Trang

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

21-08-2014 : THỨ NĂM TUẦN XX MÙA THƯỜNG NIÊN

21/08/2014
Thứ Năm sau Chúa Nhật 20 Quanh Năm
Thánh Piô 10, giáo hoàng. Lễ nhớ.

* Thánh nhân sinh năm 1835 tại Ri-ê-sê, nước Ý. Sau khi làm linh mục, người dấn thân thi hành việc mục vụ. Người làm giám mục Man-tô-va, rồi làm thượng phụ giáo chủ Vê-nê-xi-a và cuối cùng, năm 1903, được chọn làm giáo hoàng. Người chu toàn bổn phận của mình theo khẩu hiệu người đã chọn: “Canh tân mọi sự trong Chúa Kitô” với lòng đơn sơ, đời sống thanh bần và can đảm. Cùng với những đức tính ấy, người đã giúp các tín hữu sống đạo nhiệt thành và đối phó với những sai lầm đang lan tràn trong Hội Thánh. Người qua đời ngày 20 tháng 08 năm 1914.

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 36, 23-28
"Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, và đặt giữa các ngươi một thần trí mới".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa phán: Ta sẽ thánh hoá danh cao cả Ta đã bị xúc phạm giữa các dân tộc, nơi mà các ngươi đã xúc phạm danh thánh Ta, để các dân tộc biết Ta là Chúa, Thiên Chúa các đạo binh phán, khi Ta tự thánh hoá nơi các ngươi trước mặt họ. Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi từ các nước, và dẫn dắt các ngươi trên đất các ngươi. Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi sạch mọi vết nhơ các bụt thần. Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, đặt giữa các ngươi một thần trí mới, cất khỏi xác các ngươi quả tim bằng đá và ban cho các ngươi quả tim bằng thịt. Ta đặt thần trí Ta giữa các ngươi, làm cho các ngươi thực thi các huấn lệnh Ta, làm cho các ngươi tuân giữ và thực hành các lề luật Ta. Các ngươi sẽ cư ngụ trong xứ Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ là dân Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 50, 12-13. 14-15. 18-19
Ðáp: Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ (Ed 36, 25).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ; với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.
3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Ðáp.

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 22, 1-14
"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!" Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".

Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Tiệc Cưới , Áo Cưới

Dụ ngôn tiệc cưới và chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong những tâm tình cơ bản nhất của Kitô giáo, đó là hân hoan, vui mừng. Kitô giáo thiết yếu là đạo của Tin Mừng.
Trong rất nhiều sinh hoạt và hình ảnh của cuộc sống, Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một tấm bánh và uống một chén rượu với họ.
Không những đồng bàn với những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta, Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.
Bữa ăn là nơi thể hiện của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Ðến đây, chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Có người đã tưởng tượng ra Thiên đàng, hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm trong tay một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được, nhưng không thể đưa thức ăn vào miệng. Bàn tiệc trên Thiên đàng cũng y hệt, nhưng khác một điều, là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn và đưa vào miệng người đối diện, thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn uống no nê.
Ước gì niềm vui bàn tiệc thánh mà chúng ta tham dự cũng được tiếp tục thể hiện trong đời thường của chúng ta. Ước gì cả cuộc sống chúng ta luôn được diễn ra trong gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, vui tươi, nhờ đó chúng ta cảm nhận được niềm vui đích thực của Nước Trời và thắng vượt được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 20 TN2
Bài đọc: Eze 36:23-28; Mt 22:1-14.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải luôn biết quí trọng những hồng ân Thiên Chúa ban.
Con người dễ rơi vào thái độ nhàm chán và khinh thường những gì họ đã quá quen thuộc. Một khi họ đã trở nên quá quen với những ân huệ và đặc quyền được hưởng, họ có khuynh hướng khinh thường chúng. Để có thể nhận ra và quí trọng của những ân huệ và đặc quyền được hưởng, con người nhiều khi cần phải đổi môi trường sinh sống. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, nhiều khi đã quá quen với chương trình phụng vụ của gia đình hay giáo xứ, con người trở nên khô khan nguội lạnh. Những lúc như thế, con người cần có một luồng khí mới để làm sống lại tinh thần hăng say phấn khởi của thuở ban đầu.
Các bài đọc hôm nay nêu bật thói quen nhàm chán và khinh thường này. Trong bài đọc I, vì người Do-thái khinh thường tình yêu và sự bảo vệ của Thiên Chúa, Ngài để cho quân thù đến phá tan tất cả và đem họ đi lưu đày. Sống trong nơi lưu đày, họ có thời gian suy nghĩ và nhận ra tình yêu và đặc quyền Thiên Chúa đã ban, họ hối hận và trở lại cùng Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng một dụ ngôn để bày tỏ nỗi lòng yêu thương của Ngài: Ngài xuống trần là để đem Tin Mừng trước tiên cho người Do-thái; nhưng vì họ không chịu tiếp nhận, nên Tin Mừng được đem đến cho tất cả những ai mở lòng đón nhận.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Quả tim mới, thần khí mới.
Dân Do-Thái đã được Thiên Chúa thương yêu cách đặc biệt nên được chọn làm Dân Riêng của Chúa và cho hưởng những đặc quyền hơn tất cả những Dân Ngoại khác: Ngài đã dẫn ra họ ra khỏi cảnh nô lệ bên Ai-Cập, dạy dỗ và ban cho họ Thập Giới, cho họ đánh đuổi các dân khác và định cư nơi Đất Hứa… Chính họ đã từng hãnh diện vì chưa có một thần linh nào xuống ở cùng và ban những điều luật như Thiên Chúa của họ. Thế nhưng, sau khi đã trở thành một dân tộc mạnh mẽ và giàu có, họ khinh thường Chúa, họ chạy theo các thần ngoại và vi phạm các giới răn của Ngài.
Để cho họ nhận ra những lầm lỗi của họ và những đặc ân Thiên Chúa đã làm cho họ, Ngài để cho ngọai bang xâm lấn và bắt đi lưu đày bên Assyria và Babylon. Sống trong cảnh khổ cực nơi lưu đày, họ hồi tưởng lại quá khứ và nhận ra tình thương và sự che chở của Chúa, nhận ra sự cần thiết của Đền Thờ và tuân giữ giới răn của Chúa. Họ ăn năn trở lại và Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội họ đã phạm và cho quay trở về cố hương để xây dựng lại Đền Thờ.
Trong trình thuật hôm nay, ngôn sứ Ezekiel nhìn thấy trước Thiên Chúa không chỉ cho họ hồi hương và xây dựng lại Đền Thờ, Thiên Chúa còn thanh tẩy và thánh hóa họ từ bên trong để họ có thể xứng đáng làm Dân Riêng của Ngài, như tiên tri viết: “Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành. Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.”
Luật lệ Thiên Chúa đã ban sẽ không bao giờ thay đổi. Điều cần được thay đổi là trái tim con người. Thiên Chúa sẽ cất đi trái tim cứng lòng chai đá và thay vào đó bằng quả tim bằng thịt, quả tim biết yêu thương. Một khi con người đã hết lòng yêu Chúa thì họ sẽ tuân giữ các Lề Luật của Ngài.
2/ Phúc Âm: Tiệc Cưới Nước Trời.
Cùng một tư tưởng như Bài đọc I, Chúa Giêsu muốn nói cho những người Do-thái biết họ được đặc quyền Thiên Chúa ban để lắng nghe Tin Mừng trước hết; nhưng vì sự cứng lòng của họ nên Tin Mừng được loan báo đến cho Dân Ngoại. Để quảng diễn điều này, Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: "Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!" Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng.”
Vì những khách được mời từ chối không chịu tham dự, nên đặc quyền bị lấy đi, và chủ cho lệnh mời tất cả những người khác, cho dẫu là những khách qua đường. Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách. Vì người Do-thái từ khước đón nhận Tin Mừng, nên Thiên Chúa truyền các tông-đồ đem Tin Mừng đến cho tất cả các Dân Ngoại, và số người tin Chúa càng ngày càng phát triển.
Nhiều người có lý do để thắc mắc làm sao khách qua đường có thể chuẩn bị để mặc y phục lễ cưới như chủ đòi; nhưng chủ cũng có lý nói lại rằng nếu từ chối không tham dự thì không sao, nhưng một khi đã nhận lời mời thì cũng phải mặc y phục lễ cưới. Ai muốn vào Nước Trời cũng đều phải tuân theo những luật lệ của Nước Trời đòi hỏi.
Lời cuối cùng của Phúc Âm là một lời cảnh tỉnh cho những người coi thường những hồng ân và đặc quyền Thiên Chúa đã ban: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” Nếu họ không biết dùng những hồng ân và đặc quyền Chúa ban, Chúa sẽ lấy đi và trao cho người biết xử dụng để sinh lời hơn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thói quen làm con người nhàm chán và khinh thường những gì được hưởng. Chúng ta cần phải dành thời giờ hồi tâm thường xuyên để nhận ra những ơn lành của Thiên Chúa đã ban xuống trong cuộc đời của mỗi người, gia đình, và cộng đoàn.
- Nhiều khi chúng ta cần đổi chỗ để nhận ra và biết quí trọng những gì mình đang được hưởng: giầu sang ra nghèo khó, tự do ra nô lệ, khỏe mạnh ra yếu ớt… Đau khổ cần có để thanh tẩy con người.
- Điều quan trọng cần phải thay đổi là thay đổi từ bên trong tâm hồn và trái tim cũ, để mặc lấy trái tim mới và thần khí mới. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, nhưng cần sự cộng tác của chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM - MÙA QUANH NĂM - TUẦN 20
Mt 22,1-14

A. Hạt giống...
Dụ ngôn tiệc cưới :
- Tiệc cưới là Nước Trời
- Những khách được mới đợt đầu nhưng từ chối là dân do thái
- Những khách được mời đợt sau là chư dân
Trong dụ ngôn này có hai chi tiết hơi khó hiểu là :
- Vua ra lệnh phá huỷ thành phố của những người không đáp lời mời : ám chỉ việc thành Giêrusalem bị phá huỷ năm 70.
- Một người vào dự tiệc mà không mặc áo cưới nên bị phạt : áo cưới chỉ nếp sống mới. Được gia nhập Nước Trời mà không có một nếp sống mới thì cũng sẽ bị phạt trong ngày phán xét.

B.... nẩy mầm.
1. So với dân Do thái, chúng ta chính là những người tốt có xấu có vất vơ ở các ngã ba đường nhưng được Chúa mời vào Giáo Hội. Hãy tạ ơn Chúa.
2. Câu chuyện người không mặc áo cưới là một lời cảnh giác chúng ta : để xứng đáng với tấm lòng của Chúa, chúng ta phải cố gắng hoán cải, có một nếp sống mới. Không phải nguyên việc ở trong Giáo Hội là bảo đảm cho ơn cứu độ đâu. Thánh Phaolô đã kêu gọi hãy từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới.
3. Tiệc cưới và áo cưới tượng trưng cho những tâm tình cơ bản mà người kitô hữu phải luôn có, đó là hân hoan, vui mừng và yêu thương.
Có người đã tưởng tượng ra thiên đàng và hoả ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hoả ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được nhưng không thể nào đưa vào miệng. Bàn tiệc trên thiên đàng thì cũng y hệt, nhưng khác một điều là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn đưa vào miệng người đối diện. Thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn no nê. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. Ngày nay chúng ta có thể “đọc lại” (relecture) dụ ngôn này và hiểu đợt khách được mời đợt thứ nhất là chính chúng ta
- “Mọi sự đã sẵn, xin mời đến dự tiệc” : Chúa dọn sẵn cho ta hai bàn tiệc là Thánh Thể và Lời Chúa. Đến đó, chúng ta sẽ được bồi dưỡng mọi thứ cần thiết. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta từ chối.
- Cũng như những người trong dụ ngôn, chúng ta coi việc “đi thăm trại” và “buôn bán” (những việc làm ăn, vui chơi) trọng hơn bàn tiệc của Chúa.
5. “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời không xứng đáng. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, mời ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” (Mt 22,89)
... Và tiếng còi của trọng tài đã vang lên, kết thúc trận đấu chung kết của khoa.
Và đó cũng là tiếng còi khai mạc cho những tràng vỗ tay, những niềm vui hân hoan của những cổ động viên (là những thành viên trong lớp tôi)
Trước đây tinh thần này không thấy được  trong lớp tôi, các bạn trong lớp chia băng, kết bè ít quan tâm tới việc lớp, chuyện của bạn... mỗi người theo chủ nghĩa “Mackeno” (“mặc kệ nó”)
Đội bóng lớp tôi đã đạt được chức vô địch khoa. Nhưng cao quý hơn nữa là mỗi người đã phá vỡ cái tôi, bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, con người của sự yêu thương, chăm sóc, con người của tình đoàn kết, hoà đồng.
Lạy Chúa, xin cho con biết đến với anh em, xóa bỏ mặc cảm tự ti, để có thể hoà nhịp với dòng người vào tiệc cưới trong nhà Cha. (Hosanna)
6. Nhà vua sai những đầy tớ khác đi và dặn họ : “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng này cỗ bàn ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn sàng. Mời quý vị đến dự tiệc cưới. Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới lại bỏ đi...” (Mt 24,4-5)
Kết thúc cuộc chiến, một người lính trẻ đã viết thư về cho cha mẹ báo tin ngày về : “Thưa cha mẹ, con có người bạn từng chiến đấu sống chết với con, nay đã thành kẻ tàn phế. Chiến tranh cướp đi người bạn con đôi tay. Con muốn anh ta sống chung với gia đình mình để con có thêm người bạn.” Người cha đã hồi âm : “Không được con ơi, một người tàn phế như vậy thì có ích gì !” Nhận được thư, người con đã quyết định không bao giờ trở về bởi vì con người tàn phế đó không ai khác, chính là anh !
Khác xa người cha trong câu chuyện, Chúa chẳng bao giờ chối bỏ con. Trái lại, Chúa vẫn tiếp tục gõ cửa nhà từng người chúng con để mời gọi chúng con dự phần vào sự sống  và niềm vui của Chúa, nhưng nhiều khi chúng con đã khước từ. Xin tha thứ và cho chúng con luôn biết đến với Chúa với tấm lòng của người con thảo. (Hosanna)

Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

21/08/14 THỨ NĂM TUẦN 20 TN
Th. Pi-ô X, giáo hoàng
Mt 22,1-14

Suy niệm: Tại sao có người chối từ tiệc cưới của nha vua - biểu tượng của hạnh phúc Nước Trời - bằng những lý do vu vơ? Thưa, bởi vì họ không màng đến phần rỗi đời đời. Nói cách khác, vào Nước Trời hay không chẳng phải là điều họ quan tâm lúc này, quan tâm của họ là vui chơi, mua bán, làm giàu… Tại sao có người không mặc y phục lễ cưới? – Vì họ cho rằng hễ mời là tôi đi, cần gì phải sắm sửa. Ông chủ cần tôi chứ đâu phải tôi cần ông chủ! Họ là người tin Chúa, nhưng không tôn trọng Ngài, cũng chẳng thực hành các điều răn và Tám Mối Phúc. Như vậy, cả hai hạng người trên đây - chỉ biết cuộc sống trần thế hoặc không nghiêm túc sống đạo - đều đánh mất cơ hội vui hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Mời Bạn: Bạn có quan tâm đến hạnh phúc Nước Trời này không, hay cũng biết rồi để đó? Hoặc có thể bạn ỷ lại vào tình thương của Chúa thái quá, nên chưa sống xứng hợp tư cách người Ki-tô hữu. Bạn hãy bày tỏ lòng kính trọng và tâm tình biết ơn Chúa qua nỗ lực sống đức tin triệt để hơn trong đời sống.
Chia sẻ: Nhắc nhở, tạo điều kiện cho (vợ) chồng, con cái tuân thủ điều răn Chúa, dự lễ và cử hành phụng vụ trong giáo xứ. Những việc này là phương thế thờ phượng Chúa và đồng thời nuôi dưỡng đức tin của gia đình bạn.
Sống Lời Chúa: Tôi cố gắng dự lễ Chúa Nhật và lễ trọng, trừ khi có những lý do bất khả kháng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin đừng để con vì mải mê thế sự mà quên mất việc thờ phượng Chúa. Xin cho con ý thức đó là việc quan hệ nhất trong đời Ki-tô hữu của mình. Amen.

Tiệc cưới đã sẵn sàng
Chúng ta đã được mời và được gọi để sống trong Giáo hội, nhưng chưa chắc chúng ta nằm trong số những người được tuyển chọn.


Suy nim:
Dụ ngôn hôm nay nói về một tình yêu bị từ chối.
Chẳng có gì long trọng và tưng bừng cho bằng tiệc cưới của hoàng tử.
Tiệc cưới này do chính nhà vua khoản đãi với sự chuẩn bị chu đáo.
Vua đã mời các quan khách từ trước, và còn mời nhiều lần sau đó.
Trước những lời mời trân trọng của nhà vua, họ đã chối từ.
Thái độ của quan khách thật không sao hiểu nổi.
Họ chẳng sợ xúc phạm đến nhà vua khi coi chuyện đi buôn và chăn nuôi
quan trọng hơn chuyện dự tiệc cưới hoàng tử (c. 5).
Thậm chí có kẻ còn bắt các đầy tớ, hành hạ và giết đi (c. 6).
Những khách quý bây giờ trở thành kẻ sát nhân.
Họ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ ghê gớm của nhà vua về sự xúc phạm đó.
Như thế tiệc cưới cho hoàng tử sẽ đi về đâu?
Ai là người sẽ được mời tiếp theo, khi những người trước tỏ ra bất xứng?
Nhà vua đã đưa ra một quyết định rất bất ngờ.
“Hãy đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).
Như thế phòng tiệc bây giờ vẫn đầy người được mời, có cả tốt lẫn xấu.
Dụ ngôn trên đây lại được kết nối với một dụ ngôn khác.
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy nhà vua đi vào phòng tiệc
để quan sát cách ăn mặc của những vị khách đến từ đường phố (c. 11).
Có người không mặc y phục lễ cưới và đã bị trừng phạt nặng nề (c. 13).
Tại sao lại phạt anh, khi anh bất ngờ được đưa vào ăn cưới?
Nhưng đừng quên các người khác đều mang y phục lễ cưới đầy đủ,
nên anh chẳng nói được gì để tự biện minh (c. 12).
Lịch sự với Thiên Chúa là điều ta dễ quên.
Ngài vẫn trân trọng mời ta dự tiệc chung vui với Ngài, với Con của Ngài.
“Mọi sự đã sẵn, mời quý vị đến dự tiệc cưới” (c. 4).
Đối với Ngài, sự hiện diện của chúng ta đem lại niềm vui lớn.
Khi đa số dân Do thái, những khách quý được mời trước, từ chối Ngài,
Ngài đã không muốn phòng tiệc bị trống, tiệc cưới bị đình hoãn.
Thiên Chúa chấp nhận mở cửa phòng tiệc cho mọi người.
Họ đến từ muôn phương, có người tốt người xấu, để làm nên Giáo hội.
Giáo hội gồm những người được mời và được gọi một cách nhưng không.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần lịch sự với Thiên Chúa, người chủ tiệc,
cần mặc y phục lễ cưới một cách đàng hoàng.
Y phục ấy chính là một đời sống nghiêm túc theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Các Kitô hữu chúng ta đã được ngồi trong phòng tiệc của Thiên Chúa.
Chúng ta đã được mời và được gọi để sống trong Giáo hội,
nhưng chưa chắc chúng ta nằm trong số những người được tuyển chọn.
Số người được chọn bao giờ cũng ít hơn số người được gọi.
Để vào số những người được chọn, chúng ta phải biết trân trọng ơn ban.
Có khi chúng ta cũng coi chuyện buôn bán làm ăn của mình
quan trọng hơn những lời mời khẩn thiết đến từ Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng ta giữ được ơn cứu độ Chúa đang ban hôm nay?
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Suy niệm
 Ý nghĩa rõ ràng nhất của dụ ngôn này chính là những người Do Thái đã khước từ ơn cứu độ của Chúa. Họ là dân tộc được tuyển chọn, nhưng khi Con Thiên Chúa đến mời gọi họ bước theo Ngài thì họ đã từ chối. Sau cùng, đa phần những người “bên lề”, nghĩa là những người tội lỗi và dân ngoại vào Nước Thiên Chúa. Hậu quả của sự khước từ này thật khủng khiếp. Hậu quả đến ngay trong lịch sử dân tộc Do Thái. Chúa Giêsu đến mời gọi họ bước đi trong con đường yêu thương, phục vụ, họ đã từ chối. Chính vì vậy bộ máy chính quyền Do Thái đã gây nên những phiền nhiễu cho đế quốc Rôma bằng những cuộc nổi loạn, khiến họ chịu không nổi, nên cuối cùng đã phá hủy đền thờ Giêrusalem “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào” đúng như lời tiên báo của Chúa Giêsu.
Kế đến chúng ta cũng thấy được lời mời gọi của Chúa Giêsu là để chúng ta đến với một bữa tiệc vui chứ không phải mời gọi chúng ta đi đám tang, đám giỗ, hay mời gọi chúng ta đến dự buổi tiệc để gây quỹ thiện nguyện. Chúng ta sẽ mất niềm vui đó nếu không nhận lời mời của Chúa.
Những lý do: “Đi nông trại, đi buôn…” không sai trái. Không ai khước từ đi dự tiệc vì lý do bận buôn lậu hoặc làm điếm, nhưng người ta có những lý do chính đáng theo suy nghĩ của người ta. Điều đó cho chúng ta thấy bận tâm đến những điều tạm bợ sẽ làm cho chúng ta quên đi điều vững bền. Nếu chỉ chú ý đến những điều mắt thấy thì sẽ không thể nghe được tiếng gọi thiêng liêng bên trong của Chúa. Vì vậy cái tốt có thể làm mất điều tốt nhất.
Chúng ta đừng để ý đến hình phạt nếu từ chối lời mời gọi của Chúa, nhưng hãy để ý đến những gì chúng ta sẽ mất mát khi không chịu đến với Chúa. Có những điều làm chúng ta tiếc nuối khi bỏ qua. Và không gì làm chúng ta tiếc nuối cho bằng lời mời gọi đến với bữa tiệc đời đời. Điều quan trọng ở chỗ bữa tiệc này là bữa tiệc của ân sủng mà con người chúng ta không bao giờ xứng đáng. Thế nhưng chúng ta cứ để cho những thứ phàm tục lôi kéo khiến chúng ta quên đi ân sủng.
Lạy Chúa, lời Chúa vẫn mời gọi con mỗi ngày để con đến với Chúa dù con chẳng xứng đáng với ân huệ của Chúa. Thế nhưng con còn bận tâm với nhiều thứ, những thứ này xem ra không gì sai trái. Ví dụ công ăn việc làm, công danh sự nghiệp, gia đình, vợ con, chuyện học hành… Vì những điều tốt đó mà con quên đi điều tốt nhất. Xin cho con biết ưu tiên những điều linh thánh trong những chọn lựa hằng ngày của con.
Lm. Thiện Duy


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG TÁM
Chuẩn Mực Của Hoạt Động Con Người
Chúng ta đọc thấy trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II: “Hoạt động của con người phát xuất từ con người nên qui hướng về con người… Nếu được hiểu cho đúng, thì sự phát triển đáng giá hơn mọi của cải có thể thu tích được. Giá trị con người hệ tại ở “cái mình là” hơn hệ tại ở “cái mình có”. Cũng vậy, tất cả cái gì con người làm để đạt tới một mức độ công bình cao hơn, một tình huynh đệ rộng lớn hơn và một trật tự nhân đạo hơn trong các tương quan xã hội, đều quí trọng hơn các tiến bộ kỹ thuật, bởi vì, các tiến bộ ấy tuy có thể cung cấp chất liệu cho sự thăng tiến con người, nhưng tự chúng mà thôi không thể thực hiện được công cuộc thăng tiến ấy…
“Đây là tiêu chuẩn của hoạt động con người: mọi hoạt động con người phải phù hợp với lợi ích đích thực của nhân loại theo như ý định và ý muốn của Thiên Chúa, lại phải giúp con người, cá nhân cũng tập thể, trau dồi và thực hiện ơn gọi phổ quát của mình” (MV 35; 59).
Cũng chính Hiến Chế trên tuyên bố: “Trật tự xã hội và tiến bộ của nó phải luôn luôn nhằm ích lợi của các nhân vị, bởi vì trật tự của muôn vật phải lệ thuộc vào trật tự của các nhân vị chứ không ngược lại. Trật tự xã hội phải phát triển mỗi ngày một hơn, phải đặt nền tảng trên chân lý, xây dựng trong công bình, nuôi sống nhờ tình yêu. Thánh Thần Chúa, Đấng điều khiển những biến chuyển thời gian và canh tân bộ mặt trái đất với sự quan phòng kỳ diệu, đang hiện diện trong cuộc tiến hóa này” (MV 26).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 21-8
Thánh Piô X, Giáo hoàng
Ed 36, 23-28; Mt 22, 1-14.

LỜI SUY NIỆM: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngả đường gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”
Thiên Chúa vì yêu thương con người, nên Ngài mời tất cả hãy đến dự tiệc chung với Ngài. Tiệc cưới, là một tiệc vui. Nhưng trong cuộc sống, mỗi con người đang theo đuổi những đam mê của mình, như tiền bạc, danh vọng, buôn bán, hay mãi mê cuộc vui chơi chè chén say sưa; đã khước từ lời mời gọi của Ngài. Đối với người Kytô hữu nếu chúng ta không đến tham dự chúng ta sẽ mất đi niềm vui trong cuộc sống, mà còn mang án phạt đời đời.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa cho chúng con thấy được nềm vui khi chúng con đáp lời mời gọi của Chúa; đồng thời cũng biết được nếu chúng con từ chối lời mời gọi của Chúa; chúng con sẽ lãnh nhận sự phán xét.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 21-08
Thánh PIÔ X
GIÁO HOÀNG (1835 - 1914)

Thánh Piô X giáo hoàng tên thật là Giuseppe Melchierre Sartô, sinh tại làng Riese miền Venetia, ngày 02 tháng 6 năm 1835. Cha Ngài ông Giovanni Battista Sartô thành hôn với mẹ Ngài là bà Margherita Samon, nhỏ hơn ông tới một nửa số tuổi. Vì vậy lên 17 tuổi, Ngài đã mồ côi cha. Làm nghề chạy giấy của xã, ông Giovanni Battista làm cha một gia đình nghèo túng. Chết đi ông cũng lại một gia đình càng túng quẫn hơn nữa. Tuy nhiên nhờ lòng đạo đức của cả hai ông bà mà gia đình này đã góp phần đào tạo nên một vị thánh lớn cho Giáo hội.
Ngay từ nhỏ, học tại trường làng, Giuseppe đã tỏ ra có nhiều triển vọng, Ngài luôn là một học sinh giỏi đứng đầu lớp học. Theo phong tục thời đó, dù đã vào ban giúp lễ từ hồi 7 tuổi, mãi tới năm 11 tuổi, Giuseppe mới được rước lễ lần đầu. Những ngày tháng mong đợi có lẽ đã khiến Ngài khi lên giáo hoàng sau này, đã cho phép trẻ em được rước lễ vỡ lòng khi vừa tới tuổi khôn và nhiệt tình cổ võ lòng tôn sùng bí tích Thánh Thể. Trước bàn thờ Đức Mẹ, dịp rước lễ lần đầu, Giuseppe đã khấn dâng mình cho Chúa.
Từ lâu rồi Ngài đã nuôi ý định này nhưng không dám tỏ bày với cha mẹ. Nhưng khi biết được ý định của con, mẹ Ngài đã hết sức tán thành, cha Ngài ngập ngừng vì thấy gia đình nghèo túng, nhưng rồi cũng quảng đại vâng theo ý Chúa. Mọi người đều vui mừng vì quyết định của Giuseppe, nhất là cha sở Riese. Cha phó dạy tiếng Latinh cho Ngài. Khi đã đủ lực theo bậc trung học ở Castelfrancô cách Riese 7 cây số ngàn. Suốt 4 năm trời Ngài thường vác giầy trên vai, để tiết kiệm, và đi bộ tới trường rồi lại đi bộ về nhà. Chính lý tưởng làm linh mục là sức mạnh giúp Ngài kiên trì như vậy.
Hết 4 năm tại Castelfrancô, năm 1850, Giuseppe lên đại chủng viện Padua. Gia đình Giuseppe nghèo, cha sở xin được cho Ngài một học bổng, giáo dân trong họ hằng năm quyên tiền giúp đỡ Ngài. Thật là những nghĩa cử cao đẹp đối với một ơn gọi. Năm 17 tuổi, ông thân sinh qua đời, Giuseppe muốn bỏ về giúp mẹ và săn sóc cho 7 đứa em. Lại một nghĩa cử cao đẹp khác vun trồng cho ơn gọi Giuseppe chín mùi: mẹ Ngài không chấp nhận ý kiến, mà quyết tâm dâng con cho Chúa. Trong nếp sống nghèo khó nhưng lại giàu lòng quảng đại ấy, Giuseppe đã tiến tới chức linh mục ngày 28 tháng 9 năm1858, lúc 23 tuổi.
Sau ngày mở tay tại quên nhà, cha Giuseppe đi nhận phó xứ Tombolo, chín năm sau Ngài được bổ nhiệm làm chính xứ Salzano. 17 năm làm phó xứ rồi chính xứ, cha Giuseppe sống đời hy sinh tận tụy với giáo dân, nhất là với những người nghèo khó. Không hề ao ước danh vọng, Ngài lại được chiếu cố, được tín nhiệm vào chức vụ cao hơn. Đức Giám mục Trevise mời Ngài về làm chưởng ấn toà giám mục, kiêm nhiệm chức vụ giám đốc chủng viện.
Luôn luôn Ngài thi hành các chức vụ bề trên giao phó một cách chu đáo.
Năm 1884, đức Lêô XIII, Đấng mà Ngài sẽ kế vị đặt Ngài làm giám mục cai quản điạ phận Mantua, Ngài muốn từ khước nhưng đã vâng lời và quyết nên mọi sự cho mọi người. - Dân chúng sẽ thấy tôi luôn kiên trì trong chức vụ, luôn hiền từ và đầy bác ái.
Ôm hôn mẹ hiền, Ngài cho mẹ em chiếc nhẫn giám mục của mình. Mẹ Ngài cũng sung sướng cho Ngài xem chiếc nhẫn cưới của mình và nói : - Không có chiếc nhẫn của mẹ thì chẳng có chiếc nhẫn của con.
Phải thật nhân đức mới có thể đường dầu với tình trạng đáng thương của giáo phận: chủng viện gần như trống rỗng, dân chúng chịu ảnh hưởng của tâm điểm, thệ phản thuyết phóng túng nên lòng đạo đức sa sút, chẳng còn nhiệt tâm gì với việc tông đồ, với đời sống nội tâm. Sợ hãi, nhưng đức cha Sartô bắt tay ngay vào việc canh tân. Ngài đi kinh lý khắp điạ phận rộng lớn.
Những cuộc tiếp xúc thường xuyên và thân mật này đã tạo nên những bước tiến cụ thể. Khi mùa gặt đã tới, Ngài lên tiếng kêu gọi cho ngân quỹ vơi cạn của chủng viện và được đáp ứng quảng đại. Ngài triệu tập một hội nghị để trao đổi và để đón nhận các ý kiến. Ngài luôn lo bảo vệ sự toàn vẹn đức tin và không muốn chấp nhận sự sống nhượng bộ khi không được phép : - Người ta phải tranh đấu nơi thanh thiên bạch nhật.
Công việc ngày một nhiều, nhưng Ngài vẫn thường xuyên thăm viếng các giáo xứ. Buổi sáng kia tới nhà thờ một họ đạo, Ngài thấy giáo dân đứng chờ trước toà giải tội, Ngài vào ngồi tòa, khiến cha sở tới nơi phải bối rối. Trợ giúp hàng giáo sĩ về luân lý lẫn tài chánh đó là nét đặc trưng trong chức vụ của Ngài.
Mỗi hoạt động của vị giám mục thánh thiện đều tạo thành tiếng vang. Năm 1893, Đức Leo XIII đặt Ngài làm hồng y giáo chủ Vevetia. Lần này Ngài mau mắn vâng lời.
- Khi vị đại diện Chúa Kitô mở lời, không phải là lúc để nghiệm xét, mà là vâng phục. Không được phép cân nhắc lệnh truyền để tìm giảm thiểu mức độ vâng phục...
Đức Hồng y tiếp tục cùng một chương trình canh tân. Ngài xây dựng nhiều thánh đường, cô nhi viện, chủng viện và một phân khoa giáo luật. Ngài can đảm thiết lập thông tấn xã công giáo. Ngài đến nhà thờ và tranh đấu cho việc tông trọng luật Chúa.
Ngày 08 tháng 7 năm 1903, đức Lêô XIII từ trần. Đức Hồng y giáo chủ Sartô phải đi vay tiền mua vé về họp mật nghị bầu giáo hoàng. Trong mật nghị, Đức Hồng y Puzyna cai quản Krakow cho biết hoàng đế nước Áo phủ quyết Đức Hồng y Rampella quốc vụ khanh của Đức Lêô XIII mới từ trần. Cuộc bỏ phiếu đầu 1 tháng 8, Đức Sarto chỉ được 5 phiếu. Đức Hồng y Gibbons người Mỹ xin Ngài đừng phủ quyết cuộc bầu cử và đến cuộc đầu phiếu thứ 7 ngày 4 tháng 10, Ngài được 50/62 (vì sự kiện trên, sau này người ra hiến chế Comomissum Nobis để ngăn chận mọi mưu toan chính trị tìm khuynh đảo các cuộc bầu cử giáo hoàng).
Sau kết quả cuộc bầu cử, Đức hồng y niên trưởng đến hỏi: - Chúng tôi đã nhân danh Thiên Chúa tiến cử Ngài làm giáo hoàng, Ngài có ưng thuận không ?
Sau giây phút yên lặng trong nước mắt giàn dụa, Ngài nghẹn ngào trả lời ?
- Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức hồng y niên trưởng hỏi lại lần nữa và Ngài trả lời : - Tôi xin nhận như nhận một thánh giá.
- Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?
- Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ. Tôi nhận tên là Piô.
Thế là cuộc bầu cử giáo hoàng đã xong. Lễ đăng quang được cử hành ngày 09 tháng 8 năm 1903. Trong thông điệp đầu tiên, E Supreni Apostolatus ngày 04 tháng 10 năm 1903 Ngài công bố: "Nếu người ta muốn hỏi chúng tôi một châm ngôn phát xuất tự đáy lòng, tôi sẽ luôn nói rằng: canh tân mọi sự trong đức Kitô".
Suốt triều đại giáo hoàng, Đức Piô X đã thực hiện châm ngôn ấy. Ngài cho phép các trẻ em nhỏ rước lễ sớm khi vừa tới tuổi khôn và khuyến khích việc rước lễ hàng ngày. Với thông điệp Pascendi ngày 08 tháng 9 năm 1908 kết án thuyết duy tâm. Ngài sửa lịch và sách nguyện, canh tân thánh nhạc và truyền dùng trong cả Giáo hội, Ngài thiết lập các viện nghiên cứu âm nhạc và kinh thánh tại Roma. Ngài khởi đầu công cuộc hệ thống hóa giáo luật...
Về phương diện chinh trị, Ngài tạo ra sự dễ dàng trong việc liên lạc giữa Giáo hội và vương quốc Ý. Khi tổ chức lại các bộ và các toà án, cùng giáo triều Roma, tông hiến Sapienti Consiliô năm 1908 cho thấy dấu hiệu sẫn sàng chấp nhận việc để mất các quốc gia của Giáo hội, cũng không cần đến cơ cấu cai trị dân sự làm khuôn mẫu. Ngay từ năm 1905 Ngài đã cương quyết từ khước hoà ước Napolêon và chấp nhận sự phân biệt Giáo hội với quốc gia vì biết rằng sự nghèo khó của Giáo hội Pháp là có lợi hơn.
Giữa những công chuyện hóc búa này, Đức Piô X không bao giờ thực sự cảm thấy mình được ở nhà. Ngài là "tù nhân ở Vaticanô". Một lần tiếp xúc với các bạn cũ, Ngài bật khóc : - Xem người ta đưa tôi lên ghế này đây.
Tìm lại nếp sống cũ, Ngài đưa các em về Roma để giặt ủi và may vá đồ. Khi đau bệnh, Ngài xin linh mục là cháu cho rước lễ. Ngài còn đưa cả cha tuyên úy và người nấu ăn từ Venetia về. Thích sống thanh đạm, Ngài bỏ các nghi thức nhỏ nhặt và nhiều truyền thống nặng hình thức khác. Khi Ngài qua đời người ta còn thấy trong túi áo Ngài những vật của một học sinh: con dao nhỏ và mẫu bút chì.
Năm 1914 vào năm thứ 11 sau khi Đức piô được bầu làm giáo hoàng, Au Châu lâm vào cảnh chiến tranh. Ngài ngã bệnh, Ngài dâng lễ cuối cùng, ngày lễ Mông Triệu và qua đời ngày 20 tháng tám, người ta nói rằng: Ngài bị vỡ tim vì lo buồn cho nhân loại, 9 năm sau đã bắt đầu hồ sơ phong thánh và ngày 03 tháng 6 năm 1951 Ngài được phong chân phước, ngày 29 tháng 5 năm 1954, sau 40 năm qua đời Ngài được phong hiển thánh.
(daminhvn.net)


21 Tháng Tám
Kẻ Thù Trong Mơ
Ðời Trang Công, nước Tề, có một người đàn ông nọ đêm nằm cứ thấy chiêm bao có một người to lớn, mặc áo vải quần gai, đeo gươm đi vào tận nhà ông mắng chửi, rồi lại nhổ vào mặt mà đi... Ông ta giật mình tỉnh dậy, ngồi suốt đêm, bực dọc, không tài nào ngủ lại được.
Sáng hôm sau, ông nói chuyện với một người bạn với lời lẽ như sau: "Từ thuở nhỏ đến giờ, tôi vốn là một người hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi rồi, chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đêm hôm qua, có người đã đến làm nhục tôi. Tôi quyết tìm cho kỳ được kẻ ấy để báo thù. Nếu tìm thấy nó thì tốt, bằng không chắc tôi phải chết mất".
Kể từ sáng hôm ấy, ngày nào ông ta cũng cùng với người bạn ra đứng ngoài đường để rình cho được kẻ thù trong giấc mơ. Ba ngày trôi qua, nhưng ông ta vẫn chưa thấy được kẻ thù.
Ðã tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, nay lại hậm hực thêm vì không tìm thấy kẻ thù, ông ta trở về nhà uất người lên và chết.
Nhà diễn giả hùng biện nhất của đế quốc La Mã là Cicero có nói: "Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình". Câu chuyện của người nằm mơ thấy kẻ thù, để rồi đi tìm kẻ thù và cuối cùng, tự hủy hoại chính mình phải chăng không là một minh họa cho câu nói của Cicero. Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình, bởi vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để tự tiêu diệt chính mình.
Chúa Giêsu không đến để chối bỏ sự hận thù, nhưng trái lại bày tỏ bộ mặt thực của nó và đánh bại nó. Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan, kẻ thù đúng nghĩa nhất. Chính Satan gieo sự thù hận trong lòng người và đặt con người vào thế chống đối và tiêu diệt nhau.
Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù ấy bằng chính cái chết yêu thương tha thứ của Ngài. Chỉ có yêu thương và tha thứ mới có thể là thứ khí giới tiêu diệt được kẻ thù. Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta thứ khí giới ấy. Ngài đã không ngừng nói với chúng ta: "Hãy yêu thương kẻ thù ngươi, hãy làm ơn cho kẻ thù ghét ngươi".
Nếu con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình, thì quả thực chúng ta phải bắt đầu tiêu diệt nó ngay chính trong chúng ta. Chính khi chúng ta cưu mang cừu hận là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt chính mình. Chính khi chúng ta khước từ tha thứ và làm ơn cho những kẻ thù ghét hãm hại chúng ta, là chính lúc chúng ta tự giam hãm trong hận thù để rồi tự hủy hoại chính mình.
(Lẽ Sống)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét