Trang

Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

Thượng Hội Đồng: Phúc trình phần ba của các nhóm A và B nói tiếng Anh

Thượng Hội Đồng: Phúc trình phần ba của các nhóm A và B nói tiếng Anh
Vũ Văn An10/23/2015


I.                   Nhóm A

Điều hợp viên: Đức Hồng Y George Pell
Tường trình viên: Đức Tổng Giám Mục Joseph Edward Kurtz


Sứ mệnh của gia đình, người hàng đầu loan báo Tin Mừng, cả trong gia đình lẫn bên ngoài gia đình, phát xuất từ lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Được hướng dẫn bởi Lời Thiên Chúa, Huấn Quyền và sự thúc đẩy liên tục của Chúa Thánh Thần cũng như được nâng đỡ bởi Bí Tích Hôn Phối, các gia đình được giúp đỡ để trở thành các môn đệ truyền giáo của tình yêu và lòng thương xót Thiên Chúa tại bất cứ nơi nào họ hiện diện. Sứ mệnh gia đình bao trùm tình yêu vợ chồng, việc giáo dục con cái, việc trung thành sống thực bí tích, việc chuẩn bị hôn nhân cho các cặp khác, việc đồng hành trong thân hữu và đối thoại với các cặp hay các gia đình đang gặp khó khăn, và việc tham dự vào đời sống cộng đồng của Giáo Hội. Khi mở lòng mình ra trước các nhu cầu gần xa, các gia đình đã biết cách nhập thân lời lẽ sau đây của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Chúa Giêsu muốn chúng ta chạm tới sự khốn cùng của con người, chạm tới thân xác đau đớn của người khác… và bước vào thực tại đời sống của người khác và biết sức mạnh của lòng nhân hậu. Bất cứ khi nào ta làm thế, đời ta cũng trở nên phức tạp một cách kỳ diệu và ta cảm nghiệm được một cách thâm hậu thế nào là một dân tộc, thế nào là thành phần của một dân tộc” (Niềm Vui Tin Mừng, số 270).

Dù ơn phúc đức tin được đón nhận vào đời sống gia đình xuyên qua văn hóa của gia đình ấy, đức tin này cũng giúp lên khuôn cho nền văn hóa. Mọi gia đình đều có gốc rễ trong văn hóa và gia đình Kitô hữu có trách nhiệm phải thông tri cho văn hóa biết Tin Mừng. Để đạt được mục tiêu này, Giáo Hội đã chính xác khuyến cáo các chính phủ cổ vũ tự do tôn giáo, một tự do bao gồm không những quyền được thờ phượng, mà cả quyền được phát biểu các vấn đề lương tâm, được tham gia vào công việc dân chính, và được phục vụ người khác một cách nhất quán với đức tin và sứ mệnh của mình.

Trong đời sống của những người kết hôn và những người chứng kiến, phụng vụ lễ cưới gây tác động hết sức mạnh mẽ. Chúng tôi đã khảo sát sức mạnh của các nghi lễ hôn phối trong đó cả nghi thức lẫn bài giảng gây một tác động hết sức giá trị cũng như chứng tá suốt đời của các gia đình Kitô hữu.

Việc chuẩn bị hôn nhân cho các cặp cũng như việc tiếp tục đào luyện và nâng đỡ họ là điều thực sự quan trọng. Việc đào luyện này cần được đặt cơ sở trên nền thần học Thánh Kinh, nền nhân học Kitô Giáo và các giáo huấn của Giáo Hội. Điều đáng lưu ý đặc biệt là cuộc thảo luận của chúng tôi về việc giáo dục sinh lý thích đáng đặt căn bản trên cái hiểu Kitô Giáo chân chính về tính dục. Các chương trình giáo dục sinh lý cần nhấn mạnh tới việc đào tạo lương tâm, ý thức trách nhiệm, giá trị của sự tự chủ, của sự thùy mị đoan trang và nhân đức trong sạch. Thêm vào đó, mọi người đều đồng ý rằng vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục sinh lý cho con cái cần được nhấn mạnh. Họ là các thầy cô đầu tien và đệ nhất đẳng của con cái họ và các cố gắng của họ cần được nâng đỡ bởi các chương trình giáo dục sinh lý tại các trường và giáo xứ.

Trong mọi trường hợp đồng hành mục vụ của Giáo Hội với các gia đình, điều chủ yếu là các cố gắng đồng hành với người ta phải làm chứng một cách rõ ràng cho giáo huấn của Giáo Hội. Điều quan trọng nhất là một sự rõ ràng và lôi cuốn về ngôn ngữ, giúp cho giáo huấn của Giáo Hội trở nên dễ hiểu dễ nắm được hơn.

Chúng tôi đã suy nghĩ về phương cách Giáo Hội đồng hành với những người đang lao đao. Trong trường hợp nào, mọi chăm sóc mục vụ cũng phải nổi bật về lòng bác ái và kiên nhẫn, nhất là đối với những người không sống hay không sẵn sàng sống hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội. Họ cần được tiếp đón một cách yêu thương và tôn trọng bởi các mục tử của Giáo Hội; các vị này cần rộng lượng trong việc đồng hành với họ và trong việc phát huy các ước nguyện của họ muốn được tham dự đầy đủ hơn vào đời sống Giáo Hội.

Trong số các xem xét mục vụ quan trọng, chúng tôi đã thảo luận các thách đố do các cuộc hôn nhân hỗn hợp đặt ra. Chúng tôi quả quyết rằng để những cuộc hôn nhân này thành công, điều quan trọng là các cặp được huấn luyện kỹ về giáo huấn của Giáo Hội trước khi kết hôn và được các cộng đồng đức tin của họ đồng hành.

Chúng tôi cũng chấp nhận một số đề nghị liên quan đến việc đồng hành với những người ly dị và tái hôn dân sự. Chúng tôi ủng hộ các cố gắng gần đây nhằm hợp lý hóa diễn trình tuyên bố vô hiệu, giúp nó dễ với tới hơn mà không thay đổi giáo huấn của Giáo Hội. Đa số, nhưng không hoàn toàn nhất trí, đã khẳng định giáo huấn và thực hành hiện thời của Giáo Hội liên quan tới việc những người ly dị và tái hôn dân sự tham dự Bí Tích Thánh Thể. Chúng tôi nhìn nhận rằng con đường này có thể khó khăn, và các mục tử nên đồng hành với họ với sự hiểu biết, luôn sẵn sàng tỏ bầy như mới lòng thương xót của Thiên Chúa với họ khi họ ở thế cần tới nó.

Đa số, tuy không hoàn toàn nhất trí, cũng quả quyết rằng thực hành mục vụ liên quan tới việc rước lễ của các người ly dị và tái hôn dân sự không thể phó mặc nơi từng hội đồng giám mục riêng rẽ. Làm thế sẽ có nguy cơ phá hoại sự hợp nhất của Giáo Hội Công Giáo, cái hiểu về trật tự bí tích, và chứng tá hữu hình của đời sống tín hữu.

Chúng tôi nói tới sự quan trọng của việc lưu tâm mục vụ đối với những người có khuynh hướng đồng tính luyến ái, đặc biệt đối với các gia đình có người có khuynh hướng này là thành viên. Là hiền thê của Chúa Kitô, Giáo Hội phải rập khuôn tác phong của mình theo Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tình yêu vĩ đại đã được cung hiến cho mọi người không trừ một ai. Cha mẹ và anh chị em của các thành viên trong gia đình có khuynh hướng đồng tính được mời gọi yêu thương và chấp nhận các thành viên của gia đình này với một trái tim không phân chia và hiểu biết. Chúng tôi kêu gọi Thượng Hội Đồng khẳng định và đề xuất như mới toàn bộ giáo huấn của Giáo Hội về tình yêu và đức trong sạch. Chúng tôi khuyến khích các cha mẹ và các thành viên gia đình tin tưởng vào giáo huấn này khi họ thương yêu và đồng hành với nhau trong việc đáp lại lời kêu gọi của Tin Mừng hướng tới lối sống trong sạch.

Cuối cùng, chúng tôi bàn tới việc sinh sản và dưỡng dục con cái, qua việc khẳng định giáo huấn phong phú của Humanae Vitae, nhất là phần nó quả quyết rằng các chiều hướng kết hợp và sinh sản của hành vi vợ chồng là các chiều hướng không thể nào phân rẽ với nhau được. Việc đồng hành mục vụ chân chính với các cặp vợ chồng phải công bố sự thật ấy, đồng thời giúp họ thấy điều này: một lương tâm được đào tạo tốt phải tuân giữ luật luân lý không như một trói buộc từ bên ngoài nhưng như một con đường tự do, trong ơn thánh. Ở đây, đòi có một phương thức mục vụ biết tìm cách giúp các cặp chấp nhận sự thật trọn vẹn về tình yêu vợ chồng một cách dễ hiểu và lôi cuốn.

Cuộc thảo luận của chúng tôi về một số vấn đề đã gây xúc động và tình cảm mạnh mẽ. Các tham dự viên trong nhóm hy vọng rằng bản tường trình cuối cùng của Thượng Hội Đồng sẽ thống nhất hóa chứ đừng chia rẽ, phải nói lên được rằng chúng ta là các giám mục cum and sub Petro (cùng với và dưới quyền Phêrô).

Chúng tôi hân hoan khẳng định sứ mệnh của gia đình, một sứ mệnh đối với nhau, đối với Giáo Hội và đối với thế giới.

II. Nhóm B

Điều hợp viên: Đức Hồng Y Vincent Gerard Nichols
Tường trình viên: Đức Tổng Giám Mục Diarmuid Martin


Nhóm yêu cầu văn kiện sau cùng nên có tựa đề “Tường Trình Cuối Cùng của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Ơn Gọi và Sứ Mệnh Gia Đình trong Giáo Hội và Thế giới Ngày Nay trình lên Đức Giáo Hoàng Phanxicô”.

Nhóm nhấn mạnh điều này: Gia đình không phải chỉ là đối tượng của phúc âm hóa mà còn là chủ thể tích cực, tác nhân, và nguồn gốc của nó. Gia đình thực hiện việc phúc âm hóa ngay trong tế bào gia đình, bằng tình yêu tự hiến của các người phối ngẫu, bằng việc giáo dục con cái hướng tới một cảm tính vô vị lợi, và trở nên chất men biến đổi trong xã hội. Việc thực sự sống thực hiệp thông gia đình là một hình thức công bố có tính truyền giáo. Sứ mệnh và chứng tá phúc âm hóa bắt nguồn từ các bí tích khai tâm: rửa tội, thêm sức và Thánh Thể.

Nhóm nhấn mạnh vai trò của gia đình trong các hiệp hội, các phong trào gia đình, các tiểu cộng đồng Kitô Giáo, và trong các giáo xứ.
Trong (phần nói về) sự hiệp thông nội bộ của gia đình này, nhóm muốn thêm vào một đoạn mới nói về “Hôn Nhân, một Biểu Thức nói lên Sự Tốt Lành của Ơn Phúc Tính Dục”. Khi yêu nhau về tính dục, vợ chồng cảm nghiệm được sự âu yếm dịu dàng của Thiên Chúa. Giáo huấn của Giáo Hội về tính dục, bao gồm ý nghĩa trong sạch, phải nhấn mạnh tới vẻ đẹp, niềm vui, và sự phong phú của tính dục con người và vị trí của tình yêu tính dục trong mối liên hệ có cam kết, độc chiếm và vĩnh viễn. Tại nhiều nơi, viễn kiến phong phú của Kitô Giáo về tính dục đang bị phá hoại bởi một cái hiểu hẹp hòi và nghèo nàn hơn.

Nhóm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn bị hôn nhân không chỉ trong thời kỳ trước nghi lễ hôn phối. Nhóm đề nghị rằng các phân biệt cổ truyền chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị tức khắc nên được phục hồi trong việc suy nghĩ về mọi hình thức của ơn gọi.

Chính các gia đình phải là những người loan báo Tin Mừng đầu tiên. Trong gia đình, các người phối ngẫu thực thi chức linh mục chung của mọi tín hữu. Việc đào tạo đức tin cho con cái từ lúc còn thơ chính là việc chuẩn bị xa cho việc làm môn đệ lúc trưởng thành chín chắn.

Thừa tác vụ giới trẻ, việc dạy giáo lý tại giáo xứ và tại trường, các buổi tĩnh tâm, và các cộng đồng nhỏ Kitô Giáo, nên tập chú vào các người trưởng thành trẻ tuổi và suy nghĩ xem Thiên Chúa đang kêu gọi họ ra sao bất kể trong hôn nhân, trong cuộc sống độc thân, trong chức linh mục, hay trong đời sống thánh hiến. Một nền giáo lý dài hạn như thế phải nhấn mạnh tới hôn nhân như là một hành trình của đức tin.

Việc chuẩn bị tức khắc để các cặp cử hành hôn phối nên bao gồm các bài giáo lý về hôn nhân như một bí tích và một ơn gọi, về cầu nguyện, và về lời mời gọi những ai đang lỏng lẻo trong đức tin hãy hoán cải trở về. Tại một số khu vực, người ta ghi nhận điều này: phần lớn các cặp đến trình diện chuẩn bị hôn nhân có thể đã sống với nhau một khoảng thời gian dài. Tại những khu vực khác, truyền thống và văn hóa có bao gồm một chuẩn bị dài hơn, có cấu trúc đàng hoàng, với sự tham dự tích cực của cả hai gia đình.

Nhóm khẳng định vai trò chủ yếu của các linh mục, như là các tông đồ bên cạnh các gia đình, trong việc chuẩn bị cho các cặp lãnh nhận bí tích hôn phối và tiếp tục đồng hành với họ và gia đình họ lúc họ thực sự sống ơn gọi của họ. Nhóm đề nghị thêm vào một đoạn mới đề cập tới việc đào tạo các linh mục cho thừa tác vụ này.

Nhóm khảo sát chi tiết thách đố đồng hành mục vụ với các gia đình đang sống trong các tình huống hôn nhân khó khăn. Đồng hành mục vụ ngày nay phải luôn được đánh dấu bằng khoa sư phạm và lòng thương xót của Thiên Chúa. Cần thận trọng nhận diện các yếu tố có thể cổ vũ việc phúc âm hóa và phát triển nhân bản cùng tâm linh. Thí dụ phải chú ý tìm cho ra các khía cạnh trong mối liên hệ do hôn nhân dân sự, do hôn nhân truyền thống, hay do việc sống chung tạo ra nhưng rất có thể tăng trưởng hướng tới việc cử hành đầy đủ bí tích hôn phối.

Về việc chăm sóc mục vụ cho những người ly dị và tái hôn, nhóm xét xem nên có loại đồng hành mục vụ nào đối với họ. Một đồng hành loại này đòi phải xem xét hoàn cảnh hôn nhân của họ, và cũng phải thăm dò xem khi nói rằng họ không bị loại khỏi đời sống Giáo Hội thì điều này có nghĩa gì.

Nhóm đề nghị một diễn trình biện phân hay “cung kính lắng nghe”, lưu ý tới câu truyện của những người muốn được thấu hiểu và nâng đỡ. Mục đích thứ nhất của lối đồng hành đầy chăm chú này là phát huy tư cách làm môn đệ Chúa Kitô sâu sắc hơn, dựa vào sợi dây bền bỉ của phép rửa, hơn là bàn tới việc cho phép họ lãnh nhận các bí tích thống hối và Thánh Thể.

Diễn trình cung kính lắng nghe này đòi phải thỏa thuận được một cái khung với các yếu tố rõ ràng. Các yếu tố này có thể bao gồm:

1. Lưu ý tới câu truyện của cuộc hôn nhân đầu, tới tính bất thành sự có thể có của nó, bằng cách xem xem liệu có bất cứ lý do gì để điều tra thêm ở tòa ngoài, hay liệu có những lý do khiến phải khảo sát thêm ở tòa trong, với việc chạy tới một vị đại diện của giám mục tại nơi chức vụ này được thiết lập riêng cho mục đích này.

2. Lưu ý tới các vết thương do ly dị gây nên nơi các cá nhân, nơi con cái họ, nơi các gia đình và cộng đoàn, kể cả cộng đoàn Giáo Hội và các cách thế để thanh thỏa các trách nhiệm đối với cuộc hôn nhân đầu;

3. Lưu ý tới câu truyện của cuộc hôn nhân thứ hai, sự ổn định của nó, tính hoa trái của nó và các trách nhiệm từ đó phát sinh;

4. Chú tâm vào việc đào tạo và phát triển thiêng liêng, qua việc thăm dò tác động của các biến cố trên đối với mối liên hệ với Chúa Kitô; vào cảm thức thống hối đối với việc gây ra thương tích và tội lỗi; vào mối liên hệ hiện nay với Chúa Kitô, và với cộng đoàn giáo xứ; vào việc đào tạo lương tâm liên tục và việc phát triển một phán đoán lương tâm chín chắn hơn về tình huống hiện nay.

Về chủ đề rước lễ thiêng liêng, nhóm nhận định rằng những người mà tình trạng sống khách quan, vốn là một cuộc kết hợp bất hợp lệ, đặt họ vào thế mâu thuẫn với ý nghĩa trọn vẹn của Phép Thánh Thể, rất có thể không ở trong trạng thái có tội xét theo chủ quan. Bởi thế, họ có quyền có ước muốn được rước lễ để kết hợp với Chúa Kitô. Dù tình trạng khách quan ngăn cản họ lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, họ có quyền khai triển tập quán rước lễ thiêng liêng, và nhờ thế trở nên cởi mở hơn đối với ơn cứu rỗi của Chúa Giêsu Kitô và sự kết hợp trong Giáo Hội.

Về đề tài cho phép các người ly dị và tái hôn lãnh nhận các bí tích, nhóm có lời yêu cầu như sau: vì tư liệu phong phú phát sinh từ diễn trình Thượng Hội Đồng này, xin Đức Thánh Cha xem xét việc thiết lập, trong Năm Thánh Thương Xót, một ủy ban đặc biệt để nghiên cứu sâu xa các phương cách qua đó, kỷ luật vốn phát xuất từ tính bất khả tiêu hôn nhân của Giáo Hội có thể áp dụng cho tình huống những người sống trong các cuộc kết hợp bất hợp lệ, kể cả các tình huống phát sinh từ tập tục đa hôn.

(vietcatholic)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét