04/08/2018
Thứ bảy đầu tháng, tuần 17 thường niên
Thánh Gioan Maria Vianê, linh mục.
Lễ nhớ
Thánh nhân sinh năm 1786 tại Ly-ông. Sau biết
bao khó khăn gian khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở
họ Ác-xơ thuộc giáo phận Ben-le. Người quả là vị mục tử gương mẫu : hoàn toàn
lo việc loan báo Lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều
lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích
Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người
qua đời năm 1859.
BÀI ĐỌC I: Gr 26,
11-16. 24
“Thật Chúa đã sai tôi đến nói với
các ngươi những lời đó”.
Trích sách Tiên tri
Giêrêmia.
Trong những ngày ấy,
các tư tế và các tiên tri nói cùng các đầu mục và toàn dân rằng: “Người này
đáng xử tử, vì nó đã nói tiên tri chống lại thành này, như tai các ngươi đã
nghe”. Giêrêmia nói cùng tất cả các đầu mục và toàn dân rằng: “Chúa đã sai tôi
đến nói tiên tri về đền thờ này và về thành này tất cả những lời các ngươi đã
nghe. Vậy giờ đây, các ngươi hãy cải thiện đời sống và những điều các ngươi ưa
thích, hãy nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa các ngươi, thì Chúa sẽ hối tiếc tai hoạ
Người đã phán chống lại các ngươi. Phần tôi đây, tôi ở trong tay các ngươi, các
ngươi cứ đối xử với tôi điều mà các ngươi cho là tốt là phải. Nhưng các ngươi
hãy hiểu biết rằng: nếu các ngươi giết tôi, thì các ngươi sẽ đổ máu vô tội lên
chính các ngươi, lên thành này và dân cư của nó. Vì thật Chúa đã sai tôi đến với
các ngươi để nói vào tai các ngươi tất cả những lời đó”.
Những đầu mục và toàn
dân nói cùng các tư tế và các tiên tri rằng: “Không được xử tử người này, vì
ông đã nhân danh Chúa là Thiên Chúa chúng ta mà nói với chúng ta”. Vậy Ahica
con của Sapha ra tay bảo vệ Giêrêmia, để ông khỏi bị nộp vào tay dân chúng định
giết ông. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 68, 15-16.
30-31. 33-34
Đáp: Ôi Thiên Chúa,
đây là lúc biểu lộ tình thương, xin nhậm lời con (c. 14).
Xướng: 1) Nguyện cứu
con thoát nơi bùn nhơ kẻo bị chìm; xin giải thoát con khỏi tay những người ghen
ghét, và thoát khỏi những đầm nước thẳm sâu. Xin đừng để cho ba đào lôi cuốn;
xin đừng để cho vực thẳm nuốt trửng, cũng đừng để cho giếng ngậm miệng nhốt
con. – Đáp.
2) Phần con, con đau
khổ cơ hàn, lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn con. Con sẽ xướng bài ca ngợi
khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân. – Đáp.
3) Các bạn khiêm cung,
hãy nhìn coi và hoan hỉ; các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì
Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù.
– Đáp.
ALLELUIA: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia!
– Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 14, 1-12
“Hêrôđê sai người đi chặt đầu
Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy quận vương
Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: “Người
này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được các phép lạ
như vậy”. Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan tống
ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: “Nhà vua không được lấy bà ấy làm vợ”. Vua
muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri. Nhân
ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước mặt mọi người, và đã
làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó
xin. Được mẹ nó dặn trước, nên nó nói: “Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa
này cho con”. Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người đang dự tiệc,
nên đã truyền làm như vậy. Ông sai người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu
Gioan trên đĩa đem trao cho cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến
lấy xác thầy và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Tương Quan Giữa Gioan Tẩy Giả và
Chúa Giêsu
Trong Tin Mừng hôm
nay, tác giả hai lần nhắc đến Gioan Tẩy giả trong tương quan với Chúa Giêsu.
Ở khởi đầu trình
thuật, vua Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì ông cho đó chính là Gioan Tẩy
giả, người mà ông đã cho chém đầu nay sống lại. Ơn gọi của Gioan Tẩy giả như
chính miệng ông Zacaria loan báo trong ngày lễ đặt tên cho con mình: "Con
là tiên tri của Ðấng tối cao, con sẽ đi trước dọn đường cho Ngài". Ơn gọi
đó Gioan đã chu toàn một cách tốt đẹp. Gioan chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến, không
những bằng việc rao giảng thống hối, mà còn bằng chính cái chết vì trung thành
với sự thật. Dung mạo của Gioan Tẩy giả loan báo dung mạo của Chúa Giêsu một
cách tốt đẹp, đến nỗi khi Chúa Giêsu xuất hiện, vua Hêrôđê tưởng Ngài là hiện
thân của Gioan Tẩy giả sống lại.
"Các con sẽ làm
chứng về Thầy", đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu cho các Tông đồ, cho mỗi
môn đệ của Chúa. Chúng ta cần trở nên một Chúa Kitô cho anh em mình, vận mệnh của
Chúa sẽ là vận mệnh của chúng ta.
Một chi tiết nữa, đó
là các môn đệ Gioan Tẩy giả, sau khi chôn cất ông xong, thì đến báo tin cho
Chúa Giêsu. Chi tiết này nói lên mối liên hệ thân tình giữa Gioan Tẩy giả và
Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Gioan Tẩy giả là hướng về Chúa
Giêsu. Gioan Tẩy giả không phải là Chúa Giêsu, nhưng là người giúp anh em mình
đến với Chúa. Chính Gioan Tẩy giả đã tuyên bố: "Tôi không phải là ánh
sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng".
Người Kitô hữu được mời
gọi sống hướng về Chúa, kết hợp với Chúa, trở thành một Chúa Kitô thứ hai cho
anh em. Nhưng đó là để giúp anh em đến với Chúa, chứ không dừng lại nơi mình.
Người Kitô hữu không được chiếm chỗ của Chúa trong tâm hồn anh em: Chúa Kitô phải
lớn lên trong tâm hồn anh em, còn tôi chỉ là phương thế, tôi không được cản trở
anh em đến với Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng
ta lòng can đảm và trung thành với sự thật, dù phải hy sinh chính mạng sống
mình, để giúp người khác đến với Chúa và tin nhận Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 17 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Jer
26:11-16, 24; Mt 14:1-12
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những thái độ
của con người khi phải đương đầu với sự thật
Đứng trước sự thật,
con người có thể có hai thái độ chính: (1) Họ chấp nhận sự thật và tìm cách sửa
đổi sai lầm họ gây ra để cuộc đời của họ sẽ tốt đẹp hơn. (2) Họ từ chối sự thật
vì nhiều lý do: tự ái, kiêu ngạo, sợ mất lợi nhuận… Vì thế, họ sẽ phớt lờ, bóp
méo, và tìm cách tiêu diệt sự thật.
Hai bài đọc hôm nay
thuật lại hai thái độ chính khi con người phải đương đầu với sự thật.
Bài đọc I thuật lại
phiên xử của Jeremiah và kết quả là ông đã trắng án. Các nhà lãnh đạo và dân
chúng nhận ra ngôn sứ Jeremiah chỉ lặp lại những gì Thiên Chúa tuyên sấm. Vì thế,
truy tố Jeremiah không làm cho những lời tuyên sấm của Thiên Chúa ra vô hiệu,
mà còn làm cơn giận của Thiên Chúa mau đến, vì họ dám làm đổ máu người vô tội.
Trong Phúc Âm, thánh Matthew thuật lại việc tiểu vương Herode đã bắt bỏ tù và
chém đầu ông Gioan Tẩy Giả, vì ông đã ngăn cản việc tiểu vương muốn lấy bà
Herodia, vợ của Philip, anh của tiểu vương, làm vợ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự Thật giải thoát
Có ba thành phần chính
trong phiên xử của Jeremiah:
1.1/ Tuyên cáo là các tư
tế và các tiên tri giả.
Họ cáo buộc Jeremiah:
“Con người này đáng lãnh án tử, vì ông ta đã tuyên sấm chống lại thành này, như
chính tai các ông đã nghe!” Hôm qua chúng ta đã nói, họ không đá động gì đến vế
trước của lời tuyên sấm, mà chỉ chú trọng đến vế sau tức là hậu quả sẽ xảy ra nếu
không chịu thi hành những đòi hỏi của vế đầu. Ngay cả khi chưng dẫn vế sau, họ
cũng không chưng dẫn đúng; nhưng chỉ giữ lại những gì có lợi cho việc họ buộc tội
Jeremiah. Họ cũng không thèm chú ý đến ai là tác giả của lời tuyên sấm, nhưng
đã gán những lời này cho Jeremiah.
Các tư tế buộc tội
Jeremiah vì ông nói đến sự sụp đổ của Đền Thờ; nếu Đền Thờ bị sụp đổ, họ sẽ thất
nghiệp, vì đâu còn Đền Thờ nữa để họ phục vụ. Các tiên tri giả buộc tội
Jeremiah vì ông nói ngược lại những gì họ nói. Họ không nói những lời Thiên
Chúa truyền, mà chỉ nói những gì vua chúa và toàn dân thích nghe.
1.2/ Bị cáo là tiên tri
Jeremiah. Ông kháng cáo hai điểm:
(1) Ông nhắc lại toàn
bộ lời tuyên sấm và tác giả của nó. Ông nói với tất cả các thủ lãnh và toàn dân
như sau: “Chính Đức Chúa đã sai tôi tuyên sấm mọi lời liên quan đến Nhà này
cũng như thành này mà các ngươi đã nghe. Vậy giờ đây, các ngươi hãy cải thiện
đường lối và hành vi của các ngươi và hãy nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của
các ngươi; bấy giờ Đức Chúa sẽ đình chỉ những tai hoạ Người đã quyết định để
lên án các ngươi.” Ông muốn nói: Đức Chúa là Người tuyên sấm, ông chỉ là người
lặp lại lời tuyên sấm. Khi Đức Chúa tuyên sấm, Người chắc chắn sẽ giữ lời.
(2) Họ phải chịu trách
nhiệm về việc đổ máu người vô tội. Ông nói: “Còn tôi, tôi ở trong tay các
ngươi, các ngươi cứ xử với tôi thế nào như các ngươi coi là tốt đẹp và chính
đáng. Có điều xin các ngươi biết rõ cho rằng: Nếu các người giết tôi, thì chính
các ngươi sẽ phải chuốc lấy máu vô tội cho mình, cho thành này và dân cư trong
thành. Vì quả thật là Đức Chúa đã sai tôi đến với các ngươi để công bố cho các
ngươi nghe tất cả những điều trên đây.” Truy tố Jeremiah chẳng những không làm
cho lời tuyên sấm ra vô hiệu, mà còn đổ thêm dầu vào cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa; vì họ đã làm đổ máu người vô tội; và nhất là người đó lại là ngôn sứ của
Thiên Chúa.
1.3/ Quan tòa là các thủ
lãnh và toàn dân.
Sau khi đã nghe những
lời tuyên cáo của các tư tế và các ngôn sứ giả, đồng thời cũng được nghe những
lời kháng cáo của Jeremiah, các thủ lãnh và toàn dân phải dùng trí khôn ngoan
suy xét để nhận ra đâu là sự thật. Sau cùng, họ nói với các tư tế và các ngôn sứ
giả: “Con người này không đáng lãnh án tử, vì ông ta đã nói với chúng ta nhân
danh Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta.” Kết quả là Jeremiah được trắng án, tiên
tri được ông Akhicam, con ông Saphan ra tay che chở cho khỏi rơi vào tay dân mà
bị giết.
2/ Phúc Âm: Vua Herode dùng uy quyền giết chết Gioan Tẩy Giả mà không
thèm xử án.
Khi tiểu vương Herode
nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: “Đó chính là ông
Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.”
Tiểu vương biết rành rẽ về Gioan Tẩy Giả vì chính ngài đã giết chết ông.
2.1/ Lý do tại sao Gioan
Tẩy Giả bị tù: Khi vua Herode Cả băng hà,
ông phân chia lãnh thổ cho ba con trai: Herode Antipas cai trị vùng tả ngạn của
Galilee, Philip cai trị vùng bên kia sông Jordan, và Herode thứ cai trị vùng
Jerusalem và Judah. Tiểu vương Herode Antipas muốn lấy bà Herodia, vợ ông
Philíp, anh của nhà vua. Ông Gioan Tẩy Giả đã phản đối tiểu vương: “Ngài không
được phép lấy bà ấy!” Luật pháp quốc gia ngăn cản không cho một người lấy vợ của
anh em mình khi người anh em ấy còn sống. Luật Do-thái chỉ cho phép lấy vợ của
anh em khi anh em mình đã chết mà không có con nối dòng. Herode Antipas đã phạm
hai tội: (1) tội rẫy người vợ trước của mình là con vua Nabatean Arabs; và (2),
tội loạn luân, lấy chị dâu của anh mình là Philip.
2.2/ Lý do tại sao ông
không dám giết Gioan Tẩy Giả
Trình thuật Matthew
nêu lý do “vì ông sợ người Do-thái.” Họ coi Gioan như tiên tri của Chúa và tiểu
vương sợ dân chúng sẽ nổi loạn nếu ông bị giết. Tiểu vương Herode cho giam
Gioan Tẩy Giả trong ngục để chờ thời cơ.
Sử gia Josephus cho lý
do chính để Herode giết Gioan Tẩy Giả, vì ông sợ ảnh hưởng của Gioan Tẩy Giả
trên dân chúng (Ant 18, 5, 2). Là tiểu vương của Galilee, ông không muốn có bất
kỳ sự đối nghịch nào.
2.3/ Lý do tại sao sau
cùng Gioan Tẩy Giả bị chém đầu: Nhân ngày
sinh nhật của vua Herode, con gái bà Herodia đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt
quan khách, làm cho nhà vua vui thích. Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua
cũng ban cho. Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng: “Xin ngài ban cho con, ngay tại
chỗ, cái đầu ông Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm.” Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã
trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người
vào ngục chặt đầu ông Gioan. Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho
cô, và cô ta đem đến cho mẹ.
Tất cả những sự kiện
này chứng minh Herode không phải là một vua công chính: Ông ly dị vợ, lấy vợ của
anh, thề hứa vô lối, giữ lời thề cách không công bằng, và vi phạm đến sự sống của
người công chính.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải tôn trọng
sự thật bằng cách lắng nghe cẩn thận khi người khác trình bày ý kiến của họ, và
hãy biết xét xem điều đó có đúng hay không; chứ đừng bao giờ dùng uy quyền để
bóp chết sự thật.
– Nếu xét thấy điều đó
là đúng, chúng ta hãy có can đảm để sửa sai để cuộc đời chúng ta mỗi ngày mỗi tốt
đẹp hơn. Chúng ta cũng phải sẵn sàng nói và làm chứng cho sự thật.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
04/08/2018 – THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 27 TN
Th. Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục
Mt 14,1-12
LÀM TRÒN BỔN PHẬN
Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an. Người ta đặt đầu
ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ. (Mt 14,10-11)
Suy niệm: Một ông vua Hê-rô-đê đam
mê tửu sắc lại muốn giữ thể diện vì đã lỡ thề với cô gái trước mặt bá quan văn
võ, một bà Hê-rô-đi-a lăng loàn đem lòng oán hận đối với người đã lên tiếng tố
giác mối quan hệ bất chính của bà, những người này ngoan ngoãn vâng theo sự
thúc đẩy đen tối của Sa-tan mà dấn bước không chút đắn đo vào hành vi tội lỗi.
Còn Gio-an thực thi sứ mệnh Thiên Chúa trao ban: dọn đường cho Đấng Mê-si-a,
dám một mình bênh vực lẽ phải, không khuất phục trước bạo quyền; ông mạnh mẽ
lên án nhà vua: ngài không được phép lấy vợ của anh mình. Gio-an đã sống và chết
cho sứ mệnh. Ông làm tròn bổn phận Thiên Chúa giao phó.
Mời Bạn: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
thuộc đủ mọi thành phần khác nhau: giám mục, linh mục, giáo dân, trùm họ, thầy
giảng, chủng sinh, đã chu toàn bổn phận của mình, dấn thân theo Chúa, phụng sự
Giáo Hội, một lòng vâng theo ý Chúa. Thánh Si-mon Hòa nói với các con: “Cha yêu
thương và hằng săn sóc các con, nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn nữa. Chúa đã
muốn cha chịu khổ hình, cha xin vâng ý Người cho trọn.”
Sống Lời Chúa: Hy sinh tận tuỵ làm tròn bổn
phận được giao phó cho tôi trong gia đình, trong giáo xứ.
Cầu nguyện: “Lạy Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam là những bậc tiền nhân đã hoàn thành sứ mạng. Xin chuyển cầu cho
chúng con là con cháu, được moi gương các ngài, biết đem lòng bác ái mà dấn
thân phục vụ, để một ngày kia trên thiên quốc, chúng con được hợp tiếng với các
ngài ca tụng tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển.” Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Vì đã trót thề (4.8.2018 – Thứ bảy Tuần 17 Thường niên)
Suy niệm:
Theo các sách Tin Mừng, Gioan bị giết trong khung cảnh một bữa tiệc.
Đó là tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê Antipas là tiểu vương vùng Galilê và Pêrê.
Nếu thế, bữa tiệc này hầu chắc diễn ra ở Tiberias,
một thành gần hồ Galilê, nơi Hêrôđê đặt trung tâm quyền lực của mình.
Gioan bị giết vì dám phản đối cuộc hôn nhân bất hợp pháp
giữa Hêrôđê với bà Hêrôđia là vợ của Philíp,
người anh cùng cha khác mẹ với mình.
Đó là tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê Antipas là tiểu vương vùng Galilê và Pêrê.
Nếu thế, bữa tiệc này hầu chắc diễn ra ở Tiberias,
một thành gần hồ Galilê, nơi Hêrôđê đặt trung tâm quyền lực của mình.
Gioan bị giết vì dám phản đối cuộc hôn nhân bất hợp pháp
giữa Hêrôđê với bà Hêrôđia là vợ của Philíp,
người anh cùng cha khác mẹ với mình.
Chuyện ngoại tình của Hêrôđê bị Gioan Tẩy giả kết án là có thể hiểu được.
“Ngài không được phép lấy bà ấy” (c. 4).
Lấy vợ của người anh em là phạm đến Luật Chúa (Lv 18, 16; 20, 21).
Gioan là một ngôn sứ không lùi bước trước sự bất công.
Ông đã sẵn sàng bênh vực sự thật, dù ông biết cái giá phải trả.
Hêrôđê đã dùng quyền lực để ép Gioan phải im miệng.
Ông bắt Gioan, xiềng lại và tống vào ngục.
Chỉ vì sợ phản ứng của dân chúng mà Hêrôđê chưa muốn giết Gioan.
“Ngài không được phép lấy bà ấy” (c. 4).
Lấy vợ của người anh em là phạm đến Luật Chúa (Lv 18, 16; 20, 21).
Gioan là một ngôn sứ không lùi bước trước sự bất công.
Ông đã sẵn sàng bênh vực sự thật, dù ông biết cái giá phải trả.
Hêrôđê đã dùng quyền lực để ép Gioan phải im miệng.
Ông bắt Gioan, xiềng lại và tống vào ngục.
Chỉ vì sợ phản ứng của dân chúng mà Hêrôđê chưa muốn giết Gioan.
Bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê hẳn có nhiều quan khách tham dự.
Chuyện cô công chúa như Salômê, con bà Hêrôđia, múa cho quan khách xem,
là một chuyện lạ, nhưng vẫn có thể đã xảy ra.
Không rõ vì cô xinh đẹp hay vì múa giỏi mà Hêrôđê ngây ngất (c. 6).
Từ đó Hêrôđê không còn đủ sáng suốt, tỉnh táo,
khi vội vã đưa ra một lời hứa kèm theo lời thề với cô.
Cô muốn xin gì, nhà vua cũng thề hứa ban cho (c. 7).
Chúng ta thấy Hêrôđê đã tự đưa mình vào thế kẹt dại dột và nguy hiểm.
Ông đã không lường được hậu quả của chuyện đó.
Hêrôđia chỉ chờ cơ hội này để thanh toán kẻ dám phá hạnh phúc của bà.
Bà đã xúi con gái xin ngay thủ cấp của Gioan, đặt trên mâm.
Chuyện cô công chúa như Salômê, con bà Hêrôđia, múa cho quan khách xem,
là một chuyện lạ, nhưng vẫn có thể đã xảy ra.
Không rõ vì cô xinh đẹp hay vì múa giỏi mà Hêrôđê ngây ngất (c. 6).
Từ đó Hêrôđê không còn đủ sáng suốt, tỉnh táo,
khi vội vã đưa ra một lời hứa kèm theo lời thề với cô.
Cô muốn xin gì, nhà vua cũng thề hứa ban cho (c. 7).
Chúng ta thấy Hêrôđê đã tự đưa mình vào thế kẹt dại dột và nguy hiểm.
Ông đã không lường được hậu quả của chuyện đó.
Hêrôđia chỉ chờ cơ hội này để thanh toán kẻ dám phá hạnh phúc của bà.
Bà đã xúi con gái xin ngay thủ cấp của Gioan, đặt trên mâm.
Hêrôđê hẳn đã lặng người khi nghe cô bé xin điều ấy.
Ông lấy làm đau buồn vì đây thật là chuyện không ngờ (c. 9).
Ông bị đặt trước một chọn lựa: giết hay không giết Gioan.
Đám đông quan khách tạo một áp lực vô hình trên ông.
Vì đã lỡ thề hứa trước mặt họ, nên ông không dám rút lại.
Ông sợ rút lại sẽ bị mang tiếng là nuốt lời, và sẽ bị mất uy tín.
Hêrôđê đã chọn mình, chọn danh dự và cái ghế của mình hơn.
Ông hy sinh Gioan để giữ được tiếng tăm và tình yêu với bà Hêrôđia.
Ông lấy làm đau buồn vì đây thật là chuyện không ngờ (c. 9).
Ông bị đặt trước một chọn lựa: giết hay không giết Gioan.
Đám đông quan khách tạo một áp lực vô hình trên ông.
Vì đã lỡ thề hứa trước mặt họ, nên ông không dám rút lại.
Ông sợ rút lại sẽ bị mang tiếng là nuốt lời, và sẽ bị mất uy tín.
Hêrôđê đã chọn mình, chọn danh dự và cái ghế của mình hơn.
Ông hy sinh Gioan để giữ được tiếng tăm và tình yêu với bà Hêrôđia.
Làm sao chúng ta có can đảm nhận ra mình sai lầm và dừng lại ?
Làm sao chúng ta không bị cuốn từ tội này sang tội khác ?
Rút lại một lời hứa có khi còn khó hơn giữ lời hứa ấy.
Hêrôđê là người bị nô lệ bởi nỗi sợ, sợ Gioan, sợ dân, sợ quan khách…
Đúng hơn là ông sợ mất chính mình, sợ người ta nghĩ xấu về mình.
Có những lúc chợt tỉnh ngộ, tôi vẫn ngần ngại không muốn nhận mình sai.
Tôi không dám nhận lỗi, vì tôi muốn mình vẫn đúng.
Xin Chúa đưa tôi ra khỏi cơn mê muội của tôi.
Làm sao chúng ta không bị cuốn từ tội này sang tội khác ?
Rút lại một lời hứa có khi còn khó hơn giữ lời hứa ấy.
Hêrôđê là người bị nô lệ bởi nỗi sợ, sợ Gioan, sợ dân, sợ quan khách…
Đúng hơn là ông sợ mất chính mình, sợ người ta nghĩ xấu về mình.
Có những lúc chợt tỉnh ngộ, tôi vẫn ngần ngại không muốn nhận mình sai.
Tôi không dám nhận lỗi, vì tôi muốn mình vẫn đúng.
Xin Chúa đưa tôi ra khỏi cơn mê muội của tôi.
Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
để Chân lý cho con được tự do.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG TÁM
Chúng Ta Không Đau
Khổ Một Mình
Đối với câu hỏi bằng
cách nào hòa giải sự dữ và đau khổ trên trần đời với chân lý về sự quan phòng của
Thiên Chúa, chúng ta không thể đưa ra một câu trả lời đầy đủ mà không qui chiếu
đến Đức Kitô. Một đàng, qua cuộc sống khó nghèo và khiêm nhường của Người – và
nhất là qua cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người – Đức Kitô xác nhận rằng Thiên
Chúa có mặt với mọi người trong đau khổ của họ.
Hơn th ế nữa, Đức Kitô
đã đảm nhận nơi chính Người tất cả những đau khổ của cuộc hiện sinh con người
trên trái đất này. Đồng thời, Đức Giê-su Kitô mạc khải rằng đau khổ ấy có một
giá trị và năng lực cứu độ. Trong đau khổ ấy có sự chuẩn bị của “một gia tài
không thể hư hại, tàn phai” mà Thánh Phêrô đề cập đến trong Thư thứ nhất của
ngài: “một gia tài được giữ trên trời cho anh em” (1Pr 1,4).
Như vậy, chân lý về sự
quan phòng đạt được ý nghĩa cánh chung cuối cùng của nó xuyên qua “sức mạnh và
sự khôn ngoan” của Thập Giá Đức Kitô. Câu trả lời đầy đủ cho vấn đề sự dữ và
đau khổ được cung ứng bởi mạc khải của Thiên Chúa qua sự tiền định nơi Đức
Kitô. Vì sự tiền định này cho ta thấy rằng ơn gọi của con người là đạt đến sự sống
vĩnh cửu – tức tham dự vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Và đây là câu trả
lời chính xác mà Đức Kitô đã đem lại cho chúng ta. Người đã xác nhận câu trả lời
này qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04/8
Gr 26, 11-16.24; Mt
14, 1-12.
LỜI SUY NIỆM: “Thời ấy, tiểu
vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: “Đó
là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm
phép lạ!”
Herôđê là một con người đang mang nặng tội lỗi trong mình, khi đã căm thù Gioan
Tẩy Giả vì Gioan đã công khai khuyên Hêrôđê không được lấy bà Hêrôđia vợ ông
Philípphê anh của nhà vua, để rồi trong một lời hứa thiếu suy nghĩ đã giết chết
Gioan. Nên khi nghe sự nổi danh của Chúa Giêsu thì ông liền nghĩ ngay Gioan Tẩy
Giả đã sống lại. Với suy nghĩ này của Hêrôđê càng có thêm lý do để sợ hơn. Đây
là một nhân chứng hùng hồn cho chúng ta thấy không ai có thể loại bỏ tội lỗi bằng
cách thủ tiêu người tố giác; cho dù người tố giác bị loại trừ đi nữa, thì lương
tâm là sự tố giác từ trời vẫn không bao giờ câm nín.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con biết đón nhận những lời tố
cáo, nói xấu về mình, để chúng con biết kiểm soát lại đời sống của mình, giúp
chúng con cải thiện đời sống của chúng con cho tốt đẹp hơn trước mặt Chúa và
người đời.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-08
Thánh GIOAN MARIA
VIANEY
Linh Mục (1786 –
1859)
Gioan Maria Vianney
sinh ngày 8 tháng 5 năm năm 1786 tại Dardilly. Cha mẹ Ngài là những nông dân
trung kiên với đức tin. Suốt thời cách mạng Pháp, họ thường bí mật tiếp rước
các linh mục đến trú ngụ. Vì vậy Gioan là một trẻ em có mặt trong các buổi lễ cử
hành lén lút tại lẫm lúa và được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh hùng với đức
tin.
Năm lên 11, Gioan được
cha Greboz cho xưng tội lần đầu. Tháng 5 năm 1798 Gioan được mẹ dẫn sang nhà bà
dì ở Ecully để dọn mình rước lễ vỡ lòng. Mùa xuân năm 1799 Gioan cùng với 15 em
khác được rước lễ vỡ lòng trong một thánh lễ được cử hành giữa đống rơm. Ngài
rước lễ rất sốt sắng và đã giữ cho đến chết tràng chuỗi Mân côi kỷ niệm ngày hạnh
phúc này.
Năm 1800 thanh bình trở
lại với các tín hữu, khi Napoléon nhận biết rằng không có tôn giáo thì không có
một tổ chức nào có thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ Gioan đã muốn làm linh mục.
Khi bày tỏ ý định tốt đẹp này, Ngài đã 17 tuổi và mới chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ
Ngài tán thành chí nguyện, nhưng cha Ngài với óc thực tế đã băn khoăn rất nhiều
và không chấp nhận. Mãi tới năm 1805, Gioan đến sống với cha Belley, họ Ecully.
Theo học với các bạn tuổi còn nhỏ, mà trí khôn Ngài lại quá trì trệ. Đã vậy vào
năm 1890, Ngài lại còn phải nhập ngũ. Năm sau Ngài may mắn được trở về nhà.
Năm 1810, Gioan gia nhập
tiểu chủng viện Verrières. Hai năm trôi qua, Ngài là một chủng sinh học hành rất
kém. Dầu vậy Ngài cũng nhận vào đại chủng viện. Tại đây chuyển ngữ là tiếng
Latinh, mà Gioan lại quá dở về môn này, khiến ban giám đốc khuyên thầy hồi tục.
Không thất vọng một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ người chủng sinh
gương mẫu nhưng chậm trí này. Sau khi hoàn tất chương trình học, ngày 13 tháng
8 năm 1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường đại chủng
viện Grênoble. Ngài được gọi lên chức linh mục chính vì đời sống đạo đức.
Sau khi thụ phong, cha
Gioan Maria Vianney được cử làm phó xứ Ecully. Tháng 12 năm 1817, cha Balley
qua đời, cha Vianney được cử về làm chánh sở họ Ars. Khi bổ nhiệm, cha tổng đại
diện nhắn nhủ : – “Đây là một họ đạo nhỏ bé nghèo nàn, thiếu vắng tình yêu
Chúa. Cha hãy mang tình yêu đến cho họ”.
Ngày 9 tháng 2 năm
1818 cha đến xứ lần đầu với hành lý khiêm tốn chất trên một chiếc xe tay, gồm một
chiếc giường cũ, một rương sách và ít đồ vặt vãnh khác. Tới gần làng, Ngài dừng
chân hỏi đường. Bọn trẻ chăn chiên không hiểu tiếng nói khác với thổ ngữ chúng
vẫn dùng nhưng cũng đoán biết và chỉ lối cho cha. Khi biết được điạ sở, cha
Gioan quì gối cầu nguyện cho những người sẽ là đoàn chiên của mình. Tới nơi
Ngài vào thẳng nhà thờ và chìm trong kinh nguyện.
Nhà xứ Ars thật nghèo
nàn với vài đồ vật thật sơ sài. Chính cha sở trẻ họ đạo lại coi đời sống cầu
nguyện hãm mình là phương thế để thành công. Trong khi mọi người còn triền miên
giấc điệp, Ngài đã xách đèn từ nhà xứ sang nhà thờ để cầu nguyện. Trước nhà tạm,
nhiều lần với nước mắt ướt cả sàn nhà, Ngài tha thiết cầu nguyện : – Lạy Chúa,
con xin lãnh chịu tất cả, nhưng xin Chúa cải hóa họ đạo của con… Con bằng lòng
chịu mọi đau khổ như Chúa muốn, miễn sao họ biết hồi tâm hối cải.
Chìm đắm trong kinh
nguyện, cha Gioan không quan tâm tới nhu cầu thể xác, mà Ngài coi như cái thây
ma. Ngủ đã ít, Ngài lại thường nằm trên sàn nhà. Đồ đạc người ta dâng cúng,
Ngài đem cho người nghèo… Vui cười Ngài nói: – Tôi không hề mất áo choàng bao
giờ. Chuyện ăn uống Ngài cũng chẳng quan tâm đến, tự mình nấu ăn, Ngài chỉ nấu
một nồi khoai rồi treo lên tường.
Khi đói Ngài ăn một
hai củ và củ thứ ba là “để cho vui miệng”. Nồi khoai thường để lâu cho đến nỗi
những củ cuối cùng thường bị mốc meo. Ngài hãm mình như vậy cho tới năm 1827,
khi các chị dòng Chúa quan phòng nấu ăn cho Ngài.
Hơn nữa thánh nhân còn
tự ý hãm mình. Mỗi đêm Ngài đều đánh tội trước khi ngủ. Trên tường phòng Ngài
còn loang lổ nhiều vết máu.
Với một đời sống cầu
nguyện hy sinh như vậy, thánh nhân nỗ lực canh tân họ đạo. Về xứ được ít lâu,
Ngài sớm nhận ra được ba tệ đoan trong họ đạo là sự lãnh đạm với việc đạo đức,
thói quen làm việc xác ngày Chúa nhật và tật ham khiêu vũ.
Để chấn hưng lại tình
trạng suy dồi kia, dĩ nhiên thánh nhân gia tăng lời cầu nguyện và việc hãm
mình. Trong hoạt động Ngài đi thăm viếng các gia đình. Sửa lại tình trạng thiếu
hiểu biết về đạo, Ngài lo dạy giáo lý cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha thánh Gioan
ngày nào cũng trung thành với viêc dạy giáo lý. Đối với người lớn cha dọn bài
giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong phòng thánh cạnh nhà tạm, cha viết bài giảng,
Đêm thứ bảy cha học và tập giảng – cho hôm sau lời giảng của cha rất đơn sơ,
nhưng xoáy vào lòng người nghe.
Chẳng hạn Ngài nói: –
Không có gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi… danh giá cũng sụp đổ, của cải rồi
sẽ tiêu tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn gió.
– Càng cầu nguyện người
ta càng ham thích, như một con cá trồi lên mặt nước rồi chìm mình trở lại và
luôn bơi đi mãi. Linh hồn đắm chìm trong lời cầu nguyện sẽ mất hút trong sự êm
dịu của cuộc đàm thoại với Chúa.
Các câu chuyện nhỏ cha
kể nhiều khi có giá trị như một bài giảng. Chẳng hạn cha nói về một em nhỏ bị
đau bịnh :- Con đau đớn lắm không ?
Cậu bé trả lời “Hôm qua con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ”.
Cha hỏi lại : – Vậy con muốn được lành bệnh không ?
– Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.
Cậu bé trả lời “Hôm qua con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ”.
Cha hỏi lại : – Vậy con muốn được lành bệnh không ?
– Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.
Chống lại tật làm việc
xác, cha nói: – Ngày chủ nhật là của Chúa. Mà anh em ăn trộm cũng chẳng lợi ích
gì cho anh em. Tôi biết có hai phương thế chắc chắn để nên nghèo khó là làm việc
ngày Chúa nhật và lấy của kẻ khác.
Để chống lại tật ham
khiêu vũ, đã có lần cha đến giữa đám để giải tán. Lần khác cha bỏ tiền trả cho
nhạc công để anh rút lui. Tích cực hơn, cha lập hội Mân Côi để tập họp các thiếu
nữ vào việc thực hành đạo đức này.
Hơn nữa, trong họ có bảy
quán rượu cha hết sức khuyên nhủ và cả chúc dữ nữa để họ đổi nghề. Cuối cùng cả
7 quán đều đóng cửa.
Thấy trọng trách của một
chủ chiên quá nặng nề. Đã bốn lần cha Gioan tìm cách trốn khỏi họ đạo. Nhưng rồi
cha đã bị phát giác, tiếng chuông reo vang và người ta đổ xô ra đường để giữ
cha lại. Nỗ lực của cha không dễ dàng được tiếp nhận. Người ta tìm nhiều cách để
vu khống cho cha nhiều tội tày trời. Thành công của cha khiến cho nhiều người
nghi ngờ và ghen tị, đến nỗi tòa giám mục phải mở cuộc điều tra. Sau nữa chính
quỉ dữ cũng phải công khai phá cha dưới nhiều hình thức như xê dịch đồ đạc, la
lối om sòm, hiện hình kỳ quái… đến độ đốt cháy cả giường nằm.
Nhớ lại tất cả những
gì đã trải qua, cha nói:
– Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.
– Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.
Nhưng ơn thánh Chúa đã
nâng đỡ Ngài. Mỗi ngày trong thánh lễ, Ngài được thấy chính Chúa Giêsu. Dần dần
họ Ars đã được biến đổi, hương thơm thánh thiện còn bay lan rộng ra khỏi ngôi
làng bé nhỏ và hẻo lánh này. Khách thập phương từ khắp nơi đổ xô đến, để được
chiêm ngưỡng một cha sở thánh thiện, để được nghe lời Ngài, để xưng tội. Cha
Gioan đã làm vui lòng mọi người.
Suốt hai mươi năm trời,
cha như chôn mình trong tòa giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ trưa, rồi từ 1 giờ
chiều tới 8 giờ tối. Sau này khi được qua đời, cha được chôn cất tại nhà nguyện
thánh Gioan tẩy giả, cạnh tòa giải tội mà người ta gọi là phép lạ lớn nhất ở
Ars.
Tận tụy với các linh hồn,
cha Gioan cũng được ơn thấu tỏ lòng người. Ngày kia có một du khách tới Ars để
đi săn. Nhìn ông với con chó bên cạnh, Ngài nói : “Con chó của ông thật đẹp,
nhưng linh hồn chẳng đẹp tí nào”. Cúi mặt người du khách vào toà xưng tội.
Một người đàn bà khác
nghe cha nói: “Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn
năn tội…”. Thế là cha đã biết nỗi lo âu sầu của bà, vì cái chết mới đây của chồng
bà. Ngài đã mang lại cho bà niềm an ủi khi cho biết rằng: nhờ những bó hoa và
vài lần cầu nguyện với vợ mỗi tháng Đức Mẹ, mà người chồng xấu số kia đã được cứu
rỗi.
Đời sống của cha Gioan
là một mẫu gương tận tụy vì Chúa và vì các linh hồn, Ngài thường nói: “Hạnh
phúc cho một vị linh mục được hao mòn vì Chúa và các linh hồn”.
Quả thực, cha Gioan đã
hao mòn vì phụng sự. Ngày 2 tháng 8 năm 1859 cha chịu các phép bí tích sau hết.
Ngày 4 tháng 8 năm 1859 cha trút hơi thở cuối cùng với sự mãn nguyện.
– Phải chết lành khi
người ta sống trên thánh giá.
Ngày tháng 5 năm 1925,
cha Gioan được tôn phong hiển thánh và năm 1925 được đặt làm bổn mạng các cha sở
trên toàn thế giới.
(daminhvn.net)
04 Tháng Tám
Sức mạnh Của Thiên Chúa
Ðược biết đến và được
yêu mến như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị thánh được giáo hội mừng
kính hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời thánh Phaolô đã nói:
“Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để làm rối loạn những người mạnh mẽ”.
Năm 1815, thầy
Gioan được truyền chức linh mục.
Sau ba năm tập sự
dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến xứ Ars. Trên đường
đi nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp đầu người, giữa lúc
không còn biết hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười tuổi tên Anton
đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.
Ngày nay tại nơi
đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, gồm có tượng
đồng diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu Anton, một tay
ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng, người ta ghi câu
cám ơn của thánh nhân: “Cám ơn con đã chỉ cho cha đường đi tới Ars. Rồi đây,
cha sẽ chỉ cho con đường về Thiên Ðàng”.
Thực ra, cha Gioan
đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em Anton về quê Trời
mà thôi, nhưng cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ khắp nơi kéo đến
hành hương, để được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường ngay nẻo chính.
Ý thức bổn phận của
linh mục là dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã hoạch định cho mình một
chương trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém vào ba hoạt động
chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép Thánh Thể và thi hành
việc mục vụ qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.
Ðể thi hành việc mục vụ,
cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ
để nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện và giải tội.
Quỳ lâu trong nhà thờ
vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể hoàn cảnh của tất cả
230 tín hữu trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của mỗi người.
Ngoài ra, mỗi ngày vào
mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng 11 hay 12 tiếng đồng hồ.
Vào mùa hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối nhân lại với
Thiên Chúa.
Cha Gioan thường gọi
những giờ giải tội lâu dài này là “Giờ của Thiên Chúa”. Trong suốt 41 năm mục vụ,
cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của con người, những vấn đề, những khó khăn
của trần gian. Ðể xoa dịu, mỗi sáng bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang
theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn
dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện, cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một
giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét