Trang

Thứ Tư, 4 tháng 7, 2012

05-07-2012 : THỨ NĂM TUẦN XIII MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Năm sau Chúa Nhật 13 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm II) Am 7, 10-17

"Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Ta".
Trích sách Tiên tri Amos.
Trong những ngày ấy, một vị tư tế ở Bêthel, là Amasia, sai người đến với Giêrôbôam, vua Israel, mà thưa rằng: "Amos đã nổi loạn chống đức vua, ngay trong nhà Israel, xứ sở không chịu nghe các lời của y". Vì đây, Amos nói rằng: "Giêrôbôam sẽ chết vì gươm, và dân Israel sẽ bị đày xa xứ sở".
Và Amasia đã nói với Amos: "Hỡi nhà tiên tri, hãy trốn sang đất Giuđa mà kiếm ăn và nói tiên tri. Ðừng ở Bêthel mà tiếp tục nói tiên tri nữa. Vì đây là nơi thánh của vua, là đền thờ của vương quốc". Nhưng Amos trả lời Amasia rằng: "Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải con của tiên tri: nhưng tôi là một mục tử, chuyên trồng cây sung. Chúa đã bắt tôi khi tôi đi theo đoàn vật, và Chúa bảo tôi: "Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta". Và này, hãy nghe lời Chúa phán: "Người bảo: Chớ nói tiên tri chống lại Israel, chớ chỉ trích dòng họ kẻ theo dị thần". Chính vì thế mà Chúa phán như sau: "Vợ ngươi sẽ gian dâm trong thành phố. Con trai con gái ngươi sẽ gục ngã dưới lưỡi gươm. Ruộng vườn ngươi sẽ bị phân tán. Chính ngươi, ngươi sẽ chết trên đất nhơ nhớp, và dân Israel sẽ bị đày ải xa quê hương mình".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Ðáp: Phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy (c. 10b).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. - Ðáp.
4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 9, 1-8

"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng "Tội con được tha rồi", hay nói "Hãy chỗi dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội". Bấy giờ Người nói với người bất toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Qua câu chuyện chữa người bất toại, Ðức Giêsu chứng tỏ Ngài chính là vị Thẩm Phán Tối Cao sẽ nắm quyền xét xử nhân loại. Ngài dùng quyền đó để tha tội cho người ta. Bất cứ những ai tin vào Ngài đều được hưởng nhờ lòng nhân hậu và tình yêu của Ngài. Như anh bất toại hôm nay đã tin vào Ðức Giêsu, không những được Ngài chữa lành bệnh phần xác mà cả tâm hồn anh cũng được trong sạch. Ðiều đó cho chúng ta thấy: Tin vào Ðức Giêsu làm cho con người được lành mạnh và biến đổi.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, nơi Chúa đầy quyền năng, đầy lòng nhân ái và là nguồn sống dồi dào. Xin Chúa ban cho những ai đang gặp đau khổ về thể xác và tâm hồn, luôn biết tin tưởng vào tình yêu vô biên của Chúa. Xin Chúa cũng ban cho những ai chưa biết Chúa được nhận ra Chúa là sự sống và nguồn hạnh phúc đích thực, để họ cũng tin và được đón nhận ơn cứu độ. Amen.


(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Suy Niệm:
Sống Niềm Tin
Con người là con vật xã hội. Xã hội không dành riêng phần đất cho những người tự đóng kín vào mình. Vừa mở mắt chào đời, con người đã phải đón nhận sự nâng đỡ của người khác, rồi trong suốt cuộc đời, không ai có thể tự hào mình không cần nhờ vả đến ai. Sống là một luân lưu của những trao đổi và cảm thông. Tôi phải nhờ đến người khác và cũng có bổn phận để người khác nhờ đến tôi.
Ðời sống đức tin cũng không ra ngoài định luật ấy. Ơn cứu độ được gửi đến cho tất cả, chứ không cho riêng một ai, mỗi cá nhân đón nhận nhưng rồi phải san sẻ cho người khác. Sự thánh thiện hoặc tội lỗi của một người cũng có ảnh hưởng đến người khác. Chúa Giêsu đã lên án mạnh mẽ những ai làm cớ vấp phạm cho người khác xa lìa Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay thuật lại một phép lạ xẩy ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người tê liệt được khiêng đến cho Chúa Giêsu. Phúc Âm Marcô và Luca cho thấy rõ hơn quang cảnh của phép lạ này: vì không có chỗ để chen vào, người ta leo lên gỡ mái nhà và thòng người tê liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng người tê liệt, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.
Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết sống niềm tin, dù cho có gặp nhiều cản trở, nhờ đó chúng ta sẽ nhận được ơn lành của Chúa, và củng cố niềm tin nơi nhiều người xung quanh.
 (Veritas Asia)



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ NĂM TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: Amo 7:10-17; Mt 9:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
“Phải cẩn thận suy xét lời Chúa”.

Lời của Thiên Chúa phán ra sẽ không trở lại với Ngài mà không có hiệu lực (Isa ). Khi con người có cơ hội nghe Lời Chúa, hoặc chính Thiên Chúa phán ra hoặc qua miệng các ngôn sứ, con người cần có thái độ tôn kính học hỏi và khiêm nhường lắng nghe. Sau đó, con người cần suy xét và thi hành những gì Ngài nói thì mới có thể sinh ích cho mình và tránh được những thiệt hại xảy đến trong tương lai.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng hai ví dụ xảy ra cho những người không cẩn thận lắng nghe và khinh thường Lời Chúa. Trong bài đọc I, tư tế Amaziah khinh thường ơn gọi ngôn sứ của Amos, qua việc sai sứ giả tâu lên vua và đuổi Amos về quê quán của mình. Hậu quả là tư tế đã phải lãnh nhận những lời tuyên sấm thiệt hại liên quan đến bản thân, gia đình và đất nước. Trong Phúc Âm, một số các kinh sư kết tội Chúa Giêsu phạm thượng vì dám tha tội, quyền chỉ dành cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu lợi dụng cơ hội để cắt nghĩa cho họ, nếu Ngài có thể chữa lành bệnh, Ngài cũng có thể lấy đi tội là nguyên nhân của bệnh. Nói tóm, họ phải chấp nhận Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài làm được những việc chỉ Thiên Chúa mới làm được.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: "Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta."

1.1/ "Jeroboam sẽ chết vì gươm, và Israel sẽ bị đày biệt xứ."

Trình thuật kể thái độ của Amaziah đối với ngôn sứ Amos như sau: “Bấy giờ ông Amaziah, tư tế đền thờ Bethel, sai người đến gặp Jeroboam, vua Israel, và thưa: "Amos âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Israel, và đất nước này không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì Amos nói như thế này: "Jeroboam sẽ chết vì gươm, và Israel sẽ bị đày biệt xứ."
Khi nghe những lời tuyên sấm của ngôn sứ, con người có hai thái độ, hoặc đón nhận và khiêm nhường xét mình để sửa đổi, hoặc tức giận chửi rủa và tìm cách triệt hạ vị ngôn sứ. Tư tế Amaziah chọn thái độ thứ hai.
Amos sinh tại Tekoa, một thành của Judah; nhưng Đức Chúa lại truyền cho ông đi nói tiên tri tại vương quốc Israel. Đó là lý do Amaziah nói với ông Amos: "Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Judah, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bethel này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều."
Ông Amos trả lời ông Amaziah: "Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta." Amos muốn nói cho Amziah biết: Ơn gọi làm ngôn sứ đến từ Thiên Chúa; nếu Ngài không gọi ông, ông đã không qua Judah để tuyên sấm cho Đức Chúa.

1.2/ Truy tố ngôn sứ không làm vô hiệu hóa sấm ngôn của Đức Chúa.

Người nghe sứ điệp của ngôn sứ phải hiểu ông chỉ là người mang sứ điệp hay chỉ là cái loa của Thiên Chúa, Đấng ban hành sứ điệp. Nếu họ không muốn hậu quả xảy ra, họ có thể chọn một trong hai giải pháp: hoặc họ phải tiêu diệt Người ban hành sứ điệp, điều mà không ai có thể làm nổi, hoặc họ lắng nghe sứ điệp và kiểm điểm con người để sửa đổi. Nóng giận và tiêu diệt ngôn sứ chỉ tăng thêm tội cho họ và làm cho cơn giận của Thiên Chúa càng mau tới.

Amos tuyên sấm cho tư tế Amaziah, không phải nhân danh sự hận thù cá nhân, nhưng là nhân danh Thiên Chúa: “Vì vậy, Đức Chúa phán thế này: "Vợ ngươi sẽ đi làm điếm trong thành phố, con trai con gái ngươi sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, lãnh thổ ngươi sẽ bị phân chia từng mảnh, còn ngươi, ngươi sẽ chết trên một miền đất ô uế.” Và ông lặp lại lời tuyên sấm trước: “Israel sẽ bị đày xa quê cha đất tổ."

2/ Phúc Âm: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!"

2.1/ Các kinh-sư chất vấn quyền tha tội của Chúa Giêsu: Người ta khiêng đến cho Chúa Giêsu một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!"
(1) Phản ứng của các kinh-sư: Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: "Ông này nói phạm thượng!" vì truyền thống Do-thái tin: Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền nói: "Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? Trong hai điều: một là bảo: "Con đã được tha tội rồi!" hai là bảo: "Đứng dậy mà đi!" điều nào dễ hơn?
Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo: "Con đã được tha tội rồi!" vì chẳng ai có thể xác quyết quyền này. Điều khó hơn là truyền cho bệnh nhân: "Đứng dậy mà đi!" vì ai ai cũng có thể chứng nhận người truyền có thể làm việc ấy hay không. Để chứng minh cho họ biết Ngài có cả hai quyền, Chúa Giêsu truyền cho người bại liệt: "Đứng dậy, vác giường đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà.

2.2/ Quyền tha tội liên quan đến việc chữa lành:
(1) Chúa Giêsu có quyền tha tội: Truyền thống Do-thái tin bệnh tật là hậu quả của tội. Chúa Giêsu muốn chứng minh cho họ biết: Nếu Ngài chữa lành bệnh tật, Ngài cũng lấy đi tội lỗi, nguyên nhân của bệnh. Chúa Giêsu muốn dùng việc chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội.
(2) Chúa Giêsu là Thiên Chúa: Ngoài ra, như mấy kinh sư tin tưởng: Chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội; mà Chúa Giêsu có quyền tha tội; cho nên Ngài phải là Thiên Chúa. Như thế, lời kết tội Chúa Giêsu của các kinh sư "Ông này nói phạm thượng!" là sai.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải tỏ lòng tôn kính và khiêm nhường mỗi khi đọc hay lắng nghe Lời Chúa, vì những lời này sẽ trở thành những bằng chứng để kết tội chúng ta.
- Chúng ta đừng bao giờ có thái độ khinh thường, phê bình, và gây thiệt hại cho các ngôn sứ vì những lời họ rao giảng. Nếu chúng ta làm như thế, chúng ta sẽ gây htêm tội cho mình mà vẫn không thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa. Điều tốt hơn là hãy cẩn thận suy xét coi những lời đó ảnh hưởng tới chúng ta làm sao và mau mắn thi hành.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên,OP.
Thứ Năm tuần 13 thường niên
Sứ điệp: Chữa lành thân xác con người là việc rất cần thiết. Nhưng chữa lành linh hồn còn quan trọng hơn bội phần. Chúa muốn chúng ta hãy trân trọng tâm hồn mình và mọi tâm hồn khác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi người bất toại đến với Chúa, chắc chắn anh chỉ muốn Chúa chữa lành thân xác, và chỉ một mục đích duy nhất ấy mà thôi. Nhưng đối với Chúa thì khác. Chúa nhìn thấy tâm hồn anh đáng quý hơn thân xác bội phần. Vì thế, trước hết Chúa đã nói với anh lời tha thứ. Chúa đã cứu chữa tâm hồn anh trước. Chúa ban lại cho anh sự sống cả trong tâm hồn lẫn nơi thân xác.
Vâng, Chúa ơi, con cũng cần Chúa ban ơn tha thứ, vì con đã coi rẻ tâm hồn mình. Con dùng thật nhiều thời giờ cho công việc làm ăn, nhưng lại tiếc với Chúa ít phút cầu nguyện. Con tiêu nhiều tiền bạc trong cuộc vui giải trí, mà không biết sử dụng tiền bạc để làm phúc hoặc giúp việc công ích. Con miệt mài học hành trau dồi kiến thức, nhưng lại so đo tính toán hơn thiệt khi cần bồi dưỡng đời sống tâm linh. Xin Chúa tha thứ và cho con biết quý trọng linh hồn mà Chúa đã cứu chuộc bằng giá máu của Chúa.
Lạy Chúa, người bất toại đã nhiều năm tháng yên ổn trên giường. Nhưng khi được Chúa chữa lành, chính chiếc giường ấy lại đè nặng vai anh trên đường về nhà. Mặc dù thế, anh vẫn hân hoan vì đã được tha thứ và được chữa lành. Lạy Chúa, khi chữa lành linh hồn con, Chúa cũng muốn con chấp nhận những hy sinh nào đó để con được lớn lên, được Chúa giải thoát. Xin Chúa thương giúp con. Amen.
Ghi nhớ : "Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".

05/07/12 THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 13 TN
Th. Antôn Maria Dacaria, linh mục
Mt 9,1-8

“KHÔNG AI LÀ MỘT HÒN ĐẢO”

Người ta liền khiêng đến cho người một kẻ bại liệt nằm trên giường. (Mt 9,2)

Suy niệm: Chứng bệnh bại liệt tuy không ghê sợ như bệnh phong hủi, nhưng nó cũng là đáng sợ, khi làm cho người bệnh tê liệt, không còn khả năng tự mình hoạt động như mình muốn. Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta một bài học thật cảm kích: tấm lòng nhân ái của những người khiêng bệnh nhân đến với Chúa Giê-su, tình thương của họ đã bù đắp những khiếm khuyết nơi người bại liệt và nhờ đó anh ta đã đến được với Chúa Giê-su và được chữa lành.

Mời Bạn: Ngày nay, bại liệt hầu như không còn là một chứng bệnh hiểm nghèo: người ta được tiêm chủng phòng ngừa ngay khi còn là trẻ sơ sinh. Thế nhưng, chứng bại liệt tinh thần vẫn còn là một căn bệnh đáng sợ, khi mà con người ngày nay dễ dàng mất đi khả năng phân định tốt xấu, không đủ sức mạnh để chọn lựa, bênh vực cho chân lý và sự thật, kéo theo biết bao vấn đề xã hội: bất công, tham nhũng, hối lộ, nạo phá thai, ăn chơi truỵ lạc… Bao kế hoạch hành động chỉ là “phong trào” nếu không trị tận căn chứng bại liệt tinh thần này.

Sống Lời Chúa: Tại môi trường bạn đang sinh sống và làm việc có những ai đang mắc những chứng bệnh bại liệt nào đối với những giá trị Tin Mừng? Bạn hãy cùng với vài người thiện chí “khiêng” họ đến với Chúa Giê-su bằng những lời nói chân thành, nụ cười cảm thông và hành động giúp đỡ thiết thực của bạn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Vua Tình Yêu! Thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con thật quá nhỏ, xin ban cho chúng con trái tim bén nhạy và đôi tay rộng mở để chúng con luôn sẵn sàng đến với những anh chị em đang cần tình thương và sự nâng đỡ. Amen.




Thấy họ có lòng tin
Suy nim:
Khiêng một người bất toại trên một cái giường là điều không dễ.
Chẳng biết có mấy người khiêng và khiêng bao xa?
Chẳng rõ tương quan giữa họ ra sao, có phải là bạn bè, họ hàng không?
Có điều chắc là anh bất toại không thể tự mình đến với Thầy Giêsu được.
Chân của anh có vấn đề, và thời ấy không có xe lăn như bây giờ.
Anh cần đến sự giúp đỡ của bạn bè quen biết.
Và đã có những người đáp lại vì tình thương đối với anh chịu tật nguyền.
Rồi đã có một cuộc hẹn, và sau đó cả nhóm lên đường.
Tình bạn làm cho đường đến nhà của Thầy Giêsu ở Caphácnaum gần hơn.
Nhưng vất vả, nhọc nhằn thì vẫn không tránh được.
Đưa người bất toại đến với Thầy Giêsu quả là một kỳ công,
vì trong Tin Mừng theo thánh Máccô, họ đã phải đưa người bệnh xuống
qua một lỗ thủng ở trên mái nhà, bởi lẽ không có đường nào khác! (Mc 2, 4).
Dù sao Thầy Giêsu cũng đã thấy lòng tin của họ (c. 2).
Lòng tin là cái bên trong, nhưng được lộ ra ngoài.
Cả người bất toại lẫn các người khiêng đều có chung một lòng tin.
Tin rằng đến với Thầy Giêsu là thế nào cũng được khỏi.
Họ nuôi một niềm hy vọng lớn: khi trở về không phải khiêng nhau nữa.
Anh bất toại có thể đi được bằng đôi chân của chính mình,
và đi ngang hàng với những người bạn khác.
Tin, yêu và hy vọng là những tâm tình có trong tim của nhóm bạn này.
Không có những điều đó thì cũng chẳng có phép lạ khỏi bệnh.
Ơn Thiên Chúa vẫn đến với con người ngang qua lòng tốt của con người.
Nhưng lạ thay Thầy Giêsu lại có vẻ không màng đến chuyện chữa bệnh.
Thầy nói với người bất toại: “Các tội của anh được tha thứ” (c. 2).
Ơn đầu tiên người bất toại nhận được là một ơn mà anh không xin,
ơn đó không phải nơi thân xác, nhưng nơi linh hồn.
Hẳn Thầy Giêsu không có ý nói rằng anh bị tật là vì đã phạm tội.
Nhưng Ngài muốn cho thấy uy quyền của lời Ngài nói.
Lời này có thể tha tội và lời này cũng có thể chữa lành.
Nếu các kinh sư nghĩ rằng Ngài đã nói phạm thượng (c. 3),
dám tiếm quyền tha tội dành cho một mình Thiên Chúa,
thì Ngài sẽ chứng tỏ cho họ thấy Ngài có quyền tha tội dưới đất.
Ngài bảo anh bất toại: “Đứng dậy, vác chõng mà đi về nhà” (c. 6).
Ngài đã không chọn điều dễ hơn (c. 5), điều khó kiểm chứng.
Anh bất toại đã đứng dậy và đi về nhà cùng với các bạn của anh.
Anh đã được hơn cả điều anh mong ước, đó là hồn an xác mạnh.
Đức Giêsu có quyền giải phóng ta khỏi bệnh tật và tội lỗi.
Tội lỗi cũng làm ta bất toại, không đến được với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhưng Đức Giêsu đã muốn chia sẻ quyền này cho “loài người” (c. 8).
Môn đệ của Ngài vẫn làm thừa tác vụ chữa lành và tha tội cho đến tận thế.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã giúp cho bao người què đi được trên đôi chân của mình.
Chúa đã làm cho người bất toại
nằm chờ đợi nhiều năm bên hồ nước
bất ngờ trỗi dậy, vác chõng và bước đi.
Chúa đã làm cho người bất toại
mà bạn bè vất vả đưa xuống từ lỗ hổng của mái nhà,
được khỏi bệnh, lòng bình an vì được tha thứ.
Chúa đã cho kẻ bại tay được đưa tay ra
và tay anh trở lại bình thường.
Bất toại trên thân xác thật là điều đáng sợ.
Nhưng đáng sợ hơn là thứ bất toại của tâm hồn.
Có thứ bất toại làm chúng con không đến được với người khác,
dù nhà họ ở kế bên nhà chúng con,
không đến được với Chúa, dù Chúa vẫn luôn chờ đợi.
Có thứ bất toại làm chúng con không thể đưa tay ra
để bắt tay người đối diện hay để chia sẻ một món quà.
Có thứ bất toại làm trái tim chúng con khô cứng,
hững hờ trước nỗi đau của người anh em.
Xin giúp chúng con ra khỏi
những thành kiến và mặc cảm, thù oán và ghen tương,
để chuyển động mềm mại hơn dưới sự tác động của Chúa.
Xin cũng giúp chúng con biết khiêm tốn
nhìn nhận sự bại liệt của mình,
và chấp nhận để người khác đưa mình đến gặp Chúa.

 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".
Phép lạ và Lời Chúa
Khi Đức Giêsu xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Và kìa, người ta khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!” Và kìa mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: “Ông này nói phạm thượng.” (Mt. 9, 1-3)
Đức Giêsu, người hay làm phép lạ
Nếu đọc một mạch hết các Phúc âm, người ta có cảm tưởng là Chúa Giêsu đã làm vô số các phép lạ. Phải nói là rất nhiều, nên các thánh ký đã cẩn thận lưu ý ta rằng còn nhiều phép lạ khác không được kể lại trong các sách Phúc âm.
Điều này khiến ta có thể đặt ra ít nhiều câu hỏi: Tại sao Chúa Giêsu đã thực hiện nhiều việc lạ lùng như vậy? Tại sao thời Chúa Giêsu các phép lạ thường hay xảy ra, còn thời chúng ta thì hiếm có thế? Tại sao có phép lạ?
Ý nghĩa các phép lạ
Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để có ý phô trương hay làm lóa mắt người ta, càng không phải để mời mọc những kẻ tin vào Người hy vọng mình có được một cuộc sống chan hòa những cảnh tuyệt vời, lạ lùng, và phi thường.
Sinh thời, các phép lạ Chúa làm đều đáp ứng những mục tiêu rõ rệt. Các phép lạ ấy có mục đích chỉ cho ta thấy Đức Giêsu đúng là Con Thiên Chúa. Các phép lạ ấy cũng tỏ cho thấy Chúa Cha đã ban cho Người cũng như cho những kẻ kế vị Người những quyền năng thiêng liêng. Nhất là các phép lạ được thực hiện cốt để người ta tin vào lời của Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Trích đoạn Phúc âm ta đọc lại hôm nay nói lên ý nghĩa này rõ rệt. Dân chúng ngạc nhiên trước tiên không phải vì người bại liệt được chữa khỏi, nhưng vì phép lạ ấy chứng tỏ việc “Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền tha tội”. Phép lạ như con dấu chứng thực cho sự việc này.
Thiên Chúa còn làm phép lạ nữa không? Chắc chắn, còn. Nhiều không? Ai dám nói được điều này. Có một điều chắc chắn. Ay là ta không được nuôi dưỡng lòng tin của mình bằng các phép lạ, nhưng phải bằng Lời Chúa.
  

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 7 
5 THÁNG BẢY
Tính Tự Trị Của Các Vật Thụ Tạo
Mặc dù cách diễn tả của Thánh Kinh gán quyền cai quản mọi loài trực tiếp cho Thiên Chúa, chúng ta vẫn có thể nhận ra rõ ràng sự khác biệt giữa hành động của Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa – và hoạt động của các thụ tạo. Đó là sự khác biệt giữa nguyên nhân đệ nhất và các nguyên nhân đệ nhị. Đây là vấn đề rất thường được đặt ra bởi con người thời nay: Thế giới thụ tạo có được sự tự trị và sự tự do đến mức nào? Đâu là vai trò của con người trong việc phát minh, sáng tạo và xây dựng thế giới?
Theo đức tin Công Giáo, sự khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa làm cho sự quan phòng của Ngài có thể hiện diện trong thế giới – trong khi thế giới thụ tạo vẫn có được một sự tự trị nào đó theo quyền của mình. Công Đồng Vatican II đã đề cập đến mầu nhiệm này. Một đàng, Thiên Chúa giữ gìn mọi sự và làm cho mọi sự có thể là chính chúng: “Chính vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững chãi, chân thực, tốt lành cùng những định luật và trật tự riêng” (MV 36). Đàng khác, nhờ cách thế mà Thiên Chúa cai quản thế giới, các tạo vật – nhất là con người – có thể có được sự tự trị nào đó “theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo” (MV 36).
Sự quan phòng của Thiên Chúa được diễn tả một cách chính xác trong “tính tự trị của các loài thụ tạo”, trong đó cả sức mạnh lẫn sự ân cần của Thiên Chúa đều được thể hiện. Chúng ta nhận ra rằng – đối với con người – sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ vẫn luôn luôn còn là một sự khôn ngoan nhiệm mầu bao trùm hết thảy mọi sự (“từ chân trời này đến chân trời kia”). Sự quan phòng ấy được nhận ra nơi mọi sự với đầy sức sáng tạo và với trật tự rõ ràng của nó. Tuy nhiên, nó vẫn còn chừa lại nguyên đó vai trò của con người trong việc xây dựng và phát triển thế giới. Đó chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa chúng ta.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 05-7
Thánh Antôn Maria Zaccaria, linh mục;
Am 7, 10-17; Mt 9, 1-8
LỜI SUY NIỆM:
        “Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt” ‘ Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!” (Mt 9, 2).
        Trên trần gian này không ai có thể gánh vác tội của một người khác được, chứ đừng nói đến chuyện tha tội. Người Do-thái thời bấy giờ khi nghe Chúa Giêsu nói: “tội anh đã được tha” họ lấy làm khó chịu, vì họ tin chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Họ quan niệm bệnh tật là hậu quả của tội, nếu bệnh tật mà biến mất, là chứng thực tội đã được tha. Chúa Giêsu đã tỏ quyền năng đó.
        Chính hôm nay, nếu mỗi một người chúng ta tin và đến với Ngài; chúng ta cũng được Chúa Giêsu nói cùng câu ấy “tội của con đã được tha rồi”. Tội được tha để chúng ta được bình an và đổi mới tốt đẹp hơn.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 05-07: Thánh ANTÔN MARIA GIACARIA
Linh mục (1502 - 1539)
Thánh Antôn Maria Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người góa phụ trẻ 18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào tạo tâm hồn người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và biết kiên trì hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác ái đối với người nghèo khổ, làm gương cho con.
Thành Grêmôna nơi Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm đóng của người Pháp, dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình cảnh thật khốn khổ. Ngày kia trên đường về học, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho người nghèo mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin cho con được ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.
Thân mẫu Antôn đã chọn cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp và Latinh. Vào tuổi 15, Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo đuổi y học ở Padua. Ở đại học người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó của Ngài. Tốt nghiệp phải cấp bằng tiến sĩ ưu hạng, Ngài được rất nhiều khách hàng tín nhiệm. Nhưng đây lại là thời Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ nghề thuốc để theo môn thần học.
Antôn Giacaria bắt đầu tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các chân lý cao trọng. Cha mẹ chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói : - Nào chúng mình đến nghe thiên thần của Chúa.
Tay cầm thánh giá, thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu chuộc và việc thống hối. Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng lui tới hơn.
Năm 1528, lúc được 36 tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở Milan, thăm viếng các người đau khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi các xóm nghèo. Các nghĩa cử Ngài làm đã mang lại cho Ngài danh hiệu "người cha dân tộc". Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái thệ phản và đối đầu với bất cứ ai muốn tấn công đức tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người bạn tông đồ là Mariggia và Ferrari. Đức giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một hội dòng mới, các tu sĩ dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc thánh đường thánh Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.
Thánh Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh: - "Đặc tính của những tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho người khác".
Ngài dạy họ phải quen với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như vậy được nếu không hướng trọn ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện chưa nên của ăn nuôi sống linh hồn. Các linh mục và cả hàng giáo sĩ đã bắt đầu. Chiều về anh em họp nhau lại để thú tội. Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh giá mà rao giảng. Họ còn tự động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc trong khi một số khác đi ăn xin cho người nghèo.
Thấy vậy, nhiều người thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ động lòng sùng kính Thánh Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ rước lễ một hai lần trong năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự nhiệt thành của Ngài là cuồng tín dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm nghiệm điều Ngài thường nói : - Bạn sẽ được thấp nhập vào Chúa đến độ không còn lo tưởng đến những sự trên thế gian này nữa.
Năm 1530, Ngài giúp nữ công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức giáo hoàng Phaolô III đã chuẩn y hội dòng này và đặt tên là "Dòng chị em các thiên thần".
Năm 1536, cha Antôn Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu để đi truyền giáo. Ngài rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp. Công việc thật bề bộn, không thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn trung thành với tác vụ, các cuộc tĩnh tâm và thư tín.
Tuy nhiên lần này, tại Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh, Ngài lui về với thân mẫu. Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói :- Mẹ ơi ! Mẹ đừng khóc nữa. Chẳng bao lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong vinh quang bất tận mà bây giờ con đang tiến vào.
Ba giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 1593, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria Giacaria thở hơi cuối cùng trong tay mẹ hiền.
(daminhvn.net)
++++++++++++++++++
05 Tháng Bảy
Con Người Tự Do

Ðại thi hào Rabindranath Tagore của Ấn Ðộ có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Khi còn trẻ, tôi cảm thấy tràn đầy năng lực... Một buổi sáng nọ, tôi ra khỏi nhà và hô lớn: "Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Thế là tôi hăm hở lên đường và trong tư thế sẵn sàng phục vụ bất cứ ai chờ đợi. Từ đằng xa, đức vua và đoàn tùy tùng tiến đến. Vừa nghe tiếng tôi, ngài đã dừng lại và nói với tôi: "Ta đưa ngươi vào cung hầu hạ ta và bù lại, ta sẽ ban cho ngươi quyền hành". Ngẫm nghĩ, không biết dùng quyền hành để làm gì, tôi đành lặng lẽ bỏ đi...
Tôi tiếp tục ra đi và hô lớn: "Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Chiều hôm đó, có một cụ già ngỏ ý thuê tôi và để đền bù, cụ cho tôi những đồng bạc mà âm thanh vang lên như bản nhạc. Nhưng tôi cảm thấy không cần tiền bạc, cho nên đành tiếp tục ra đi.
Tôi tiếp tục ra đi và tiến gần đến một căn nhà xinh đẹp. Một em bé gái xinh đẹp chào tôi và đề nghị với tôi: "Tôi thuê anh và bù lại, tôi sẽ tặng cho anh nụ cười của tôi". Tôi cảm thấy do dự. Một nụ cười sẽ kéo dài bao lâu? Chỉ trong chớp nhoáng, cô bé đã biến vào bóng tối...
Khi tôi rời bỏ căn nhà xinh đẹp, thì trời cũng đã tối. Tôi ngã người trên thảm cỏ và ngủ thiếp. Sáng ngày hôm sau, tôi thức giấc trong sự mệt mỏi. Khi mặt trời vừa lên, tôi đi lần ra bãi biển. Một cậu bé đang chơi đùa trên cát. Vừa thấy tôi, nó ngẩng đầu lên, mỉm cười như thể đã từng quen biết với tôi. Một lúc sau, nó nói với tôi: "Tôi sẵn sàng thuê anh và bù lại, tôi không có gì để cho anh cả". Tôi đón nhận ngay giao kèo của cậu bé. Và chúng tôi bắt đầu chơi đùa với nhau trên bãi cát. Những người qua lại ngỏ ý muốn thuê tôi, nhưng tôi từ chối, bởi vì từ ngày hôm đó, tôi mới thực sự cảm thấy mình là một con người tự do.
Không gì quý bằng độc lập tự do: không chừng câu khẩu hiệu quen thuộc này ứng dụng một cách rất xác thực vào đời sống Ðức Tin của chúng ta... Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Thoát, bởi vì Ngài đến để giải phóng chúng ta, Ngài đến để làm cho chúng ta được tự do. Và tự do mà Ngài mang lại cho chúng ta là gì nếu không phải là tự do khỏi tội lỗi, tự do khỏi đam mê, tự do khỏi ích kỷ, tự do khỏi danh vọng, tiền bạc và tất cả những gì ràng buộc con người...
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 05

Thánh Antôn-Maria 
Zaccaria, linh mục
Thứ năm đầu tháng

Chúc Anh Chị Em ra đi trong bình an của Đức Kitô
 
Lời linh mục đọc cuối lễ, nhân danh Giáo Hội, trả ta về với công việc thường ngày: "Chúc Anh Chị Em ra đi bình an." Điều này cũng có nghĩa là: "Anh Chị Em hãy lên đường thi hành sứ mạng bởi vì trong bàn tiệc mà Chúa Cha dọn sẵn cho con cái Ngài, còn quá nhiều chỗ trống. Thần Khí là Đấng bảo tổn niềm hy vọng, chứ không phải là ngưòi cung cấp sự lười nhác mộng mơ. Ngài cho ta biết hoàn cảnh loài người chúng ta phong phú thế nào và thật sự ra sao. Ngài xây dựng Thân Thể đích thực của Đức Kitô từ "tấm bánh được bẻ ra vì một thế giới mới".
Trong hình ảnh một tấm bánh duy nhất được bẻ ra nhiều mảnh để ai ai cũng được dự phần, có một giáo huấn thật phong phú.Thần Khí dẫn đưa ta, vì lòng mến phát xuất từ Chúa Cha, ra đi xây dựng lại sự hiệp nhất hài hòa của tấm bánh đã được ta chia sẻ cho nhau. Thánh Tôma Aquinô dạy rằng sự hiệp nhất của Giáo Hội Thân Thể Đức Kitô chính là hoa trái đầu tiên của Bí Tích Thánh Thể. Như thế chính nhờ Bí Tích Thánh Thể mà Giáo Hội, Thân Thể Đức Kitô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần, được xây dựng.

Philippe Ferlay

(DDB)

Thứ Năm 5-7

Thánh Antôn Zaccaria


(1502-1539)
K
hi Martin Luther tấn công những lạm dụng trong Giáo Hội, lúc ấy một phong trào canh tân đang manh nha thành hình. Trong số những người của phong trào có Thánh Antôn Zaccaria.
Thuộc dòng dõi quý tộc, cha của Antôn Zaccaria mất sớm khi ngài mới hai tuổi, và mẹ ngài, người goá phụ 18 tuổi, ở vậy nuôi con. Bà tận tụy dạy dỗ đạo lý cho con ngay từ nhỏ. Khi 22 tuổi, Antôn lấy bằng tiến sĩ y khoa và làm việc ở Cremona, giúp đỡ người nghèo và siêng năng hoạt động tông đồ. Ngoài phần xác của con bệnh, ngài còn lo lắng đến phần hồn của họ, ngài là một giáo lý viên và được thụ phong linh mục lúc 26 tuổi.
Ðược sai đến Milan trong một vài năm, Cha Antôn Zaccaria thành lập hai tu hội, một cho nam giới và một cho nữ giới. Mục đích của tu hội là canh tân xã hội đang sa sút vào thời ấy, bắt đầu từ hàng giáo sĩ và tu sĩ.
Vì rất cảm kích Thánh Phaolô, Cha Antôn Zaccaria đặt tên cho tu hội là Bácnabê -- tên bạn đồng hành của Thánh Phaolô -- và ngài hăng say rao giảng ở trong nhà thờ cũng như ngoài đường phố, tổ chức các nhóm truyền giáo và không xấu hổ khi công khai ăn năn sám hối. Ngài còn khuyến khích những hình thức sinh hoạt mới mẻ, như giáo dân cộng tác trong công việc tông đồ, siêng năng rước lễ, chầu Thánh Thể và rung chuông nhà thờ vào 3 giờ chiều thứ Sáu hàng tuần.
Sự thánh thiện của Cha Antôn đã khích lệ nhiều người thay đổi đời sống, và như tất cả các vị thánh khác, ngài cũng bị nhiều người chống đối. Hai lần, tu hội của ngài phải chịu sự điều tra của các giới chức trong Giáo Hội, và cả hai lần đều được miễn trừ.
Ðang khi trên đường công tác hòa giải, ngài bị bệnh nặng và được đưa về thăm người mẹ. Ngài từ trần ở Cremona khi mới 36 tuổi.

Lời Bàn

Sự hăng say canh tân của Thánh Antôn Zaccaria có lẽ khiến nhiều người ngày nay "thất vọng". Vào thời điểm mà nhiều người trong Giáo Hội lẫn lộn giữa thế quyền và thần quyền, thì lời rao giảng, lối sống của Thánh Antôn không khác gì một cản trở cần diệt trừ. Nhưng lối sống ấy đích thực là linh đạo của Ðức Kitô, một Ðấng bị đau khổ, bị đóng đinh. Chúng ta cũng không thể "cao trọng hơn Thầy", và con đường thập giá luôn luôn là con đường dẫn đến vinh quang.

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét