mình, một nhịp bước đưa ra để mời gọi mọi người cùng nhảy múa với mình: khi hòa nhịp với nhau trong một niềm vui chung, người ta sẽ xóa đi được bao nhiêu vấn đề vướng mắc trong tâm tư.
Có ra khỏi chính mình để chia vui sẻ buồn với người, có ra khỏi chính mình để chỉ nghĩ đến những ưu tư phiền muộn của người, có ra khỏi chính mình để lo lắng cho người, để giúp đỡ người, chúng ta mới làm vơi đi được nỗi cô đơn của mình và cũng giúp người bớt cô đơn.
Cho thì có phúc hơn nhận lãnh: càng trao ban, càng ra khỏi chính mình, chúng ta mới cảm thấy vơi nhẹ đi những ưu tư, lo lắng của mình...
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++

Thứ Tư 1-8

Thánh Anphong Liguori

(1696-1787)
T
ông Ðồng Vatican II xác định rằng, thần học luân lý phải được nuôi dưỡng bởi Phúc Âm, và chứng tỏ được sự cao quý của ơn gọi người Kitô Hữu, và nhiệm vụ của họ là trưng ra kết quả ấy trong đời sống bác ái giữa trần gian. Vào năm 1950, Thánh Anphong được Ðức Piô XII tuyên xưng là quan thầy của các thần học gia luân lý, ngài thật xứng với danh hiệu ấy. Trong cuộc đời ngài, thánh nhân phải tranh đấu để giải thoát nền thần học luân lý khỏi sự khắt khe của chủ thuyết Jansen. Thần học luân lý của ngài, đã được tái bản 60 lần trong thế kỷ sau khi ngài từ trần, chú trọng đến các vấn đề thực tiễn và cụ thể của các cha xứ và cha giải tội. Nếu có thói vụ luật và giảm thiểu hóa luật lệ xen vào thần học luân lý, chắc chắn nó không thuộc về mô hình thần học tiết độ và nhân từ của Thánh Anphong.
Vào năm 16 tuổi, ngài lấy bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật của Ðại Học Naples, nhưng sau đó đã bỏ nghề luật sư để hoạt động tông đồ. Ngài được thụ phong linh mục và dồn mọi nỗ lực trong việc tổ chức tuần đại phúc ở các giáo xứ, cũng như nghe xưng tội và thành lập các đoàn thể Kitô Giáo.
Ngài sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế năm 1732. Ðó là một tổ chức của các linh mục và tu sĩ sống chung với nhau, tận tụy theo gương Ðức Kitô và hoạt động chính yếu là tổ chức tuần đại phúc cho nông dân ở thôn quê. Như một điềm báo cho điều sẽ xảy ra sau này, sau một thời gian hoạt động, những người đồng hành với ngài ngay từ khi thành lập đã từ bỏ tu hội và chỉ còn lại có một thầy trợ sĩ. Nhưng tu hội cố gắng sống còn và được chính thức chấp nhận vào 17 năm sau, dù rằng khó khăn vẫn chưa hết.
Sự canh tân mục vụ lớn lao của Thánh Anphong là cách giảng thuyết và giải tội -- ngài thay thế kiểu hùng biện khoa trương, thùng rỗng kêu to, bằng sự giản dị dễ hiểu, và thay thế sự khắc nghiệt của thuyết Jansen bằng sự nhân từ. Tài viết văn nổi tiếng của ngài phần nào đã làm lu mờ công lao khó nhọc mà ngài đã ngang dọc vùng Naples trong 26 năm trường để tổ chức tuần đại phúc.
Ngài được tấn phong giám mục khi 66 tuổi và ngay sau khi nhậm chức, ngài đã cải tổ toàn diện giáo phận.
Vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp. Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với "sự tăm tối" vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính.
Thánh Anphong nổi tiếng về nền tảng thần học luân lý, nhưng ngài cũng sáng tác nhiều trong lãnh vực tâm linh và thần học tín lý. Văn bản Các Vinh Dự của Ðức Maria là một trong những công trình vĩ đại về chủ đề này, và cuốn Viếng Thánh Thể được tái bản đến 40 lần trong đời ngài, đã ảnh hưởng nhiều đến sự sùng kính Thánh Thể trong Giáo Hội.
Ngài được phong thánh năm 1831, và được tuyên xưng Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1871.

Lời Bàn

Trên hết tất cả, Thánh Anphong nổi tiếng là một con người thực tế đối phó với các vấn đề cụ thể hơn là trừu tượng. Cuộc đời ngài quả thật là một gương mẫu "thực tiễn" cho Kitô Hữu ngày nay đang bị khó khăn để nhận chân giá trị của đời sống Kitô Giáo giữa cơn lốc khó khăn, đau khổ, hiểu lầm và thất bại. Thánh Anphong đã trải qua tất cả những đau khổ ấy. Ngài là thánh bởi vì ngài luôn duy trì sự liên hệ mật thiết với Ðức Kitô thống khổ qua tất cả những thử thách cuộc đời.
Kính màu Thánh Anphong quỳ trước Thánh Thể, Nhà Thờ Chánh Tòa Carlow, Ái nhĩ lan.

Lời Trích

Khi Thánh Anphong làm giám mục, một trong các linh mục của dòng có cuộc sống rất trần tục, và cưỡng lại mọi biện pháp nhằm thay đổi lối sống ấy. Vị linh mục được Thánh Anphong mời đến, và ngay ở lối vào phòng của ngài, thánh nhân cho đặt một tượng thánh giá thật lớn. Khi vị linh mục do dự không dám bước qua, Thánh Anphong ôn tồn nói, "Hãy bước vào đi, và nhớ đạp lên thánh giá. Ðây không phải lần đầu tiên mà cha đạp Chúa dưới chân mình."
Nhà Thờ Chánh Tòa CARLOW, Ái Nhĩ Lan.
Ảnh của P.Walker.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét