Ngày 14 tháng 9
Chúa Nhật 24 Quanh
Năm Năm A
Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Lễ Kính
Bài
Ðọc I: Ds 21, 4-9
"Kẻ
nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".
Trích
sách Dân số.
Trong
những ngày ấy, dân chúng đi đường và mệt nhọc, nên nản chí, họ kêu trách Chúa
và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng
tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức
ăn nhàm chán này". Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ
chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói
những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho
chúng tôi khỏi rắn cắn".
Môsê
cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn
đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống".
Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn
lên rắn đồng, thì được chữa lành.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 77, 1-2. 34-35. 36-37. 38
Ðáp: Chúng ta đừng
quên lãng những kỳ công của Chúa (c. 7c).
Xướng:
1) Hỡi dân tôi, hãy nghe lời huấn dụ, hãy lắng tai nhận lấy những lời miệng
tôi. Tôi sẽ xuất khẩu nói ra lời ngạn ngữ, sẽ trình bày những điều bí nhiệm của
thời xưa. - Ðáp.
2)
Khi Người sát phạt họ, bấy giờ họ kiếm tìm Người, và họ trở lại kiếm tìm Thiên
Chúa. Họ nhớ lại rằng Thiên Chúa là Ðá Tảng của họ, và Thiên Chúa Tối Cao là Ðấng
cứu chuộc họ. - Ðáp.
3)
Nhưng rồi miệng họ đã phỉnh phờ, và lưỡi họ ăn nói sai ngoa với Người. Ðối với
Người, lòng họ không ngay thẳng; họ cũng không trung thành giữ lời minh ước của
Người. - Ðáp.
4)
Phần Người từ bi, tha lỗi và không huỷ diệt họ; nhiều khi Người đã tự kiềm chế
căm hờn, và không để cho thịnh nộ hoàn toàn tuôn đổ. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người
đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh
em thân mến, Chúa Giêsu Kitô, tuy là [thân phận] Thiên Chúa, đã không nghĩ phải
giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà
nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề
ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết
trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh
hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất
và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức
Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa; chúng con chúc tụng Chúa, vì
Chúa đã dùng cây Thập giá mà cứu chuộc thế gian. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 3, 13-17
"Con
Người phải bị treo lên".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: "Không ai lên trời được, ngoài người
đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn
nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai
tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
"Quả
thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những
ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì
Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để
thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Qua
Thánh Giá Tới Vinh Quang
Chúng
ta hết thảy đều biết, hôm Ðức Yêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu
nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai
biết phải làm gì! May thay có các ông Yuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép
hạ xác Chúa xuống và táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý
đến. Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng chỉ bận đầu với việc Chúa sống lại. Và
với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Người ta
quan tâm đến việc xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc
đời của Chúa Yêsu chứ những di vật và kỷ niệm vật chất của Người, không ai để
ý.
Cho
đến khi có nhiều người ở xa Ðất Thánh đã tòng giáo và muốn cũng như có điều kiện
hành hương những nơi Chúa đã sinh sống, việc thu lượm những di vật kỷ niệm về
Chúa trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh ấy người ta nghĩ rằng đã
tìm lại được cây Thập giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên khi bị đóng đinh. Lập tức
hình cụ ấy đã trở thành vật thánh; thập giá trở thành Thánh giá; và người ta
suy tôn kính mến.
Lễ
hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh
giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ đã đóng đinh Chúa Yêsu,
để nơi cây Thánh giá mà hằng ngày vì quá quen không còn ý nghĩa bao nhiêu,
chúng ta được dịp khám phá lại giá trị vinh quang cao cả của nó. Phụng vụ giúp
chúng ta ba bài đọc để suy nghĩ. Ba bài thường thôi nhưng hàm chứa biết bao sự
thật!
A.
Câu Truyện Rắn Ðồng
Bài
sách Dân số kể lại một câu truyện, mà nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, thì hầu
chắc đã chẳng được mấy ai để ý. Ðó là truyện con cái Israel hồi đó đang đi
loanh quanh trong sa mạc để hướng về Ðất Hứa. Một hôm họ bị rắn lửa cắn quá nhiều;
Môsê theo lệnh Chúa dựng lên một con rắng đồng để chữa họ.
Câu
truyện vắn tắt quá! Ai tin thì nghĩ đây là một phép lạ. Còn ai không tin, có thể
cho rằng tác giả sách Thánh đã bịa đặt. Nhưng một chữ viết ở thời xưa vẫn có
giá trị. Và thường ý nghĩa của nó không hiện ra tức khắc. Các khoa học lịch sử,
địa dư, văn minh, tôn giáo có thể cung cấp cho chúng ta ngày nay nhiều yếu tố
quý giá để hiểu câu truyện này.
Việc
có nhiều rắn lửa trong sa mạc là điều có thật. Ðó là loại rắn độc cắn chết người.
Nhưng đồng thời ở các mỏ đồng gần đó, người ta cũng bới tìm được nhiều hình rắn
đồng. Ðó là hình ảnh một vị thần của dân ngoại, nổi tiếng có sức chữa lành bệnh
tật. Như vậy chắc chắn ngày xưa khi bị rắn lửa cắn, người ta đã khẩn cầu vị thần
này, cũng như ngày nay khi mắc bệnh người ta đi tìm dược liệu; và nhiều tiệm
bào chế vẫn trình bày hình một con rắn.
Môsê
dẫn con cái Israel đi qua nhiều dân ngoại. Chắc chắn họ đã thấy các dân này thờ
thần rắn để được khỏi bệnh. Và chắc chắn khi bị đau yếu con cái Israel cũng bị
cám dỗ chạy đến với vị thần nổi tiếng này. Môsê coi đó như là một nguy hiểm cho
tôn giáo độc thần. Ông thấy có bổn phận phải mở mắt và dạy dỗ Dân. Có lẽ khi
nhiều người trong họ bị rắn lửa cắn là dịp để ông giải quyết vấn đề.
Chúng
ta hãy đọc câu truyện của bài sách Dân số trong viễn tượng ấy. Rõ ràng có nhiều
bài học tôn giáo trong câu truyện này. Và phải nói đây là Lời Chúa dạy dỗ Dân về
mặt đạo đức đi từ một câu truyện chứ không phải là bài chỉ muốn tường thuật câu
truyện ấy.
Trước
hết chúng ta được biết vì sao con cái Israel bị rắn lửa cắn. Họ muốn bỏ Chúa, bỏ
con đường đi tới tự do để trở về mảnh đất nô lệ. Họ phàn nàn đã nghe Môsê và
Chúa để đi tìm Ðất Hứa. Giả như họ cứ ở lại Aicập thì làm gì phải cảnh ngộ này:
gối mỏi chân chồn, nước uống thiếu hụt, thức ăn chán ngấy! Họ đã quên ơn giải
phóng, tỏ ra bạc nhược trước khó khăn và bất trung, thất tín đối với Giao ước.
Ðã đành có khó khăn, vất vả; nhưng Chúa không toàn năng và đáng tin tưởng sao?
Vì sao không phấn đấu để cứ tin Người và Môsê, vị Ngôn sứ của Người? Phàn nàn,
trách móc là điều không tốt; muốn bỏ Chúa để trở về đời sống cũ là phản bội. Rắn
lửa bò ra cắn những kẻ kêu trách là hình phạt Chúa gửi đến. Bệnh tật và các sự
dữ ở đời đều do tội lỗi: Ðó là bài học thứ nhất của câu truyện hôm nay.
Nhưng
tội lỗi và sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Con cái Israel đã nhận ra bài
học Chúa dạy. Họ đến với Môsê, thú nhận tội lỗi và nhờ ông khẩn cầu lòng Chúa
tha thứ. Họ để lại cho hậu thế bài học sám hối ăn năn.
Chúa
rộng lòng tha thứ, dạy Môsê làm hình một con rắn đồng treo lên một cây sào để
ai bị rắn cắn, nhìn vào sẽ được khỏi. Như vậy rắn đồng không phải là thần thánh
mà chỉ là dấu hiệu hoặc khí cụ Thiên Chúa dùng. Chính Người chữa lành người ta,
khi họ ăn năn hối cải trở về với Người.
Con
cái Israel đã hiểu như vậy. Về sau mỗi lần có khốn khó ập tới, các ngôn sứ của
Chúa chỉ cần kêu gọi thống hối ăn năn, chứ không cần treo lên một dấu hiệu nào
nữa. Chẳng bao giờ người Dothái thờ thần Rắn như nhiều lân bang. Câu truyện con
rắn đồng hầu như không còn được nói đến nữa. Ngược lại dần dần người ta cảm thấy
rằng chẳng có gì có thể chữa dứt được thứ bệnh của con cái Israel, thứ bệnh
"tội lỗi" mà các ngôn sứ làm cách nào cũng không ngăn ngừa nổi. Các lễ
thiêu và kinh nguyện sáng chiều không sao rửa sạch tội lỗi của Dân cứng đầu hay
kêu trách. Cuối cùng người ta chỉ còn biết đợi cánh tay uy hùng của Chúa. Chính
Người phải ra tay cứu độ mới được. Bất cứ người Dothái đạo đức nào cũng nghĩ
như vậy. Và Nicôđêmô, khi đến với Ðức Yêsu ban đêm, cũng chỉ muốn được hiểu biết
thêm về kế hoạch cứu độ này. Chúng ta hãy nghe Chúa dạy dỗ trong bài Tin Mừng.
B.
Ý Tưởng Về Thập Giá
Nicôđêmô
là một Biệt phái. Ông còn là một đầu mục trong Dân, tức là có chân trong Hội đồng
tối cao. Nhưng ông không nghĩ như đồng bạn về Ðức Yêsu. Ðối với Người, ông có
lòng tôn kính và muốn được Người chỉ dẫn đường lối cứu độ. Người bảo ông: muốn
nhìn thấy Nước Thiên Chúa, người ta phải sinh lại. Ông bỡ ngỡ và lo sợ. Già như
ông làm sao có thể sinh lại được? Thấy vậy Ðức Yêsu phải cắt nghĩa rõ hơn cho
ông về đường lối cứu độ của Thiên Chúa.
Người
nói: "Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ bị
giương cao như vậy". Có thể Nicôđêmô đã bắt được ý của Chúa, ông là người
học rộng biết nhiều. Ông là bậc làm thầy của Israel, nên không những ông đã biết
câu truyện Rắn đồng trong sách Dân số, mà có thể ông còn nhớ cả lời bàn của
sách Khôn ngoan về câu truyện ấy (16,6-10). Sách viết: kẻ nào quay lại nhìn thì
được cứu, không phải nhờ điều nó thấy nhưng là nhờ Người là Ðấng cứu chữa mọi
người. Phải, ơn cứu độ thì bởi Chúa, nhưng con rắn đồng kia cũng là dấu hiệu độ
sinh. Dấu hiệu này, bây giờ Ðức Yêsu nói, sẽ là Con Người khi bị giương cao. Và
đó là mạc khải hôm nay Người ban cho Nicôđêmô.
Chắc
chắn ông đã không thắc mắc gì về từ ngữ "Con Người". Ðã nhiều lần Ðức
Yêsu dùng kiểu nói ấy để ám chỉ mình. Nhưng việc Con Người sẽ bị giương cao là
điều mới lạ hoàn toàn đối với ông. Nó còn là điều mầu nhiệm nữa. Chúng ta có thể
chắc chắn rằng: hôm đó ra về ông đã chẳng hiểu bao nhiêu. Và luôn luôn nó sẽ là
một tư tưởng ám ảnh ông cho đến ngày sự thật ấy xảy ra.
Quả
vậy, cho dù ông thông thạo Kinh Thánh và biết những đoạn Isaia về Người Tôi Tớ
đau khổ, hoặc lời sấm của Zacarya viết rằng: chúng sẽ nhìn lên Người chúng đã
đâm, hôm nói chuyện với Ðức Yêsu, Nicôđêmô vẫn chưa hình dung được sự thật. Còn
Ðức Yêsu, Người đã không tiếc lời với ông. Người đã gieo vào lòng ông những điều
cần thiết để sau này sẽ giúp ông hiểu.
Người
muốn nói với ông rằng: dấu hiệu độ sinh sau này sẽ là Con Người khi bị treo
trên Thập giá. Nhưng ông chưa mang nổi một sự thật như vậy; giống như Phêrô khi
nghe nói cũng không chịu được và xin Chúa từ nay đừng nói như vậy nữa. Tuy
nhiên đó vẫn là sự thật cứu độ, sự thật duy nhất có thể cứu độ người ta. Ðức
Yêsu đã phải làm cho mọi người hiểu. Và hôm nay Người cố gắng giúp Nicôđêmô.
Người cho ông biết: đứng trước Thập giá của Người sau này chỉ ai tin mới được sự
sống đời đời. Không gì có thể giải thích được đường lối cứu độ của Thiên Chúa
đâu! Chỉ có lòng tin mà thôi. Lòng tin sẽ là ánh mắt nhìn vào dấu hiệu độ sinh.
Không có lòng tin này, người Dothái đi qua sẽ thấy Thập giá là cớ vấp phạm và
người Hylạp sẽ bảo là điên rồ; duy đối với ai được kêu gọi thì đó là khôn ngoan
của Thiên Chúa (1C 1,23).
Quả
vậy, đức tin sẽ bảo cho người ta biết: Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế
đó, đến nỗi đã thí ban Con Một Người để ai tin vào Ngài... được có sự sống đời
đời. Vì Thiên Chúa đã không sai Con của Người đến để xử án thế gian nhưng để cứu
độ. Người ta đừng chờ Con của Người đến lẫm liệt oai phong khiến mọi người phải
sợ hãi. Vì thế đừng ai hiểu việc Con của Người được giương cao theo nghĩa được
hiển vinh ở đời này và theo cách thức trần gian. Ngài đến để cứu sống nên muốn
được giương cao lên như rắn đồng nơi sa mạc. Lúc đó mọi người sẽ thấy quả thật
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi thí ban Con Một Người chịu chết đền tội
chúng ta. Ðó là dấu hiệu của tình yêu lớn nhất, mà không tình yêu nào sánh được.
Ðó là dấu chỉ Thiên Chúa đã yêu thương thì Người muốn yêu thương chúng ta đến
cùng. Mầu nhiệm cứu độ là mầu nhiệm yêu thương. Yêu thương sẽ sáng chói trong
hy sinh đổ máu. Thế thì Con Người trên Thập giá vừa bị giương cao vừa được lên
cao. Thập giá của Ðức Kitô chỉ bị ô nhục bề ngoài; chứ bên trong, quả là khôn
ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Ðó là cây gỗ Chúa leo lên để làm sáng chói
tình yêu lớn nhất. Các vết thương của Người đầy vinh quang. Ai tin thì thấy đó
là dấu hiệu độ sinh và Thập giá đã trở nên Thánh giá.
Hôm
nay, một cách đặc biệt chúng ta tin như vậy, thì phụng vụ mời chúng ta tung hô
Thánh giá theo bài thư Phaolô dưới đây:
C.
Ca Tụng Thánh Giá Chúa Yêsu
Có
lẽ Thánh Tông đồ đã chỉ có công chép lại một ca vãn lưu hành trong các cộng đồng
Kitô giáo thời bấy giờ. Nó là đức tin của Hội Thánh ở trước Thánh giá Chúa
Yêsu. Ðức tin ấy tuyên xưng rằng: Ðấng nằm trên cây gỗ là một vị Thiên Chúa;
Ngài không nghĩ phải đòi cho được tôn trọng đồng hàng cùng Thiên Chúa; nhưng
Ngài đã muốn hủy mình ra không, tức là lột bỏ những vẻ uy nghi cao cả, để mặc lấy
thân phận và hình thức tôi đòi; vì quả thực Ngài đã sống rất bình dị ở giữa mọi
người và có khi còn muốn đóng vai trò người tôi tớ. Ðặc biệt trong cuộc tử nạn,
Ngài đã hạ mình thấp hèn vâng phục ý định của Thiên Chúa cho đến chết và chết
trên Thập giá!
Nhưng
chính vì vậy, Thiên Chúa đã suy tôn Ngài trong việc phục sinh, đặt Ngài làm
Chúa để bất cứ thụ tạo nào cũng phải quỳ gối bái lạy...
Hôm
nay chúng ta cũng đặc biệt bái lạy Thánh giá Chúa Yêsu; Chúng ta sẵn sàng tuyên
xưng niềm tin của tất cả Hội Thánh như các tín hữu tiên khởi đã viết ra trong
bài thánh ca này.
Nhưng
nếu chỉ có thế thì vẫn chưa đạt được ý của thánh Phaolô. Người đã chép lại bài
thánh ca để gửi cho giáo dân Philip. Họ đang có nhiều bất hòa và cãi cọ, mà
nguyên nhân là những sự kèn cựa không chịu nhịn nhục nhau. Thế nên, chép bài
thánh ca gửi cho họ, thánh Phaolô muốn họ nhìn vào gương Chúa Yêsu mà đừng ganh
tị vì hư danh nữa, nhưng hãy khiêm nhượng và vâng lời.
Lời
khuyên này đối với chúng ta nhiều khi hãy còn thức thời và thiết thực. Nếu
chúng ta muốn cho các tương quan xã hội tốt đẹp hơn, há chẳng phải trở về gương
Chúa Yêsu trên Thập giá sao? Hơn nữa mỗi khi muốn tiếp tục công việc cứu thế,
thiết tưởng chúng ta phải trở về với Thánh giá Chúa Yêsu. Ðó là dấu hiệu độ
sinh duy nhất đã được Thiên Chúa mạc khải từ đầu trong sách Dân số cũng như các
sách Tiên tri. Chúng ta phải nhìn vào với lòng tin. Chúng ta phải nhìn vào để bắt
chước. Chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ và có thể cứu thế.
Mầu
nhiệm Thánh giá giờ đây được cử hành trong Thánh lễ. Ðức Yêsu không nghĩ phải
giằng cho được vinh dự của một Thiên Chúa. Người chấp nhận hình bánh rượu tầm
thường để nên lương thực nuôi sống chúng ta. Người dùng hình thức thập giá này
để thông ban tinh thần của Người cho chúng ta.
Ðó
là tinh thần yêu mến vâng phục Thiên Chúa; nhưng đồng thời cũng là tinh thần
yêu thương đồng loại cho đến cùng đến nỗi thí ban cả mạng sống mình để mọi người
được cứu độ. Chúng ta hãy học và đem ra thi hành trong đời sống cả hai mặt của
tinh thần yêu thương đó, tức là vừa mến Chúa vừa thương người, không phải chỉ bằng
tư tưởng hay môi miệng nhưng bằng cả việc làm và sự sống. Chắc chắn như vậy có
khổ, có thiệt thì cũng chỉ là những hy sinh vinh quang nói lên mầu nhiệm Thánh
giá là dấu hiệu độ sinh, mà chúng ta suy tôn hôm nay.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Suy Tôn Thánh Giá.
Bài đọc: Num 21:4b-9; Phil
2:6-11; Jn 3:13-17
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quyền Lực của Thánh
Giá.
-
Thập Giá là một xỉ nhục đối với người Do Thái: Người Do-Thái thích tìm kiếm các
phép lạ: muốn họ tin chỉ cần làm phép lạ như Phúc Âm đã tường thuật rất nhiều lần.
Họ tin Đấng Thiên Sai sẽ đến và Ngài sẽ dùng quyền năng dẹp tan mọi quân thù của
họ, và sẽ cai trị họ trong công lý đến muôn đời. Một Thiên Chúa chết đau khổ trên
Thập Giá là yếu đuối, là không uy quyền. Đó là lý do tại sao đa số những người
Do-Thái không thể chấp nhận Chúa Kitô cho đến ngày hôm nay.
-
Thập Giá là một điên rồ cho những người Dân Ngọai: Triết gia Plato và đa số người
Hy-Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan: muốn họ tin cần chỉ cho họ kiến thức làm sao
tách biệt linh hồn ra khỏi xác vì họ tin thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn.
Họ cho là một điên rồ vì tại sao đang khi họ tìm kiếm cách thóat khỏi thân xác
thì có một Thiên Chúa lại muốn Nhập Thể để mang một thân xác hèn yếu của con
người. Hơn nữa lại còn muốn chịu đau khổ bằng Cuộc Thương Khó và cái chết tủi
nhục trên Thập Giá. Đó là lý do tại sao trong những thế kỷ đầu khi Kitô Giáo được
truyền đến các quốc gia Hy-Lạp, Giáo Hội đã phải đương đầu với bao nhiêu lạc
thuyết do những quan niệm sai lầm này đem lại: Có học thuyết như Docetism cho rằng
Chúa Giêsu chỉ Nhập Thể một cách phớt qua cung lòng Đức Mẹ, và chỉ dường như chịu
đau khổ. Có người cho rằng Chúa Giêsu nhập vào ông Simon và ông Simon thay Chúa
chịu đóng đinh trên Cây Thập Giá. Tóm lại, họ không thể chấp nhận một Thiên
Chúa lại muốn mang lấy thân xác hèn hạ của con người.
-
Nhưng đối với các tín hữu, Thập Giá là sức mạnh, tình yêu, và khôn ngoan của
Thiên Chúa. Các Bài đọc hôm nay muốn giải thích cho mọi người chúng ta sự cần
thiết của đau khổ và quyền lực của Cây Thập Giá.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Chỉ với 6 câu ngắn ngủi, tác giả của Sách Dân Số đã mô tả cuộc đời con người là
một hành trình qua sa mạc để được thanh luyện trước khi vào Đất Hứa.
(1)
Hành trình qua sa mạc để được thanh luyện: Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh rất ngạc nhiên khi
nghiên cứu bản đồ của các quốc gia vùng Cận Đông. Khỏang cách ngắn nhất từ Biển
Đỏ tới vùng Đất Hứa là đi dọc theo bờ biển của Palestine; nếu đi bộ chỉ mất tối
đa là vài tuần lễ. Thế mà ông Môsê lại dẫn dân Do-Thái đi con đường dài hơn, từ
Biển Đỏ đi vòng hết các sa mạc vùng Delta, qua phía Đông của Biển Muối, vào đất
Ammôn, rồi tới phía Đông của sông Jordan, vượt sông vào Đất Hứa qua việc tấn
công thành Jericô của Joshua. Tất cả hành trình mất 40 năm!
Tại
sao Thiên Chúa lại chọn cho dân con đường dài và đầy chông gai như thế mà không
chọn con đường ngắn và dễ dàng hơn?
(2)
Mục đích của Chúa là để thanh luyện dân. Sa mạc tự nó là chỗ thử thách: Người Do-Thái quan niệm
sa mạc là nơi ở của quỉ dữ. Chúa Giêsu được Thánh Thần mang vào trong sa mạc để
chịu cám dỗ. Sa mạc chỉ tòan đá và cát, rất ít sinh vật chịu được sự khắc nghiệt
của khí hậu trong sa mạc vì rất nóng và hầu như không có nước. Đi trong sa mạc
mà không mang theo nước là nắm chắc phần chết. Chúng ta có thể hiểu được nỗi
đau khổ của dân: đường xa, mệt mỏi, bụng đói, miệng khát, gồng gánh nặng nề...
Họ nhìn lại và tiếc những ngày còn ở Ai-Cập, tuy làm việc vất vả như nô lệ
nhưng có đồ ăn, thức uống. Họ nhìn về tương lai: Đất Hứa thì xa xôi vạn dặm. Và
họ mất kiên nhẫn nên họ than trách ông Môsê và Thiên Chúa: Tại sao các Người lại
dắt chúng tôi vào đây để chịu đau khổ và chết đói chết khát trong sa mạc?
(3)
Hậu quả của sự kêu trách Thiên Chúa là họ phải chết. Thiên Chúa cho rắn
độc cắn ra cắn họ và nhiều người đã phải chết. Trong sa mạc có rất nhiều rắn độc;
những vùng như Timnah gần Biển Chết dân chúng thờ thần rắn, là quan thầy của những
người đi tìm đồng. Lúc ấy, họ lại chạy đến ông Môse cầu xin để Thiên Chúa xua
đuổi rắn xa họ. Và ông Môsê cầu nguyện cùng Chúa cho dân. Thiên Chúa truyền cho
Môsê làm con rắn bằng đồng và treo trên cột; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn
đồng thì được sống. Mỗi khi nhìn lên con rắn, họ nhận ra tội lỗi của họ và
không dám kêu trách Thiên Chúa và nhà lãnh đạo Môsê nữa.
Nếu
chúng ta suy nghĩ về cuộc đời mỗi người chúng ta từ khi sinh ra cho tới bây giờ,
thì quả thật cũng chẳng thua gì dân Do-Thái và cuộc hành trình của họ trong sa
mạc. Đói có, khát có, tù đày có, vượt biên có, tị nạn có, đau khổ cũng không
thiếu do cha mẹ, vợ/chồng, con cái, anh chị em, và đủ mọi người mọi nơi mang lại.
Nhiều lúc chúng ta cũng giống như dân Do Thái kêu trách Chúa: Tại sao để cuộc đời
chúng ta quá nhiều đau khổ như vậy?
2/
Bài đọc II:
Hy vọng cho chúng ta qua cuộc đời của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vinh quang có được
là bằng sự hủy mình ra không. Đàng sau Cây Thập Giá là sự Phục Sinh và khải
hòan chiến thắng tội lỗi và sự chết, kẻ thù cuối cùng của con người.
(1)
Sự hủy mình ra không (Kenosis) qua sự khiêm nhường và vâng lời tuyệt đối của
Con Thiên Chúa:
Cũng chỉ trong 6 câu ngắn ngủi, Thánh Phaolô đã lột tả được trọn vẹn kế họach cứu
độ của Thiên Chúa qua con đường đau khổ: “Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, nhưng
Ngài không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân,
và sống như người trần thế.” Tại sao một Thiên Chúa vinh quang uy quyền như thế
lại muốn hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm
nhân, và sống như người trần thế? Hơn thế nữa, Ngài lại còn hạ mình, vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự! Chắc chắn Thiên Chúa
có thể cứu độ con người bằng uy quyền; nhưng Ngài muốn cứu độ con người qua con
đường đau khổ vì muốn đồng cảm với tất cả những gì con người đã, đang và sẽ chịu.
Cứu độ bằng uy quyền sẽ mang vào Nước Trời những con người vô cảm, vô trách nhiệm,
và không hiểu giá trị của tình yêu.
(2)
Vinh quang chiếm được nhờ sự hủy mình ra không: Chính vì thế, Thiên Chúa đã
siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Danh
hiệu tượng trưng cho công việc thực hiện của một người (Gioan Tiền Hô; Phaolô,
Tông Đồ Dân Ngọai; Phêrô, Thủ Lãnh Giáo Hội). Danh được Thiên Chúa ban cho Chúa
Kitô là Đức Giêsu, có nghĩa là Đấng Cứu Độ. Khi nào nghe Danh Thánh Giê-su, cả
trên trời, dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh
Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô
là Chúa."
3/
Phúc Âm:
Thập Giá Cứu Độ của Chúa Giêsu
Hậu
trường phía sau những lời của Phúc Âm hôm nay là cuộc đàm thọai giữa Chúa Giêsu
và ông Nicôđêmô. Chúa bảo ông: “Không ai có thể vào Nước Trời nếu không được
tái sinh.” Ông không hiểu và hỏi lại: “Làm sao một người lớn như ông lại chui
vào lòng mẹ để tái sinh?” Điều Chúa muốn nói với ông là phải tái sinh bởi Nước
Rửa Tội và Thánh Thần; nghĩa là được tái sinh trong Cuộc Thương Khó và cái chết
của Chúa thì mới được vào Nước Trời.
(1)
Con rắn trong sa mạc là hình ảnh báo trước của Thập Giá Đức Kitô: Biến cố Xuất Hành xảy
ra khỏang 2000 năm trước Cuộc Tử Nạn của Đức Kitô; nhưng tất cả những gì đã xảy
ra cho Đức Kitô là để làm trọn vẹn những gì đã xảy ra trong Cựu Ước. Con người
đã phạm tội vì kêu trách Chúa trong sa mạc nhưng được cứu thóat nhờ biết ăn năn
trở lại khi nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc. Từ đó đến nay con người vẫn phạm
tội, làm sao con người có thể được cứu thóat? Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta cách
được cứu thóat: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người
cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.”
(2)
Thập Giá biểu lộ tình yêu Thiên Chúa cho con người: Một hình ảnh nữa của
Cựu Ước luôn có sức để đánh động con người là hình ảnh của Abraham sẵn sàng cầm
dao giơ lên định sát tế người con duy nhất của mình là Isaac. Có ai trong lịch
sử lòai người dám làm như thế? Abraham không phải giết con vì Thiên Chúa đã hiểu
niềm tin của ông dành cho Ngài; nhưng Thiên Chúa muốn dùng hình ảnh này để chuẩn
bị trước cho con người để hiểu hình ảnh Cây Thập Giá. Như Gioan tường thuật hôm
nay: “Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Con người chưa bao giờ
được xem thấy Thiên Chúa, nhưng mỗi khi nhìn Cây Thập Giá và đọc câu của Jn
3:16, con người tin chắc có Thiên Chúa và cảm nghiệm được tình yêu của cả 2
Cha-Con cho con người.
(3)
Chúa chết để cho con người được sống: Cả hai hình ảnh Cây Thập Giá và Ngày Phán Xét đều cần
để hướng lòng con người về đời sau. Có những người dễ rung cảm vì tình yêu vô bờ
của Thiên Chúa qua Cây Thập Giá. Có những người phải run sợ khi nhìn thấy uy
quyền của Thiên Chúa khi Ngài phán xét con người. Nhưng tình yêu là lý do đầu
tiên và trên hết tại sao Thiên Chúa tạo dựng, cứu độ, và thánh hóa con người;
đúng như lời Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế
gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người,
mà được cứu độ.” Nếu nhìn lên Cây Thập Giá mà con người vẫn không cảm nghiệm được
tình yêu Thiên Chúa dành cho mình mà ăn năn trở lại, họ tự kết tội họ và cũng
không xứng đáng để hưởng ơn tha thứ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải biết lợi dụng hòan cảnh để tự kỷ luật và thanh thẩy những tính
ươn hèn của xác thịt thì mới có hy vọng vượt qua mọi gian khổ khi phải đương đầu
với chúng. Phàn nàn, kêu trách, và tìm con đường dễ dãi chỉ dẫn con người đi đến
chỗ diệt vong.
-
Chúa Giêsu dạy chúng ta: Vinh quang có được là nhờ sự hủy mình ra không bằng sự
khiêm nhường và vâng lời tuyệt đối: Thiên Chúa cho con người, mục tử cho đòan
chiên, thầy cho trò, và cha mẹ cho con cái.
-
Mẹ Giáo Hội đã yêu thương và thu xếp để mọi con cái có ngày hôm nay để nhìn lên
và suy niệm về Mầu Nhiệm Thập Giá.
*
Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá để thấy, tất cả tội lỗi của mỗi người chúng ta
là lý do Con Chúa chịu đóng đinh.
*
Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá để cảm nghiệm được tình yêu vô bờ của Thiên Chúa
dành cho con người.
*
Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá để học bài học “tự hủy mình ra không” của Con
Thiên Chúa, để rồi cũng biết tự hủy mình ra không để cứu sống đòan chiên và con
cái Chúa trao phó.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
14/09/14 CHÚA NHẬT TUẦN 24 TN – A
Suy Tôn Thánh Giá
Ga 3,13-17
Suy Tôn Thánh Giá
Ga 3,13-17
Suy niệm: Thập
giá là một dụng cụ người Rô-ma dùng để hành hình người pham tội nặng mà không
phải là công dân Rô-ma. Vậy mà Thiên Chúa đã dùng nó làm công cụ cứu độ và diễn
tả tình yêu của Ngài với con người. Vì yêu con người, Ngài đã trao ban cho
chúng ta điều quý giá nhất là chính Người Con Duy Nhất của Ngài: Đức Giê-su.
Thánh Gio-an đã khẳng định tình yêu trao ban ấy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời.” Con Một đã chịu chết trên thánh giá theo kế hoạch yêu thương của
Chúa Cha. Như thế, việc chúng ta suy tôn Thánh Giá là cách nhìn nhận và suy tôn
tình yêu của Thiên Chúa. Khi suy tôn Thánh Giá, ta cũng sung sướng tuyên xưng
như thánh Phao-lô:“Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta!”(Gl 6,14).
Mời Bạn: Thánh
Giá là biểu tượng của Ki-tô giáo. Thánh giá nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối
với con người, được Đức Giê-su thực hiện qua cái chết trên thánh giá. Khi
suy tôn Thánh Giá là bạn suy tôn tình yêu Thiên Chúa, bạn cũng được kêu mời
sống tình yêu như Đấng đã vì yêu mà chết cho bạn.
Sống Lời Chúa: Thường
xuyên nhìn lên Thánh Giá để nhớ mình được Chúa yêu thương và dâng lời cảm tạ
Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hằng ngày chúng con vẫn nhìn lên Thánh Giá và làm dấu
thánh giá. Xin cho tình yêu Chúa qua thánh giá thấm sâu vào cõi lòng chúng con,
để chúng con ngày càng yêu mến Thánh Giá. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14
THÁNG CHÍN
Thiên
Chúa Cư Ngụ Trong Sâu Thẳm Chúng Ta
Khi
chia tay các Tông Đồ trong buổi chiều trước khi vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu
nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và
chúng ta sẽ đến và cư ngụ với người ấy” (Ga 14,23). Chỉ một vài khoảnh khắc trước
khi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta hết chiều cao sâu của
một tình yêu vĩ đại. Người mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm hiện diện thẳm sâu của
Thiên Chúa. Vâng, con người được kêu gọi để trở nên đền thờ của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Còn mức độ hiệp thông nào sâu xa hơn nữa với Thiên Chúa mà con người có
thể khao khát không?
Thiên
Chúa còn có thể trao cho chúng ta chứng cớ nào lớn hơn nữa về tình yêu cứu độ của
Ngài không? Thiên Chúa của muôn loài muốn đi vào hiệp thông với con người. Tất
cả lịch sử bao đời của khoa thần bí Kitô giáo, kể cả một số diễn tả tuyệt vời
nhất của nó, chỉ có thể nói bập bẹ cho chúng ta về sự hiện hữu khôn tả của
Thiên Chúa trong tâm hồn con người.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
14-9
Chúa
Nhật XXIV Thường Niên
Suy
Tôn Thánh Giá
Ds
21, 4b-9; Pl 2, 6-11; Ga 3, 13-17.
LỜI
SUY NIỆM: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban
Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Con
người là tạo vật theo lời Kinh Thánh trong Sách Sáng Thế cho chúng ta thấy là cả
một công trình tạo dựng của Thiên Chúa, và chính Người đã lấy hình ảnh của các
Ngài mà dựng nên con người, nên con người là một tạo vật được yêu thương. Cả Ba
Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương con người và trung thành trong việc cứu độ và
gìn giữ con người.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúng con thật sự được hạnh phúc, ngay từ khi mới sinh ra đã được
làm con Thiên Chúa trong Phép Rửa Tội, và hằng ngày được Giáo Hội dạy bảo, Được
Chúa Thánh Thần soi sáng, được trưởng thành trong đức tin. Xin cho mọi thành
viên trong gia đình chúng con được sự sống đời đời.
Mạnh
Phương
NGÀY
14-09 LỄ KÍNH THÁNH GIÁ CHÚA GIÊSU
Chosroes,
vua Ba Tư, sau khi xâm lược Ai cập và trọn miền Phi Châu thuộc Roma, đã chiếm
Giêrusalem, giết hàng ngàn người Kitô hữu và chuyển về vương quốc của ông gia sản
quí báu nhất là Thánh giá thật mà thánh nữ Hêlôna tìm lại được và đăt trên núi
Canvê. Dầu vậy Chostòes đã tỏ lòng tôn kính đặc biệt cây thánh giá này. Ông
không dám nhìn cây thánh giá để trần, cũng không cho tháo gỡ bao che mà thánh nữ
Hêlena đã học. Dân Batư cùng chung một niềm kính sợ. Họ nói rằng: Thiên Chúa của
người Kitô hữu đã tới với quê hương họ và không nên chọc giận Ngài.
Hoàng
đế Hêrachiô đã tới vương quốc hai lần để cầu hòa với vua Chosròes. Nhưng nhà
vua Ba Tư đã ngạo mạn đưa ra điều kiện cho các vị đặc sứ: - "Trước hết nhà
vua các ngươi phải từ bỏ đức Kitô và thờ lạy mặt trời như chúng tôi. Sau đó
chúng tôi sẽ hoà hoãn với ông ta".
Thái
độ trịch thượng này đã làm cho các Kitô hữu phải kinh ngạc. Hoàng đế nổi giận, Ngài
nói với các sĩ quan rằng: mình sẽ đổ tới giọt máu cuối cùng để trả thù cho tội
phạm sự thánh này. Hàng giáo sĩ các tu viện và mỗi Kitô hữu đều rộng tay góp của
giúp hoàng đế thực hiện cuộc thánh chiến. Một đạo binh được thành lập nhanh
chóng. Sau khi cầu khẩn sự trợ giúp của trời cao, Ngài đã vào Batư và ba lần bắt
Chosròes phải tẩu thoát. Nhưng kẻ bại trận thay vì nghĩ tới chuyện cầu hòa, lại
đưa người con thứ là Medarsèr lên ngôi.
Người
con trưởng của ông là Siròes nổi giận đã âm mưu sát hại em lẫn cha mình. Bắt được
họ đang trên đường tẩu thoát, hắn bèn thực hiện ý định, Chorròes bị hốt tù và
chết đói sau khi phải chứng kiến tận mắt Mêdarsèr cùng với các con bị thắt cổ
chết.
Siròes
chiếm giữ ngai vàng Ba Tư và xin cầu hoà với Hoàng đế Hêrachiô. Hoàng đế ưng
thuận với điều kiện là hắn phải trả lại thập giá và phóng thích các Kitô hữu bị
bắt làm nô lệ.
Thánh
giá thật đã được tìm lại sau 14 năm rơi vào tay người Ba Tư. Hoàng đế trở về
Constantinople cùng với thánh tích. Toàn dân cam đuốc sáng và nhành Ô-lui đi
đón thánh giá. Muà xuân năm sau, hoàng đế Hêrachiô đích thân đáp tàu đi đặt di
sản quí báu trở lại chỗ cũ. Tới Giêrusalem, Ngài vác thánh giá trên vai tiến tới
nhà thờ trên đồi Canvê. Một phép lạ lẫy lừng thánh hóa biến cố này. Trong khi
hoàng đế đang tiến lên giữa bầu khí thinh lặng đầy cung kính, bỗng Ngài cảm thấy
không thể tiến tới được nữa. Ngài bày tỏ nỗi kinh ngạc với thượng tế Jachatia
bên cạnh.
Vị
giáo phụ trả lời: - "Thưa hoàng thượng, Ngài mặc cẩm bào trong khi Chúa
Giêsu ăn mặc khó nghèo rảo qua các đường phố của thành này để tiến tới lễ hy
sinh. Người đã đội mão gai mà đầu hoàng thượng lại đội triều thiên sang trọng.
Người đi chân không còn hoàng thượng chân xỏ giầy.
Cảm
động vì những lời này, hoàng đế Hêrachiô đã biết được sự thật và cởi bỏ mọi đồ
trang sức sang trọng đi chân không. Từ đó, Ngài đã dễ dàng đi hết con đường và
đặt thánh gía vào chỗ người Batư đã lấy đi.
Còn
nhiều phép lạ nữa chúng minh sức mạnh của gỗ thánh giá. Nhưng chính biến cố kể
trên đã là đối tượng của lễ kính thánh giá Chúa Kitô.
(daminhvn.net)
14
Tháng Chín
Quyển Sách Cao Siêu
Nhất
Người
ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong
cuộc sống.
Có
một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng...
Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa.
Người
đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự
nhủ trong lòng: "Ðây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận".
Thế
là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến
cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá
dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp tục
tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh
mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là cây thập
giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa
hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận
cây thập giá. Ðây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường
của cửa hàng".
Hôm
nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá
trong đời sống Ðức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars
bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những ai
yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông
thái".
Thập
giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất
của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng
vì người mình yêu". Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có
thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của
Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại...
Suy
tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu
Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị
đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó
là ý nghĩa của Tình Yêu.
(Lẽ
Sống)
Suy
Tôn Thánh Giá: Thập Giá Vinh Quang
Thập Giá, sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa
Trên
đường Damas, Phaolô gặp Đức Kitô Phục Sinh. Cuộc gặp gỡ đổi đời. Quay 180 độ.
Đối với Phaolô, một người Do thái thuộc giới trí thức, trung thành với Luật
Môsê, thì Đấng Thiên Sai, Con TC, không thể chết treo trên Thập Giá. Dưới con
mắt của người Pharisêu và người thông Luật Do thái, chỉ có tội nhân mới chết
treo trên thập giá. Kẻ chết treo trên thập giá là người bị nguyền rủa, bị khai
trừ: “Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ!” (Gl 3,13). Vì lý do
này, Phaolô nhiệt thành bách hại những môn đệ của Đức Giêsu, quyết tâm xoá bỏ
danh hiệu Giêsu khỏi lịch sử loài người. Nhưng rồi, Phaolô đã gặp Đức Kitô Phục
Sinh trong một hoàn cảnh bi đát: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Ông
nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người đáp: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ”
(Cv 9,4-5).
Trong
lần gặp gỡ hồng phúc này, Phaolô được mạc khải về căn tính đich thực của Chúa
Giêsu: Đấng Phục Sinh chính là Đấng đã chịu đóng đinh. Người đã sống lại vì là
Con Thiên Chúa và Người hiện vẫn sống trong Hội Thánh, Nhiệm Thể của Người. Tất
cả lịch sử cứu độ liên quan đến Đấng Thiên Sai đã được ghi chép trong Kinh
Thánh, nhưng vì cuồng tín, khép kín trong sự công chính tự phong của Pharisêu,
Phaolô và người Do thái phải mù lòa. Đọc mà không hiểu. Cho đến khi gặp Chúa
Giêsu và được Người chữa lành khỏi mù lòa, theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Phaolô
được ban cho sự hiểu biết mầu nhiệm Đức Kitô Giêsu (Ep 3,8-9), mầu nhiệm được
giữ kín từ muôn thuở nay được mạc khải cho Phaolô, để ông loan báo Tin Mừng cứu
độ cho dân ngoại. Mầu nhiệm đó là Đức Chúa Cha đã ủy phái Con Một người xuống
trần gian để cứu độ nhân loại. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa
Hằng Sống, Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chắc hẳn, Đấng Thánh của Thiên Chúa không
thể phạm tội. Sự kiện Người chịu đóng đinh trên thập giá không phải để đền tội
cho chính bản thân, nhưng do ý định của Thiên Chúa, Người là Đấng vô tội, phải
mang lấy tội của toàn thể nhân loại và chịu chết để cứu nhân loại, như Kinh
Thánh đã chép từ ngàn xưa: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của
chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại
tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53,4).
Đọc
Kinh Thánh từ gốc độ Phục sinh, Phaolô giải thích mầu nhiệm Thánh Giá như kế
hoạch cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên
Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta
nên công chính trong Người.” (2Cr 5,21).
Chúa
Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nên đã tự hiến làm của lễ đền tội
thay cho tội nhân: “Để cứu chúng ta thoát khỏi cõi đời xấu xa hiện tại, Đức
Giê-su Ki-tô đã tự hiến vì tội lỗi chúng ta, theo ý muốn của Thiên Chúa là Cha
chúng ta. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn thuở muôn đời. A-men.”(Gl 1,4-5)
Đức
Kitô chịu mọi cực hình và khổ nhục vì tội lỗi loài người và thay cho loài
người: “Đức Ki-tô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật, khi vì
chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa” (Gl 3,13).
Khi
nhìn lại toàn thể nhiệm cục cứu độ dưới nhãn quan Kitô, Phaolô giải thích mầu
nhiệm Phục sinh cách vắn gọn và khúc chiết, không theo lập trường cá nhân của
mình, nhưng theo Kinh Thánh: “Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như
lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng
như lời Kinh Thánh” (1Cr 15,3-4).
Mầu nhiệm Vượt Qua
Lễ
Vượt Qua của Do thái tưởng niệm việc Thiên sứ đi qua nhà người Do thái mà không
sát phạt, khởi đầu cho cuộc hành trình Vượt qua từ nô lệ Ai cập đến miền đất tự
do Thiên Chúa hứa ban. Lồng trong bối cảnh lễ Vượt Qua Do thái, Chúa Giêsu cử
hành mầu nhiệm Vượt Qua của chính mình Người, đi từ cuộc Khổ nạn hồng phúc đến
Phục sinh vinh hiển. Lễ Vượt Qua này là hình ảnh Kinh Thánh để chỉ điều mà Thần
học gọi là Mầu nhiệm Phục sinh.
Mầu
nhiệm Phục sinh ở đây không giới hạn vào sự kiện Phục sinh đơn thuần, tức là
việc Chúa sống lại từ cõi chết, nhưng bao gồm hai biến cố bất khả phân ly: Khổ
nạn và Phục sinh. Nếu chỉ có Khổ nạn, mà không có Phục sinh thì không phải là
Kitô giáo. Nếu chỉ có Phục sinh mà không có Khổ nạn, thì cũng là lạc giáo nốt.
Mầu nhiệm Phục sinh là một thực tại duy nhất, một biến cố cứu độ gồm hai giai
đoạn bất khả phân ly: cái chết trên Thập Giá và sự Phục sinh vinh hiển.
Trong
lịch sử Giáo hội, có lúc người ta nhấn mạnh đến Khổ nạn, đến độ giảm nhẹ yếu tố
Phục sinh, như nhóm Jansenius vào thế kỷ XVII. Và hiện nay có xu hướng chỉ sống
Phục sinh, mà không có Khổ nạn, như trong các giáo phái thuộc nhóm “Thời đại
mới” (New Age).
Không
ai đã hiểu và giải thích rõ ràng hơn Phaolô về ý nghĩa Vượt Qua trong Kitô
giáo, bởi lẽ Phaolô đã bước theo Chúa Giêsu trong tiến trình Vượt Qua. Biết
quyền năng của Đấng Phục Sinh, nhờ thông phần vào cuộc Khổ nạn của Người: “Vấn
đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã
phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng
dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại
từ trong cõi chết.” (Pl 3,10-11)
Trong
một thánh thi hùng tráng, long trọng, Phaolô giải thích chương trình cứu độ
trong Kitô giáo, như một mầu nhiệm tự hạ hay sự hư vô hóa (kenosis) của Con
Thiên Chúa để được tôn vinh: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ
là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân sống như người trần thế. Người
lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập
tự. Chính vì thế, Thiên Chúa
đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl
2,6-9).
Quy
luật Vưọt Qua bao trùm đời sống Kitô hữu. Vị thủ lãnh của chúng ta đã vượt qua
sự chết, sự gian khổ để đi vào trong vinh quang của Cha. Người đã mở đường cho
chúng ta vào. Giờ đây đến lượt chúng ta, hãy can đảm vác lấy khổ giá đời mình
để cùng với Người mà tiến lên, đi vào miền ánh sáng. Đau khổ sẽ qua đi, nhưng
ai chịu đau khổ với Chúa và vì Chúa, sẽ được hạnh phúc miên trường.
“Tôi
nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà
Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18).
“Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn (2 Cr 4,17-8).
“Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn (2 Cr 4,17-8).
Chúa
Kitô chịu đóng đinh và chịu chết trên Thập giá. Bởi thế, đối với Kitô hữu, cách
tự nhiên và hợp lý, Thập giá là đối tượng của lòng kính trọng và tôn thờ. Tuy
nhiên, nếu Chúa Giêsu không sống lại, thì thập giá sẽ mãi là khí cụ hành quyết
đáng ghê tởm. Nhưng Chúa Giêsu đã sống lại. Lúc đó diện mạo của thập giá được
biến đổi, từ sự chết biến thành sự sống, từ hình ảnh ô nhục đi đến dấu vinh
quang. Và lúc đó người Kitô hữu được mời gọi, chẳng những để tôn thờ Thánh Giá
mà còn vác Thánh Giá theo chân Chúa, như Thánh Phaolô viết: “Đây là lời đáng
tin cậy: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên
tâm chịu đựng đau khổ, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm, 2,11-12).
(Antôn
Ngô Văn Vững, SJ)
Lectio Divina: Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Chúa Nhật, 14 Tháng 9,
2014
Những ai tin vào Đức
Giêsu thì được sự sống đời đời
Ga 3:13-17
Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha, Đấng đã muốn cứu rỗi nhân loại
Bằng Thập Giá Đức Kitô, Con của Cha,
Xin ban cho chúng con là những kẻ
Đã biết đến mầu nhiệm tình yêu của Người trên
thế gian,
Được hưởng hoa trái của ơn cứu chuộc của Người
trên Thiên Đàng.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng
con.
1. Bài Đọc
Tin Mừng:
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô
rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là
Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môisen treo con rắn nơi hoang
địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào
Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.”
Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư
mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần
để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.”
2. Suy Niệm
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Văn bản Tin Mừng đề nghị với chúng ta bằng
phần Phụng Vụ được trích từ Lễ Suy Tôn Thánh Giá. Chúng ta không nên ngạc
nhiên rằng đoạn Tin Mừng được chọn cho lễ này là một phần của sách Tin Mừng thứ
tư, bởi vì chính quyển Tin Mừng này trình bày mầu nhiệm thập giá của Chúa, như
sự suy tôn. Thật rõ ràng ngay từ phần đầu của sách Tin Mừng đã
viết: “cũng như Môisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con
Người cũng phải bị treo lên như vậy” (Ga 3:14; Đnl 7:13). Thánh sử
Gioan giải thích mầu nhiêm Ngôi Lời Nhập Thể trong sự chuyển động nghịch lý của
việc từ trời mà xuống đất (Ga 1:14,18; 3:13). Thật ra, mầu nhiệm này
cho chúng ta chìa khóa của bài đọc để hiểu được sự tiến hóa căn tính và về sứ
vụ thương khó và vinh quang của Chúa Giêsu; chúng ta cũng có thể nói rằng điều
này không chỉ có giá trị riêng cho Tin Mừng theo thánh Gioan. Ví dụ,
thư gửi các tín hữu Êphêsô, đã dùng sự chuyển động nghịch lý này để giải thích
mầu nhiệm Đức Kitô: “Giờ đây, khi nói rằng: ‘Người đã lên’ nghĩa là
gì, nếu không phải là Người đã xuống tận cùng các vùng sâu thẳm dưới mặt đất”
(Êp 4:9).
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng trở nên Con
Người (Ga 3:13) cho chúng ta biết về mầu nhiệm Thiên Chúa (Ga
1:18). Chỉ có một mình Người mới có thể làm được điều này, vì chỉ có
mình Người đã trông thấy Chúa Cha (Ga 6:46). Chúng ta có thể nói
rằng mầu nhiệm Ngôi Lời, Đấng từ Trời mà xuống, đáp ứng những mong mỏi của các
tiên tri: ai sẽ lên trời để mặc khải mầu nhiệm này cho chúng
ta? (xem Đnl 30:12; Cn 30:4). Sách Tin Mừng thứ tư thì
tràn ngập những lời đề cập đến mầu nhiệm về Đấng “từ Trời mà đến” (1Cr
15:47). Sau đây là một số trích dẫn hoặc đoạn tham
khảo: Ga 6:33,38,51,62; 8:42; 16:28-30; 17:5.
Việc tôn vinh Chúa Giêsu chính là việc Người
xuống thế để đến với chúng ta, cho đến chết, và chết trên Thập Giá, trên đó
Người đã bị treo lên như con rắn nơi hoang địa, “để cho bất cứ ai… nhìn lên nó
thì sẽ được sống” (Ds 21:7-9; Dcr 12:10). Thánh sử Gioan nhắc nhở
chúng ta về cảnh cái chết của Chúa Giêsu bị treo lên: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ
đã đâm thâu” (Ga 19:37). Trong bối cảnh của sách Tin Mừng thứ tư,
quay đầu lại và nhìn có nghĩa là “biết”, “hiểu”, “thấy”.
Thường xuyên, trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu
nói về việc mình bị nâng lên: “khi các ông giương cao Con Người lên,
bấy giờ các ông sẽ biết Ta là Đấng ấy (Ga 8:28); “một khi được giương cao lên
khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để
ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào” (Ga 12:2-33). Trong các sách Tin
Mừng Nhất Lãm cũng viết về việc Đức Giêsu loan báo với các môn đệ về mầu nhiệm
cái chết của Người trên thập giá (xem Mt 20:27-29; Mc 10:32-34; Lc
18:31-33). Thật ra, Đức Kitô đã “phải chịu mọi khổ hình như thế, rồi
mới vào trong vinh quang của Người” (Lc 24:26).
Mầu nhiệm này mặc khải tình yêu tuyệt vời mà
Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Kitô là Con Thiên Chúa được ban
cho chúng ta, “để bất cứ ai tin vào Con Người sẽ không bị hư mất, nhưng sẽ được
sự sống đời đời”, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta đã chối từ và đã đóng
đinh. Nhưng nói một cách chính xác về việc chối từ này của chúng ta,
Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng ta thấy lòng trung thành và tình yêu của
Người không dừng lại trước sự cứng lòng của chúng ta. Và thậm chí mặc
dù bị khước từ và bị chúng ta khinh miệt, Người vẫn ban cho chúng ta ơn cứu độ
(xem Cv 4:27-28), quyết tâm trong việc thực thi kế hoạch lòng thương xót của
mình: thật ra, Thiên Chúa đã không sai Con Một Người đến thế gian để
lên án thế gian, mà là nhờ Người để cho thế gian được cứu
rỗi.
b) Một vài
câu hỏi gợi ý:
i) Điều nào trong đoạn Tin Mừng đã đánh động bạn nhất?
ii) Việc suy tôn Chúa Kitô và Thánh Giá của Người có ý
nghĩa gì đối với bạn?
iii) Sự chuyển động nghịch lý của việc từ trời xuống này
bao hàm hệ quả gì trong cuộc sống đức tin của bạn?
3. Cầu nguyện:
Thánh Vịnh 78(1-2,
34-38)
Dân tôi hỡi, này nghe tôi dạy bảo,
lắng tai đón nhận lời lẽ miệng tôi.
Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ,
công bố điều huyền bí thuở xa xưa.
Khi Chúa giết họ, họ mới đi tìm Chúa,
mới trở lại và mau mắn kiếm Người,
mới nhớ rằng: Thiên Chúa là núi đá họ ẩn thân,
Thiên Chúa Tối Cao là Đấng cứu chuộc họ.
Miệng họ phỉnh phờ Chúa, lưỡi họ lừa dối Người;
còn lòng dạ chẳng chút gì gắn bó,
chẳng trung thành giữ giao ước của Người.
Nhưng Người vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt,
nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí.
mới trở lại và mau mắn kiếm Người,
mới nhớ rằng: Thiên Chúa là núi đá họ ẩn thân,
Thiên Chúa Tối Cao là Đấng cứu chuộc họ.
Miệng họ phỉnh phờ Chúa, lưỡi họ lừa dối Người;
còn lòng dạ chẳng chút gì gắn bó,
chẳng trung thành giữ giao ước của Người.
Nhưng Người vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt,
nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí.
4. Chiêm Niệm:
“Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở
miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Phl
2:11)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét