Trang

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2018

22-03-2018 : THỨ NĂM - TUẦN V MÙA CHAY


22/03/2018
Thứ năm tuần 5 Mùa Chay


Bài Ðọc I: St 17, 3-9
"Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".
Trích sách Sáng Thế.
Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng: "Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".
Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.
2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.
3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Ðáp.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14
Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và Chúa sẽ ở cùng các ngươi.

Phúc Âm: Ga 8, 51-59
"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Toan Ném Ðá Chúa
Khi mới về nhận xứ Art, một xứ vỏn vẹn có 300 giáo dân. Cha Vianey đã khởi sự xây dựng giáo xứ bằng những chất liệu: Cầu nguyện, hy sinh, hãm mình. Dần dần giáo dân từ nhiều xứ đổ xô đến xứ Art nghe ngài dạy giáo lý và nhất là để xưng tội với ngài. Các linh mục đồng nghiệp đều biết trước đây cha Vianey rất tầm thường, học hành rất dốt. Nhưng vì bản tính con người hay ghen tị, vì thế khi thấy giáo dân đổ xô đến xưng tội với một cha xứ hạng bét như vậy, nên họ đã trình bày với Ðức Cha địa phận như sau: "Thưa Ðức Cha, cha Vianey trước đây học hành rất kém mà nay lại cả gan giải tội cho giáo dân khắp nơi. Họ bị những lời đồn thổi phóng đại, mê tín quyến rũ, nên ào ào đến xứ Art ngày càng đông. Có thể có những nố khó, nên cha Vianey đã giải sai nguyên tắc thần học luân lý".
Nghe các cha nói vậy, Ðức Giám Mục cũng không khỏi lo lắng. Ngài cho gọi cha Vianey đến và trao cho cha một số trường hợp tội khó giải, để cha về giải trên giấy tờ rồi đem nộp lại cho Tòa Giám Mục. Chỉ vài ngày sau, cha Vianey đã đem nộp cho Tòa Giám Mục những giải đáp. Các nhà chuyên môn luân lý thần học xem qua đều khen cha Vianey giải đáp đúng và có những lời khuyên rất khôn ngoan. Ai nấy đều ngạc nhiên lẫn mến phục. Nhưng chưa hết, càng ngày giáo dân càng đến xứ Art xưng tội với cha Vianey càng đông, khiến cha phải giải tội cho giáo dân từ nửa đêm.
Có một lần kia, các linh mục ở những giáo xứ bên cạnh làm tờ đơn kiện cha Vianey gửi thẳng về Tòa Giám Mục. Họ kiện cha quyến rũ giáo dân các xứ khác đến xưng tội với cha, làm mất trật tự mục vụ trong các giáo xứ. Một linh mục được trao trách nhiệm đem tờ đơn lên Tòa Giám Mục, cha dừng lại giáo xứ Art để thăm cha Vianey và trao cho cha xem tờ đơn mà các linh mục khác kiện để xin Ðức Cha cấm cha không được giải tội. Ðọc tờ đơn xong, cha Vianey không tỏ chút gì giận dữ hay trách móc những anh em linh mục. Nhưng ngài bình thản lấy bút viết vào cuối tờ đơn như sau: "Việc anh em nói trong đơn rất đúng với sự thật. Con cũng xin ký tên vào tờ đơn đồng tình với anh em". Rồi cha xếp tờ đơn trao lại cho cha đưa thư và cám ơn cha khách đã đến thăm để tạo cho ngài có dịp cùng ký tên vào đơn.
Ðơn được chuyển về Tòa Giám Mục, và sau khi đọc xong đơn và thấy bên dưới có cả chữ ký của cha Vianey nữa. Ðức Cha lấy làm lạ, hỏi vị linh mục cầm đơn lên. Nghe ngài giải thích xong, Ðức Cha kết luận: "Các cha xem, cha Vianey phản ứng rất khiêm tốn. Có ai lại đồng ý tự kiện mình bao giờ? Ngài thực sự là người đạo đức. Thôi ta cứ để xem, nếu là việc Chúa thì sẽ vững bền. Ngược lại, nếu là việc của ý riêng ngài thì thế nào cũng sụp đổ". Cha kia về thuật lại cho các linh mục khác nghe, ai cũng ngạc nhiên nghĩ: "Ðáng lẽ cha Vianey phải giận dữ, căm thù mình mới phải. Ai ngờ lại ký tên vào đơn kiện ngài, thôi ta cứ chờ xem, theo như quyết định của Ðức Cha".
Anh chị em thân mến!
Các linh mục đồng nghiệp của cha Vianey đã xét đoán theo những tiêu chuẩn phàm trần tự nhiên của lý trí, cộng thêm với những tâm tình ghen tị, những xét đoán sai lầm đó càng làm cho các ngài trở nên mù quáng tinh thần nhiều hơn. Thái độ sống và xét đoán như vậy không khác gì với thái độ xét đoán mù quáng của những người Do Thái không tin Chúa, không chấp nhận những sự thật của Chúa mạc khải cho họ, như bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: "Bây giờ tôi mới hiểu rõ ông bị quỉ ám".
Anh chị em thân mến!
Trong cuộc đối thoại với những người Do Thái, Chúa Giêsu càng muốn mạc khải cho biết thân thế của Ngài là ai? Về nếp sống phải có của những ai tin nhận Ngài: "Ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Trong cái nhìn phàm trần, ỷ lại vào kiến thức cũng như kinh nghiệm sống của mình, những người Do Thái không thể nào nhìn nhận thực thể của Chúa: "Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Thật là quá lắm đối với quan điểm hiểu biết phàm trần của họ: "Ông này quả thật là bị quỉ ám". Một vị Thiên Chúa đã bị con người bôi nhọ chụp mũ. Bởi vì con người dễ dàng tin theo những sự thật khác xuôi tai hơn là sự thật của Chúa. Vả lại, sự thật của Chúa rất đòi hỏi, đòi buộc con người phải từ bỏ nếp sống cũ và tội lỗi, những mưu tính vụ lợi cho các nhân, những ganh tị, ham quyền, ham danh vọng.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã nhắc nhở những người con tinh thần của mình như sau: "Ta là sự thật. Không phải báo chí là sự thật. Không phải đài phát thanh là sự thật. Không phải Tivi là sự thật. Con theo loại sự thật nào? Giàu hay nghèo, khen hay chê, sang hay hèn không sao cả. Chấp nhận tiến lên theo hồng phúc để đợi ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng cứu chuộc chúng ta. Không nhượng bộ cho xác thịt, không nhượng bộ cho lười biếng, không nhượng bộ cho ích kỷ. Con không thể đổi đen ra trắng, xấu ra tốt, gian ra ngay được".
Anh chị em thân mến!
Trong những giây phút gần cuối Mùa Chay, mỗi người chúng ta hãy dừng lại xét mình về thái độ của mình trước những sự thật mạc khải của Thiên Chúa, và trước những lời mời gọi cùng những gương sáng của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã thôi thúc chúng ta tiến lên mãi trên con đường đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy để cho Lời Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Lạy Chúa, xin thương ban ơn củng cố đức tin còn non yếu và thanh tẩy con sạch mọi trở ngại, mọi tội lỗi không cho phép Chúa hiện diện trong con, cũng như không giúp con nhìn ra Chúa nơi anh em xung quanh. Lạy Chúa, xin thương lôi kéo con trở về với Chúa. Amen.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần V MC
Bài đọcGen 17:3-9; Jn 8:51-59.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lời Thiên Chúa hứa với Abraham được thực hiện nơi Đức Kitô.
Hơn một nửa dân số trên địa cầu hiện nay tuyên bố tổ-phụ Abraham là cha của họ: Do-thái giáo, Hồi-giáo, Kitô giáo (bao gồm tất cả những ai tin vào Đức Kitô); nhưng lại không nhận nhau là anh, chị, em! Người Do-thái cho rằng chị có họ là giòng dõi Abraham theo máu mủ của Isaac. Người Hồi-giáo cho họ cũng là giòng dõi của Abraham vì Ismael cũng là con của Abraham. Người Kitô giáo dựa vào giao ước Thiên Chúa đã ký kết với tổ-phụ. Một sự đọc lại bản giao ước này cần thiết để xóa tan mọi ngộ nhận và giúp mọi người sống thân mật với nhau.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong giao ước Thiên Chúa ký kết với tổ-phụ Abraham. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Thế Ký tường thuật bản giao ước Thiên Chúa ký kết với tổ-phụ Abraham. Thiên Chúa sẽ làm cho ông thành “cha nhiều dân tộc,” chứ không phải chỉ dân tộc Israel mà thôi. Phần Abraham và giòng dõi ông, họ phải tin và tuân giữ những gì Thiên Chúa dạy. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Abraham đã vui mừng khi nhìn thấy ngày của Ngài; vì nhờ Ngài, lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ sẽ trở thành “cha nhiều dân tộc,” được thực hiện.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu với tổ-phụ Abraham.
1.1/ Phía của Thiên Chúa:
(1) Ngài hứa ban vô số dân tộc: Đây là một lời hứa rất quan trọng. Chúng ta cần tìm hiểu chi tiết của lời hứa này:
- Tên Abram có nghĩa “Cha được vinh quang.” Chúa đổi tên cho ông thành Abraham có nghĩa “Cha của một đám đông, ab hamôn.” Tên này ám chỉ lời Thiên Chúa hứa với ông: “Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc.”
- Điều quan trọng của lời hứa là giòng dõi của ông sẽ không còn giới hạn trong vòng Israel, nhưng lan rộng ra đến các dân tộc. Nếu chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Israel, Abraham không thể có con cháu nhiều như sao trên trời và như cát ngòai bãi biển được.
- Làm sao để lời hứa này hiện thực? Thánh Phaolô giúp chúng ta trả lời, bằng niềm tin của con người vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô. Mà nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì anh em là dòng dõi ông Abraham, những người thừa kế theo lời hứa” (Gal 3:27-29).
- Vua chúa sẽ phát xuất từ ngươi: Hai nhân vật quan trọng của giòng dõi Abraham là Vua David và Chúa Giêsu Kitô.
- Giao ước này là giao ước vĩnh cửu: không lệ thuộc vào thời gian và không gian, được trải dài đến muôn vàn thế hệ.
(2) Ngài hứa ban Đất Hứa: “Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là tất cả đất Canaan, làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.” Đất Hứa là đất Canaan mà Joshua và con cái Israel sẽ chiếm đóng khi từ Ai-cập trở về.
1.2/ Phần của Abraham: Bổn phận chính yếu của Abraham và tất cả giòng dõi của ông là phải luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa và làm những gì Ngài dạy.
2/ Phúc Âm: Sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và tổ-phụ Abraham
2.1/ Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết: Chúa Giêsu cũng tuyên bố một câu tương tự với Martha khi cô cầu xin với Ngài cho em là Lazarus được sống lại: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Jn 11:25-26). Ở đây, Chúa Giêsu không có ý nói về cuộc sống thể lý; nhưng cuộc sống về đàng thiêng liêng. Những ai đã tin và giữ lời Chúa dạy, họ luôn sống; tuy họ sẽ phải chết về phần xác, nhưng đó chỉ là cách để đưa họ tới cuộc sống muôn đời với Thiên Chúa. Cuộc sống muôn đời trong tương lai đã bắt đầu ngay từ ở đời này.
Nhưng người Do-thái không hiểu ý Chúa Giêsu, nên họ nói: "Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Abraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói: "Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Abraham sao? Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự xưng mình là ai?"
2.2/ Lời hứa của Thiên Chúa với Abraham được thực hiện nơi Đức Kitô.
(1) Chúa Giêsu biết Thiên Chúa và vâng lời Ngài: Chúa Giêsu tuyên bố: “Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông.” Con người có cố gắng lắm cũng chỉ biết phần nào của Thiên Chúa, Chúa Giêsu biết Thiên Chúa như Thiên Chúa là, vì Ngài là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Nếu con người muốn biết Thiên Chúa, họ phải tin vào những mặc khải của Chúa Giêsu. Hơn nữa, Chúa Giêsu luôn vâng lời Thiên Chúa trong mọi sự. Nếu con người muốn biết thế nào là tuân theo ý định của Thiên Chúa, họ cũng phải học nơi Chúa Giêsu. Ngài hòan tòan làm theo ý định của Cha Ngài. Người Do-thái tuyên bố họ biết Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ đã không biết và không vâng lời Ngài.
(2) Tổ-phụ Abraham và Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đã chứng minh cho người Do-thái trong trình thuật hôm qua: họ không phải là con cháu Abraham, vì họ không làm những gì ông làm. Trong trình thuật hôm nay, Ngài lại chứng minh cho họ một lần nữa: họ không phải là con cháu Abraham, vì họ không vui mừng đón tiếp Ngài như Abraham: “Ông Abraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ.” Làm sao để hiểu lời tuyên bố này? Cách cắt nghĩa dễ nhất là dùng trình thuật của Lucas về dụ ngôn người phú hộ và Lazarus (Lk 16:22-31). Abraham đang ở trên trời nhìn xuống và thấy hết mọi sự. Nhưng đây chỉ là dụ ngôn Chúa dùng. Thực ra, truyền thống Do-thái tin Abraham đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy ngày Đấng Thiên Sai ra đời và ông đã mừng rỡ. Truyền thống Giáo Hội tin Abraham và những người lành đã chết chỉ sống lại, khi Đức Kitô xuống Ngục Tổ Tông đưa các ngài lên trong đêm vọng Phục Sinh.
Người Do-thái phản đối: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Abraham!" Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!" Chúa Giêsu không lệ thuộc thời gian, Ngài không nói: trước khi Abraham có, Tôi đã có; nhưng nói Tôi Hằng Hữu. Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giêsu lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Đọc lại giao ước vĩnh cửu Thiên Chúa đã ký kết với tổ-phụ Abraham cho chúng ta thấy những điều quan trọng sau đây:
(1) Giòng dõi của tổ-phụ Abraham được mở rộng đến các dân tộc, chứ không chỉ giới hạn trong dân tộc Israel.
(2) Mọi người đều có thể trở thành con cháu tổ-phụ Abraham bằng niềm tin vào Đức Kitô và làm những gì Ngài dạy.
(3) Nếu một người thuộc dân tộc Israel mà không tin và làm những gì Đức Kitô dạy, họ cũng không phải là con cháu của tổ-phụ Abraham; vì đã không tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

22/03/2018 - THỨ NĂM TUẦN 5 MC
Ga 8,51-59

TIN ĐỨC GIÊ-SU LÀ THIÊN CHÚA
“Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì Tôi, Tôi hiện hữu.” (Ga 8,58)
Suy niệm: “Câu hỏi cấp bách về vấn đề đức tin là phải chăng một người văn minh có thể tin vào thần tính của Con Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-tô, bởi vì toàn bộ đức tin của ta là ở chỗ đó” (nhà văn Nga F. Dostoevski). Không riêng chi con người văn minh ngày nay, những người Do Thái thời Đức Giê-su cũng đụng phải vấn đề gai góc này như bài Tin Mừng hôm nay thuật lại. Khi nói rằng mình hiện hữu trước ông Áp-ra-ham, Ngài không có ý nói rằng nhân vật Giê-su Na-da-rét hiện hữu từ muôn đời, nhưng muốn xác quyết rằng trước khi nhập thể làm người, Ngài đã hiện hữu trước thời gian, Ngài chính là Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa. Nơi nhân vật Giê-su, ta không chỉ thấy một Thiên Chúa nhập thể làm người được sinh ra, lớn lên, rao giảng Tin Mừng và chết trên thập giá, sống lại mà còn nhận ra một Thiên Chúa bày tỏ chính mình cho con người.
Mời Bạn: Tin Đức Giê-su là Thiên Chúa không chỉ thuộc lãnh vực trí óc, mà còn liên hệ đến tình mến của con tim, cũng như được thể hiện cách cụ thể qua từng suy nghĩ, lời nói và hành động của con người bạn. Bạn đã cảm nhận một niềm tin như vậy chưa?
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ bày tỏ niềm tin vào Chúa Giê-su qua việc tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật, dâng ngày cho Ngài mỗi sáng khi thức dậy, tạ ơn Ngài cuối ngày, cũng như vâng giữ điều răn yêu người như Ngài dạy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ Chúa đã cho con được biết và tin nhận Chúa là Đấng Chúa Cha sai đến. Xin cho con luôn sống tư thế người Ki-tô hữu, người thuộc về Chúa mỗi ngày.
(5 Phút Lời Chúa)


Tôi hng hu (22.3.2018 – Th năm Tun 5 Mùa Chay)
 Đc Giêsu vn cương trc nói điu phi nói và làm điu phi làm. Chúng ta xin có được s cương trc đó khi phi làm chng cho Chúa.


Suy nim:
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng việc Đức Giêsu bị ném đá.
Nhưng Ngài đã ẩn mình đi và ra khỏi Đền thờ (c. 59).
Ném đá là hình phạt của người Do thái chủ yếu dành cho kẻ phạm thượng.
Đức Giêsu đã làm gì để bị coi là mắc tội phạm thượng,
nghĩa là tội coi thường quyền tối thượng của Thiên Chúa?
Trước hết Đức Giêsu đặt mình lên trên tổ phụ đáng kính Abraham.
Ngài biết ông Abraham vui sướng mừng rỡ
vì hy vọng được thấy ngày của Ngài, thấy những việc Ngài làm đây (c. 56).
Abraham mừng vì chính Đức Giêsu, chứ không phải cá nhân mình,
mới là Đấng đem phúc lành cho mọi dân tộc trên thế giới.
Dù chưa tới năm mươi tuổi, Đức Giêsu dám coi mình là có trước ông Abraham.
“Trước khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu” (c. 58).
Ta là Đấng Hằng Hữu là câu trả lời của Thiên Chúa cho ông Môsê
khi ông hỏi tên của Ngài bên bụi cây bốc cháy (Xh 3, 14).
Đức Giêsu cũng muốn trả lời câu hỏi về mình (c. 53) bằng lối nói đó.
Vì trước khi được sinh ra ở đời làm người, thì Ngài đã hiện hữu rồi.
Ngài là một với Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga 1, 14-18),
bởi đó Ngài có trước Abraham, người đã sống trước Ngài gần hai ngàn năm.
Chính khẳng định bị coi là phạm thượng này đã khiến Ngài bị ném đá.
Đức Giêsu thường bị coi là ngạo mạn, tự tôn vì những lời như vậy.
Thật ra Ngài chẳng tự tôn vinh mình.
Chúa Cha mới là Đấng tôn vinh Ngài qua cái chết tủi nhục (c. 54).
Đức Giêsu cũng chẳng coi thường Thiên Chúa bao giờ.
Ngài gọi Thiên Chúa là Cha một cách thân thương,
và nhìn nhận: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14, 28).
Có một sự phân biệt rất rõ giữa Chúa Cha và Đức Giêsu:
Chúa Cha là người sai đi; Đức Giêsu là Con, là người được sai đi.
Đức Giêsu chỉ làm điều Ngài thấy Cha làm (Ga 5, 19-20; 8, 28-29),
và nói điều Ngài nghe Cha nói (Ga 8, 26. 40; 12, 49-50).
Triệt để vâng phục và tùy thuộc là nét đặc trưng của Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng Gioan, bao lần ta gặp cụm từ không tự mình.
Đức Giêsu không tự mình nói, cũng chẳng tự mình làm.
Ngài đòi chúng ta tuân giữ lời Ngài (c. 51)
chỉ vì chính Ngài cũng đã tuân giữ lời của Thiên Chúa (c. 55).
Trong tuần lễ này, tại nhà thờ các ảnh tượng có thể được che lại.
Khi bị ném đá, Đức Giêsu đã tránh đi vì giờ của Ngài chưa đến.
Đức Giêsu vẫn cương trực nói điều phải nói và làm điều phải làm.
Chúng ta xin có được sự cương trực đó khi phải làm chứng cho Chúa.
Cầu nguyn:

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
R. Tagore
(Đỗ Khánh Hoan dịch)

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ



Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG BA
Tiếng Gọi Hoán Cải Thúc Bách Không Ngừng
Đức Giê-su Kitô xác nhận tầm quan trọng của việc vâng phục lề luật Thiên Chúa như được công bố ở Núi Si-nai. Nhưng sứ mạng của Đức Giêsu còn vượt quá những luật luân lý của giao ước cũ. “Vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để những ai tin vào Người Con ấy … thì được sự sống đời đời” (Ga 3,16).
Đức tin vào Đức Kitô không đơn thuần chỉ có nghĩa là vâng phục lề luật, dù sự vâng phục này đến từ “niềm kính sợ Đức Chúa” như được nhắc đến trong Thánh Vịnh 111. Đức tin vào Đức Kitô bao hàm việc nhìn nhận tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Tình yêu của Chúa Cha được kết đọng nơi món quà tuyệt hảo là chính Con Một Ngài. Đó là lý do tại sao luật luân lý của giao ước mới đạt đến tột đỉnh và cốt lõi của nó trong giới răn yêu thương.
Chúng ta có thể chu toàn thánh ý của Thiên Chúa bằng cách tuân phục tất cả các giới răn mà Ngài truyền dạy. Nhưng đó là vị Thiên Chúa Tình Yêu đã mạc khải chính Ngài nơi Đức Kitô, nên chúng ta chỉ có thể đáp trả lại bằng tình yêu mà thôi! Vì thế, cuộc khảo sát lương tâm của chúng ta trong Mùa Chay phải xoáy vào tiếng gọi mến Chúa yêu người. Đây cũng là trục lộ mà Đức Kitô dẫn chúng ta đi trên con đường hoán cải. Tiếng gọi mời yêu thương ấy cũng chính là tiếng gọi không ngừng hoán cải tận đáy lòng. Cũng như chúng ta cần cầu nguyện thường xuyên, việc hoán cải cũng phải là một tiến trình kéo dài suốt cuộc đời người tín hữu.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 22/3
St 17, 3-9; Ga 8, 51-59.

LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu đáp: “Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả. Đấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông.”
Chúa Giêsu công khai cho tất cả chúng ta được biết về sự sống, việc làm, sự hiểu biết và vinh quang của Người cũng như những giá trị cần thiết cho những ai nghe và đón nhận Lời Người.
Khi nghe và tuân giữ Lời Người thì khỏi phải chết nhưng được sống, bởi vì Người là Con Thiên Chúa, Người bởi từ Thiên Chúa mà đến, nên Người biết rõ về Chúa Cha, từ đó Người khẳng định vinh quang đích thực chỉ có được từ Chúa Cha, vì Người là người duy nhất trong nhân loại này vâng lời Chúa Cha và làm mọi sự để phục vụ Chúa Cha theo ý muốn của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn tin vào Lời Chúa mà ham thích học hỏi, tìm hiểu để ngày càng nhận ra thánh ý của Chúa, nhận ra sự quan phòng của Chúa và những ơn ích mà chúng con nhận được từng ngày để cảm tạ và tôn vinh Chúa, đem lại sự sống mới cho chúng con.
Mạnh Phương


22 Tháng Ba
Trái Tim, Bộ Óc Và Cái Lưỡi
Một ngày kia, trái tim, bộ óc và cái lưỡi đồng ý với nhau là sẽ không bao giờ nói những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.
Trái tim phát biểu: "Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm bận rộn ta thôi. Chúng làm cho ta trở nên yếu đuối. Sống trong thời buổi này trái tim phải trở nên cứng rắn, cương quyết, chứ không thể mềm nhũn dễ bị xúc động được".
Bộ óc biểu đồng tình: "Vâng, đúng thế, thời buổi này chỉ có những tư tưởng cao siêu, những công thức tuyệt diệu, những chương trình vĩ đại mới đáng cho bộ óc suy nghĩ tới. Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm mất thời giờ, mà thời giờ là vàng bạc".
Cái lưỡi nghe trái tim và bộ óc nói thế không khỏi hãnh diện và tự cảm thấy mình trở nên rất quan trọng, mặc dù lưỡi chỉ là bộ phận bé nhỏ của thân thể, vì thế lưỡi cũng hội ý: "Hai anh quả thật đã đạt được tột đỉnh của sự khôn ngoan. Nếu hai anh nghĩ thế thì, tôi sẽ chỉ nói những danh từ chuyên môn, những câu nói văn hoa bóng bẩy, những bài diễn văn sâu sắc, hùng hồn".
Như đã đồng ý, kể từ dạo ấy, trái tim chỉ gửi lên lưỡi những lời nói cứng cỏi, bộ óc chỉ sản xuất và gửi xuống lưỡi những tư tưởng cao siêu và lưỡi sẽ không còn nói những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.
Với thời gian, mặt đất trở nên tẻ lạnh như cảnh vật vào mùa đông: Không có lấy một chiếc lá xanh, không còn một cánh hoa đồng nội và lòng người cũng trở nên chai đá như những thửa ruộng khô cằn, nứt nẻ trong những tháng hè nóng bức.
Nhưng những ông già, bà cả vẫn còn nhớ những lời đơn sơ nhỏ bé. Ðôi lúc miệng họ vô tình bật phát nói ra chúng. Lúc đầu họ sợ bị bọn trẻ chê cười. Nhưng kìa, thay vì cười chê, những lời nói đơn sơ nhỏ bé lại được truyền từ miệng này sang miệng khác, từ bộ óc này đến bộ óc khác, từ trái tim này qua trái tim nọ. Cuối cùng, chúng xuất phát như những chiếc hoa phá tan lớp tuyết giá lạnh để ngoi lên làm đẹp cuộc đời.
Câu chuyện trên không tiết lộ những lời đơn sơ nhỏ bé là gì, nhưng chúng ta có thể đoán: đó có thể là hai chữ: "Xin lỗi!", thốt lên để xin nhau sự tha thứ.
Hay đó là lời chào vắn gọn: "Mạnh giỏi không?" đồng nghĩa với câu hỏi: "Tôi có thể làm gì được cho anh cho chị không?".
Nhất là hai tiếng : "Cám ơn!" thốt lên chân thành từ cửa miệng của những kẻ được giúp đỡ, của những con người mang công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, hay của những vợ chồng trung tín chia sẻ với nhau những ngọt bùi, đắng cay của cuộc sống hoặc của những người được bạn bè đỡ nâng sau những thất bại ê trề hay sau những lần vấp ngã.
(Lẽ Sống)


Lectio Divina: Gioan 8:51-59
Th Năm 22 Tháng Ba, 2018


Th Năm Tun V Mùa Chay                              

1.  Li nguyn m đu

Ly Chúa là Thiên Chúa
Trong Con Mt ca Ngài là Đc Giêsu Kitô
Chúa đã ban cho chúng con mt tên gi mi,
Tên ca chính Con Mt Chúa.
Nguyn xin cho chúng con có th sng xng đáng vi thân phn mi ca chúng con,
Là nhng k sng vì người khác
Đ phc v và dn thân
Cùng vi Đc Giêsu
Con Chúa và là Chúa chúng con đến muôn đi.

2.  Phúc Âm – Gioan 8:51-59 

Khi y, Chúa Giêsu nói vi người Do Thái rng:  Qu tht, qu tht, Ta bo các ngươi:  Nếu ai gi li Ta, thì muôn đi s không phi chết.
Người Do Thái li nói:  Bây gi thì chúng tôi biết rõ ông b qu ám.  Abraham đã chết và các tiên tri cũng vy, thế mà ông li nói:  Ai gi li Ta, thì không bao gi phi chết.  Chng l ông li ln hơn cha chúng tôi là Abraham sao?  Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết.  Ông cho mình là ai?
Chúa Giêsu tr li:  Nếu Ta t tôn vinh chính mình, thì vinh quang ca Ta s không giá tr gì.  Chính Cha Ta tôn vinh Ta.  Người là chính Đng các ngươi xưng là Thiên Chúa ca các ngươi.  Vy mà các ngươi không biết Người.  Còn Ta, Ta biết Người.  Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói di như các ngươi.  Nhưng Ta biết Người, và Ta gi li Người.  Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ s được thy Ngày ca Ta.  Ông đã thy và đã vui mng.
Người Do Thái lin nói:  “Ông chưa được năm mươi tui mà đã trông thy Abraham ri sao?
Chúa Giêsu tr li:  Qu tht, qu tht, Ta nói vi các ngươi:  Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có ri.
By gi h lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu n mình đi ra khi Đn Th.

3.  Suy Nim

  Chương 8 dường như là mt cuc trin lãm các tác phm ngh thut, nơi mà người ta có th chiêm ngưỡng và lng ngm nhng bc tranh ni tiếng, đt bên cnh nhau.  Bài Tin Mng hôm nay trình bày cho chúng ta mt bc tranh, và cuc đi thoi gia Chúa Giêsu và người Do Thái.  Không my có s liên kết t bc tranh này sang bc tranh kia.  Chính người thưởng lãm, nh vào s quan sát tường tn và cu nguyn ca mình, mi có th thành công khám phá ch đ vô hình gn kết các bc ha, các cuc đi thoi gia các bc tranh.  Vì vy, chúng ta đi sâu vào trong mu nhim Thiên Chúa đang bao trùm con người ca Chúa Giêsu.
  Ga 8:51:  Bt c ai tuân gi li ca Chúa Giêsu thì muôn đi s không phi chết.  Chúa Giêsu đưa ra mt li xác tín long trng; các tiên tri đã nói:  Sm ngôn ca Thiên Chúa!  Chúa Giêsu nói:  “Qu tht, qu tht, Ta bo các ngươi!  Và li khng đnh long trng như sau:  “Ai gi li Ta, thì muôn đi s không phi chết!”  Cùng mt ch đ này xut hin và tái xut hin nhiu ln trong sách Tin Mng Gioan.  Đây là nhng li rt sâu sc.
  Ga 8:52-53:  Abraham và các tiên tri đã chết.  Phn ng ca người Do Thái thì ngay tc thì:  Bây gi thì chúng tôi biết rõ ông b qu ám.  Abraham đã chết và các tiên tri cũng vy, thế mà ông li nói:  Ai gi li Ta, thì không bao gi phi chết.’  Chng l ông li ln hơn cha chúng tôi là Abraham sao?  Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết.  Ông cho mình là ai?  H đã không hiu được tm quan trng và ý nghĩa ca li khng đnh ca Chúa Giêsu.  Đó là cuc đi thoi vi k điếc.
–  Ga 8:54-56:  Chính Cha Ta tôn vinh Ta.  Mt ln na và như thường l, Chúa Giêsu nhn mnh đến cùng mt đim:  Người hip nht vi Chúa Cha đến ni mà mi vic Người nói hay làm không là ca Người.  Mi vic thuc v Chúa Cha.  Và Chúa Giêsu nói rng:  “Người là chính Đng các ngươi xưng là ‘Thiên Chúa ca các ngươi’.  Vy mà các ngươi không biết Người.  Còn Ta, Ta biết Người.  Nếu Ta nói ‘Ta không biết Người’, thì Ta cũng nói di như các ngươi.  Nhưng Ta biết Người, và Ta gi li Người.  Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ s được thy Ngày ca Ta.  Ông đã thy và đã vui mng”.  Nhng li này ca Chúa Giêsu phi được xem như là mt nhát cuc làm tn thương lòng t trng ca người Do Thái.  Nói vi nhng người lãnh đo tôn giáo rng:  Các ngươi không biết Thiên Chúa, Đng mà các ngươi nói các ngươi biết.  Ta biết Người và các ngươi không biết Người!”  Ging như th đó là li t cáo s hoàn toàn kém hiu biết chính xác ca h v ch đ mà h nghĩ rng mình là nhng nhà thông bác uyên thâm.  Và câu cui cùng làm tăng thêm mc đo lường:  “Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ s được thy Ngày ca Ta.  Ông đã thy và đã vui mng.
–  Ga 8:57-59:  “Ông chưa được năm mươi tui mà đã trông thy Abraham ri sao?  H đã hiu mi chuyn theo nghĩa đen; vì thế cho thy rng h đã không hiu bt c điu gì v nhng li Chúa Giêsu đang nói.  Và Chúa Giêsu li dõng dc nói mt li xác tín long trng khác:  Qu tht, qu tht, Ta nói vi các ngươi:  Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có ri
Đi vi nhng ai tin vào Chúa Giêsu, ti đây chúng ta tiến ti trng tâm ca mu nhim câu chuyn.  Mt ln na, h lượm đá đ đnh giết Chúa Giêsu.  Nhưng ln này h chưa thành công bi vì gi ca Chúa chưa đến.  Người xác đnh gi khc đó chính là Chúa Giêsu.

4.  Mt vài câu hi gi ý cho vic suy gm cá nhân

  Cuc đi thoi gia Chúa và người Do Thái là cuc đi thoi vi k điếc.  Thnh thong bn đã có kinh nghim nói chuyn vi mt người suy nghĩ hoàn toàn trái ngươc li vi nhng gì bn nghĩ và k y li không nhn biết được điu đó chưa?
–  Chúng ta có th hiu câu nói này như thế nào:  “Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ s được thy Ngày ca Ta.  Ông đã thy và đã vui mng?

5.  Li nguyn kết

Hãy tìm CHÚA và sc mnh ca Người,
Chng khi ngng tìm kiếm Thánh Nhan.
Hãy nh li nhng k công Người thc hin,
Nhng du l và nhng quyết đnh Người phán ra.
(Tv 105:4-5) 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét