12/08/2018
Chúa Nhật tuần 19 Thường Niên năm B
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 19 thường
niên, năm B
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN B
(1 V 19,4-8; Ep 4,30 - 5,2; Ga 6,41-51)
LƯƠNG THỰC THẦN LINH
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh
này, sẽ được sống muôn đời.
Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây,
để cho thế gian được sống” (Ga
6,51)
I.
CÁC BÀI ĐỌC:
1. Bài
đọc 1:
Sau khi thách đố, chiến thắng và hạ sát hết các ngôn
sứ Baal, ông Êlia bị bà Ideven truy đuổi nên phải chạy trốn để thoát thân.
Trong cuộc chạy trốn đó, ngôn sứ Êlia đã được Chúa ban lương thực và nước uống
để có đủ sức lên núi gặp Chúa.
Dù là một ngôn sứ vĩ đại và đầy quyền năng, có thể
khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt (x. 2 V 1,10.12), có thể chiến thắng hàng
trăm ngôn sứ của thần Baal (x. 1 V 18,20-40), biết trước sẽ có mưa sau thời
gian hạn hán (x. 1 V 18,41-46) nhưng khi bị truy đuổi, Êlia trở nên mệt mỏi và
yếu đuối, chán nản và muốn buông xuôi đến nỗi xin được chết. Ông chạy trốn
trong sự sợ hãi; sức lực ông hao mòn, tinh thần ông suy sụp, khiến ông không
còn sức tiếp tục sứ mạng ngôn sứ.
Vì là ngôn sứ trung thành với Thiên Chúa ngay cả
trong những lúc khó khăn và thách đố nhất, nên Thiên Chúa không bỏ rơi Êlia
trong lúc ông chán nản và mệt mỏi cùng cực. Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến với
ông, trao cho ông nước uống và lương thực để tiếp sức cho ông trên hành trình
lên núi gặp Chúa. Sự quan phòng của Thiên Chúa, lương thực và tình thương của
Ngài đã giúp ông thêm niềm tin và nghị lực để tiếp tục con đường mà Thiên Chúa dành
cho ông trong vai trò ngôn sứ.
2. Bài
đọc 2:
Thánh Phaolô khuyên các tín hữu Êphêsô hãy theo
gương Đức Kitô, bắt chước Thiên Chúa mà thực hành lối sống phù hợp với ân sủng
Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ghi dấu trên mỗi người để chờ ngày được cứu độ.
Khi nhắn nhủ các tín hữu Êphêsô “đừng làm phiền lòng
Thánh Thần của Thiên Chúa”, thánh Phaolô muốn các tín hữu tránh xa lối sống
trái nghịch với đường lối công chính, hiền hoà và nhân hậu theo ân sủng Thánh
Thần mà Thiên Chúa đặt để trong lòng mỗi người, nghĩa là “đừng chua cay gắt gỏng,
nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ và phải loại trừ các hành vi gian ác”.
Trái lại, lối sống theo ân sủng Thánh Thần là “đối xử
tốt với nhau, có lòng thương cảm và biết tha thứ cho nhau” như đã được Thiên
Chúa tha thứ trong Đức Kitô. Quả vậy, Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi
trao Đức Kitô như một của lễ vẹn toàn để ban ơn tha thứ cho con người thế nào,
thì trong tư cách là những người con được Thiên Chúa yêu thương, các Kitô hữu
cũng được mời gọi sống trong tình bác ái với nhau như vậy.
Như vậy, sống yêu thương, nhân ái, tha thứ cho nhau
là cách sống bắt chước Thiên Chúa, theo gương Đức Kitô và phù hợp với ân sủng
Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ghi dấu ấn trong lòng mỗi người để chờ ngày được cứu
độ.
3. Bài
Tin Mừng:
Đoạn Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về Bánh Hằng
Sống trong đó Chúa Giêsu mặc khải về căn tính thật sự của Người là Đấng phát xuất
từ Thiên Chúa, Đấng ban sự sống đích thật cho con người.
Khi nghe Chúa Giêsu mặc khải về Người như là “Bánh từ
trời xuống”, người Do Thái không thể chấp nhận vì họ chỉ nhìn nhận Đức Giêsu
theo cái nhìn của con người rằng Người là con của vợ chồng bác thợ mộc Giuse mà
họ biết rõ gốc gác. Trái lại, để có thể đến với Đức Giêsu mà nhận biết Người là
Đấng ban sự sống từ trời, người ta cần được ơn Thiên Chúa thôi thúc (x. Ga
6,44), để cho Ngài dạy dỗ và hướng dẫn (x. Ga 6,45) và trên hết là nhìn nhận Đức
Giêsu với con mắt đức tin.
Quả vậy, chỉ những ai tin mới được sự sống đời đời
(x. Ga 6,47). Xưa trong sa mạc, dân Chúa đã được nuôi sống bằng bánh manna
trong một thời gian giới hạn, nay Đức Giêsu chính là Bánh mà Thiên Chúa ban cho
con người muôn đời. Những ai tin và đón nhận Người, đón nhận giáo huấn và được
hiệp thông sự sống thần linh của Người thì được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi
cái chết do tội gây nên mà được sự sống đời đời trao ban qua cái chết và sự sống
lại của Đức Kitô. Mình và Máu Đức Giêsu không giải thoát tín hữu khỏi cái chết
thể lý nhưng ban cho họ sự sống thần linh, được thông phần sự sống phục sinh của
Đức Kitô.
II. GỢI
Ý ÁP DỤNG:
1/ Trong lúc mệt mỏi, chán nản và thất vọng nhất,
ngôn sứ Êlia được Chúa gởi thiên sứ đến động viên, ban lương thực để có thể tiếp
tục hành trình dài đến gặp Chúa và hoàn tất sứ mạng ngôn sứ đầy khó khăn và
thách đố. Hành trình làm người, làm con Chúa và làm chứng cho Ngài có thể cũng
đong đầy những thử thách và mệt mỏi. Nhưng những ai trung tín thi hành sứ mạng
được Thiên Chúa giao phó, sẽ được Ngài nâng đỡ, ủi an và ban lương thực trường
tồn cho cuộc sống muôn đời.
2/ Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Êphêsô hãy bắt
chước Thiên Chúa mà sống yêu thương, thuận hoà và tha thứ cho nhau, như Đức
Kitô đã nêu gương khi hiến dâng chính mình như một của lễ hoà giải và tha thứ.
Đó là lối sống theo ân sủng Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ghi dấu ấn trong lòng
con người để chờ ngày được cứu độ. Mọi Kitô hữu đều đã được ghi dấu ấn Thánh Thần,
được làm con cái Thiên Chúa và là anh chị em với Đức Kitô nên cũng được mời gọi
để sống nhân ái, yêu thương và tha thứ.
3/ Đức Giêsu là Bánh Hằng Sống mà Thiên Chúa ban cho
nhân loại để ai tin và đón nhận Người thì được chia sẻ sự sống thần linh của
Người. Mọi sự rồi sẽ qua đi; vạn vật rồi sẽ có lúc kết thúc, chỉ có Thiên Chúa
là sống mãi và những ai được thông phần sự sống của Đức Giêsu, thì cũng được sống
mãi với Người. Chọn Đức Giêsu là chọn sự sống viên mãn, bất diệt và trường tồn.
Đó phải là sự chọn lựa, là lẽ sống của mọi tín hữu.
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ
tế: Anh chị em
thân mến! Thiên Chúa Cha đã ban tặng bánh hằng sống bởi trời là chính Con Một
yêu dấu của Người cho thế gian để mọi người được sống đời đời. Chúng ta hãy đồng
thanh cảm tạ Chúa và tin tưởng dâng lời cầu xin.
1. Thánh Thể là Bí tích tình yêu và hiệp nhất. Chúng
ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn trung thành với lệnh
truyền của Chúa khi cử hành Bí tích Thánh Thể, biết nỗ lực trở nên dấu chỉ tình
yêu và mối dây hiệp nhất muôn người trên thế giới.
2. Chúa Giêsu là bánh hằng sống bởi trời mà xuống.
Chúng ta cùng cầu xin cho các dân tộc và quốc gia trên thế giới biết đón nhận
Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo, luôn liên đới cộng tác nhằm bảo vệ môi
trường sống và thăng tiến phẩm giá con người.
3. Chúa Giêsu phán: “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời
đời.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi kitô hữu, nhất là những ai đang đau yếu hay
thất vọng, tìm được nguồn ủi an nâng đỡ nơi Bí tích Thánh Thể, hầu có thêm sức
mạnh để tiến bước trên hành trình về quê trời.
4. “Hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu
thương chúng ta.” Xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta khi tham dự cử
hành Thánh Thể cũng được thấm nhuần tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu, luôn biết
quên mình để chia sẻ và dấn thân phục vụ mọi người.
Chủ
tế: Lạy Thiên Chúa
toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho chúng con được tham dự vào sự sống thần linh
qua Con Một yêu dấu của Chúa. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng
con luôn sống xứng đáng với ân huệ Chúa ban. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô,
Chúa chúng con. Amen.
SCĐ Chúa Nhật 19 TN.B
Chủ đề :
Bánh trường sinh
“Ta là bánh trường sinh”
(Ga 6,48)
(Ga 6,48)
Sợi
chỉ đỏ :
– Bài
đọc I (1 V 19,4-8) : Thiên Chúa sai thiên thần mang cho ngôn sứ Êlia bánh
và nước, nhờ đó Êlia đã có đủ sức để hoàn thành cuộc hành trình lên núi Horép gặp
Chúa.
– Đáp
ca (Tv 33) : “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi
cơn nguy khốn”.
– Tin Mừng
(Ga 6,41-51) : Đức Giêsu tiếp tục bài giảng về bánh trường sinh, dẫn đến ý
tưởng “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.
Và bánh Ta ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống”
I.
Dẫn
vào Thánh lễ
Anh chị
em thân mến
Chúng
ta là những khách lữ hành trên dương thế. Điểm tới của chúng ta là quê trời.
Nhưng cuộc hành trình vừa dài lâu vừa vất vả. Chúa biết thế nên Ngài thương ban
cho chúng ta thứ lương thực bồi dưỡng sức lực là chính Mình Ngài trong Bí Tích
Thánh Thể.
Trong
Thánh lễ này, chúng ta hãy đến với Chúa, hãy sốt sắng rước Ngài vào lòng, để có
sức tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta.
II.
Gợi
ý sám hối
– Xin
Chúa thứ tha cho những lần chúng con ngã lòng, chua chát và phiền trách Chúa.
– Xin
Chúa tha thứ vì những lần mệt mỏi chán chường chúng con đã không chạy đến tìm sức
mạnh nơi Chúa.
– Xin
Chúa tha thứ vì những lần chúng con rước lễ mà không đủ đức tin.
III. Lời
Chúa
1.
Bài
đọc I (1 V 19,4-8)
Sau lần
ngôn sứ Êlia giết các sư sãi baal, ông bị hoàng hậu Giêsabel truy nã gắt gao.
Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Nhưng dọc đường vì quá mệt ông đã nằm ỳ xuống
đất. Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Sau
khi ăn uống xong, Êlia lấy lại sức và đi một mạch lên đến núi Horép diện kiến
Chúa.
2.
Đáp
ca (Tv 33)
Thánh
vịnh này của một tác giả đã từng gặp hoạn nạn, đã kêu xin Chúa và đã được Ngài
cứu thoát. Một câu trong Thánh vịnh rất đúng với hoàn cảnh của ngôn sứ
Êlia : “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn
nguy khốn”.
3.
Tin
Mừng (Ga 6,41-51)
Hai ý
tưởng then chốt của bài Tin Mừng này là “đến với” và “tin vào” Chúa :
Việc
“tin vào” Đức Giêsu, thể hiện bằng việc “đến với” Ngài là kết quả của sự hợp
tác của hai phía :
–
Phía Thiên Chúa : Thiên Chúa ban ơn “lôi kéo” con người tin vào Đức Giêsu
và đến với Ngài : “Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta là Đấng sai Ta
không lôi kéo kẻ ấy” (câu 44). Thực ra, Thiên Chúa luôn muốn “lôi kéo” con người
đến với Đức Giêsu để con người được sống. Nhưng con người ít ra phải ngoan
ngoãn để cho Thiên Chúa lôi kéo. Nhiều người do thái đã không ngoan ngoãn như vậy
nên đã không đến được với Đức Giêsu.
–
Phía con người : phải “nghe lời giáo huấn” của Thiên Chúa. : “Ai nghe
lời giáo huấn của Cha thì đến với Ta” (câu 45). Mà Thiên Chúa thì luôn giáo huấn
con người : “Trong sách các ngôn sứ có chép rằng mọi người sẽ được Thiên
Chúa giáo huấn” (câu 45). Câu nói này ngầm trích dẫn Is 54,13. Mà đại ý chương
54 sách Isaia là kinh nghiệm của dân Israel vào cuối thời lưu đày : họ đã
thấy rằng Thiên Chúa luôn quyến luyện con người như một người chồng quyến luyến
vợ. Đó chính là giáo huấn mà Thiên Chúa đã ban cho Israel qua dòng lịch sử. Như
thế, “nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa” nghĩa là ý thức rằng Thiên Chúa luôn
yêu thương mình.
Tóm lại,
việc “tin vào” Đức Giêsu và “đến với” Ngài là điều Thiên Chúa yêu thương luôn tạo
điều kiện để con người thực hiện được dễ dàng. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào
tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
4.
Bài
đọc II: (Êp 4,30-32–5,2) (Chủ đề phụ)
Sau khi
khuyên dạy các tín hữu phải cởi bỏ nếp sống cũ hồi còn là dân ngoại để mặc lấy
nếp sống mới giống Đức Kitô (Chúa nhật 18), Thánh Phaolô giải thích rõ hơn về nếp
sống mới : tha thứ cho những điều xấu người khác gây cho mình, và sống bác
ái yêu thương. Có như thế kitô hữu mới trở thành hy lễ tựa hương thơm ngọt ngào
dâng lên Thiên Chúa.
III.
Gợi
ý giảng
*
1. Bánh hằng sống
Bài đọc
thứ I của Thánh Lễ hôm nay được trích từ sách Các Vua và kể về cuộc hành trình
gian khổ của Tiên tri Êlia : Vì ông đã tiêu diệt thứ đạo đầy mê tín dị
đoan mà bà Hoàng Hậu Jésabel đem vào nước nên ông bị Bà này thù ghét tìm giết.
Do đó ông phải chạy trốn và định trốn lên tận đỉnh núi Horep. Nhưng đường quá
dài và nhiều gian nan nên ông mệt mỏi, chán nản bi quan nằm đại xuống đường phó
mặc cho số mạng tới đâu thì tới. Lúc ấy Chúa sai Thiên Thần đem đến cho ông một
chiếc bánh và một bình nước. Ăn uống xong, ông cảm thấy khoẻ khoắn và lạc quan
trở lại, đi một mạch suốt 40 ngày đêm lên tận đỉnh núi Horép.
Thứ
bánh thần diệu đã bổ sức cho tiên tri Êlia chỉ là hình bóng của Thứ Bánh mà Đức
Giêsu sẽ ban cho loài người, tức là Mình Thánh Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm
nay, Đức Giêsu tuyên bố “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì
sẽ sống đời đời”. Thực vậy, mỗi lần chúng ta rước lễ là ta được ăn chính Mình
Thánh Chúa, và của ăn đó đem lại cho người rước lễ biết bao ơn quý giá.
Nhiều
người đã từng ở tù sau khi về nhà đã thuật lại rằng cuộc sống trong đó thật là
cực khổ, tinh thần xuống dốc, đâm ra bi quan, chán đời. Nhưng đối với những người
công giáo, nếu thỉnh thoảng được Rước Mình Thánh Chúa thì họ cảm thấy được an ủi
rất nhiều, dù sức chịu đựng những sự cực khổ, tinh thần vững vàng và còn lạc
quan vui vẻ giúp đỡ những anh em khác nữa. Trong hoàn cảnh khốn đốn như thế,
người ta mới thấy rõ MTC thực là của ăn cần thiết cho tâm hồn mình.
Còn
chúng ta, hoàn cảnh của chúng ta dễ dãi, có lẽ chúng ta không thấy được sự cần
thiết của MTC. Cũng giống như người ăn nhiều quá nên không còn biết ngon nữa,
chúng ta cũng thế : chúng ta có thể rước MTC hằng tuần, hằng ngày nếu quá
quen và quên để ý đến những giá trị vô cùng cao quý của MTC.
. MTC
là biểu hiệu của một sự gần gũi rất thân thiết và rất sẵn sàng : nghĩa là
trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có thể rước lễ và được Chúa ở gần cạnh
ta để an ủi, nâng đỡ, khích lệ ta. Trong cuộc đời chúng ta, có thể có những lúc
chúng ta cảm thấy rất cô đơn, mọi người đều xa cách ta, kể cả những người thân
thiết nhất cũng bỏ ta. Chỉ có Chúa là không xa ta, không bỏ ta,. Ta rước lễ là
được MTC đến ở trong lòng ta, gần thật gần, thân thật thân, và Chúa sẽ an ủi
nâng đỡ khích lệ ta.
. MTC
còn là biểu hiệu của một sự trao hiến trọn vẹn đầy yêu thương : Yêu thương
là cho đi. Rước Lễ là một cuộc gặp gỡ giữa hai người yêu nhau trao quà tặng cho
nhau. Đức Giêsu trao tặng chúng ta cái quý giá nhất là chính thân xác của Ngài.
Còn chúng ta cũng trao cho Chúa những cái quý nhất của chúng ta : Những việc
bác ái chúng ta đã làm được, những hy sinh chúng ta đã chịu và cả những tâm sự
buồn phiền ray rứt đang dằn xé tâm can ta.
. MTC
còn là biểu hiệu của một sự hiện diện đầy quyền năng của một vị lãnh tụ của
chúng ta. Đó là khám phá của một nhà trí thức Ấn Độ, ông Chidambaram. Là một
người trí thức luôn đi tìm chân lý hoàn hảo nhất, ông khởi sự đi tìm trong nghề
là báo, nhưng sau đó ông thấy rằng nghề báo cũng dầy dẫy những sự gian dối. Ông
theo đạo Bàlamôn và là một tín đồ nhiệt thành, nhưng ông cũng không thoả mãn,.
Ông sang Ấn giáo vì cho rằng Ấn giáo là thứ đạo Bàlamôn được cải tiến tốt đẹp
hơn. Dù vậy ông cũng thất vọng. Cuối cùng ông gia nhập đạo Công giáo, ông thấy
thoả mãn và trung thành với Đức tin công giáo cho đến hơi thở cuối cùng. Vậy
cái gì trong Công giáo đã làm thoả mãn khát vong của ông ? Thưa chính là Phép
Thánh Thể MTC. Ông đã nhận thấy rằng việc Đức Giêsu hiện diện thật sự trong
MTC, và khi rước lễ chính Đức Giêsu đến ở thật sự trong lòng các tín hữu là một
điều quý giá vô cùng mà không một tôn giáo nào trên khắp thế giới có được. Thần
thánh của các tôn giáo kính vị viễn chi (nghĩa là kính nhưng mà phải ở xa xa).
Còn trong đạo Công giáo, nhờ có bí tích MTC, Đức Giêsu ở thật gần với tín hữu của
mình, thấu hiểu hết mọi tâm tư nguyện vọng của mình, thông cảm với mọi nỗi khó
khăn của mình, và nâng đỡ thêm sức hướng dẫn mình trong từng chi tiết từng biến
cố trong đời sống mình. MTC quả là một sáng kiến vô cùng thông minh của quyền
phép TC và cũng là một ơn vô cùng cao quý cho con người.
Nếu mỗi
lần chúng ta rước lễ mà chúng ta hiểu được, cảm được và sống được những tâm
tình như vậy thì chắc chắn MTC sẽ trở thành một thứ lương thực bổ dưỡng cho
linh hồn chúng ta, đúng như Lời Chúa phán trong bài Tin mừng hôm nay : Ta
là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời.
*
2. Bánh hằng sống
Trong
kho tàng văn hóa Việt Nam có chuyện “Thoại Khanh Châu Tuấn”. Đó là tên của hai
vợ chồng trẻ. Nhà họ nghèo, lại phải nuôi một người mẹ già yếu. Nhưng người vợ
trẻ hy sinh chịu cực khổ làm lụng để cho chồng học hành đi thi, rồi đến ngày
người chồng từ giã mẹ và vợ lên đường về kinh đô ứng thí. Rủi là trong lúc đó
gia đình lâm cảnh đói rách rất thê thảm, người mẹ già đói quá sắp chết. Người vợ
trẻ đã cam đảm lấy dao lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng. Nhờ đó mà người mẹ già
mù loà có thể sống được cho tới ngày con trai đổ đạt vinh quy về nhà.
Câu
chuyện cổ tích tưởng tượng trên cũng cảm động như câu chuyện thực sự diễn ra
hàng tuần, hàng ngày trong Thánh Lễ : Đức Giêsu lấy chính Thịt Máu Mình để
nuôi sống linh hồn chúng ta : “Ta là bánh hằng sống”.
Nhưng
phải thú nhận ngay rằng : Khi nghe câu chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn ta thấy
cảm động, còn khi nghe câu “Ta là bánh hằng sống” chúng ta thấy vẫn trơ trơ. Tại
vì tai ta đã nghe câu đó quá thường rồi. Thực ra, đây không phải là một câu nói
bóng bảy văn chương, mà là một sự thật : Mình Thánh Chúa thực là một thứ của
ăn có sức bổ dưỡng thần diệu :
1/
Ngày xưa tiên tri Êlia bị bà hoàng hậu Giêzabel gian tà hung ác săn đuổi. Ông
quá mệt mỏi đói khát, nằm vật xuống đất chỉ chờ chết đi. Nhưng Thiên Chúa sai một
Thiên Thần đem lại cho ông một chiếc bánh nhỏ,. Ông ngồi dậy ăn vào và có sức
đi suốt 40 ngày tới đỉnh núi Carmel hội kiến với Thiên Chúa. Đó chỉ là một hình
bóng của Cựu Ước thôi, huống chi thực tại Rước Lễ của Tân Ước còn có sức bồi dưỡng
đến mức nào !
2/ Tin
Mừng cũng kể rằng có lần dân chúng tấp nập đón Đức Giêsu đi ngang qua những người
bệnh tật cố sức chạm tới mình Ngài, rờ tới gấu áo Ngài, hay ít ra được bóng
Ngài che phủ lên mình thì lập tức bao bệnh hoạn liền biến mất. Huống chi ngày
nay chúng ta được Rước chính Mình Thánh Chúa vào kết hợp mật thiết với thịt máu
ta, hoà tan trong thịt máu ta.
3/ Tục
ngữ VN chúng ta có câu “Trời đánh tránh bữa ăn” : khi cùng dùng cơm chung
với nhau một bàn, người ta phải dẹp bỏ mọi xích mích để cố hòa hợp đoàn kết với
nhau. Bữa ăn thường còn thế, huống chi bữa ăn thánh của những người cùng là con
cái Chúa và anh em với nhau.
Những
so sánh nho nhỏ trên cho ta thấy rằng MTC thật là một thứ bánh hằng sống có thể
thêm sức cho chúng ta trên con đường dương thế, có thể tẩy xoá mọi yếu đuối bệnh
tật trong linh hồn chúng ta và có thể giúp chúng ta đoàn kết yêu thương nhau.
Nhưng
thực tế là chúng ta đã rước lễ biết bao nhiêu lần mà vẫn chẳng thấy ích lợi bao
nhiêu. Chính các tông đồ cũng vậy : Thánh Lễ đầu tiên do chính Đức Giêsu cử
hành trong nhà Tiệc ly, tất cả 12 tông đồ đều rước lễ, nhưng sau đó đâu phải tất
cả 12 đều được thánh hóa : Giuđa vội ra đi tính việc bán Chúa, Phêrô sau
đó đã chối Chúa 3 lần, chỉ có Gioan là vẫn theo sát bên Chúa trên đường tử nạn.
Thực
ra cũng chẳng có gì là khó hiểu : như một dĩa thức ăn thật bổ dưỡng, nhưng
nếu người ta mà không tiêu hóa thì cũng vô ích thôi, có khi còn sinh ra trúng
thực hay bội thực nữa. Nếu chúng ta rước lễ thường xuyên mà chẳng được ích lợi
thì không phải tại MTC mà tại chính chúng ta. Vì thế cũng cần xét lại cách
chúng ta rước lễ như thế nào. Xin đưa ra một vài mẫu gương để chúng ta cùng
chiêm ngắm :
1/
Các tín hữu sơ khai gọi Thánh Lễ là tiệc bẻ bánh : Khi tới nhà thờ, mọi
người đều cố gắng đem phần bánh của mình đến. Người nghèo đem ít, người giàu
đem nhiều, kẻ túng thiếu có khi không mang gì hết. Chủ tế thu nhận tất cả rồi
truyền phép biến bánh thành MTC. Sau đó mọi người chia đều nhau, ai có phần nấy,
lại có một số phần để dành đem chia cho những người giả cả yếu đau không thể tới
dự nghi lễ bẻ bánh rượu. Người ta đã đến dự lễ với tấm lòng quảng đại, với trái
tim yêu thương đùm bọc nhau. Kết quả là họ đạo trở thành một tổ ấm khiến lương
dân phải trầm trồ khen ngợi “Kìa xem họ thương yêu nhau đến mức nào”.
2/ Tới
thời Rôma bị bắt đạo, các tín hữu phải ẩn trốn trong các đường hầm ở ngoại ô gọi
là những hang toại đạo. Họ cử hành Thánh Lễ trên mồ chôn các thánh tử đạo. Họ
dâng lễ bằng chính những hy sinh gian khổ của họ đang chịu vì Chúa, và họ rước
lễ như rước lấy nghị lực của Đấng cũng đã từng chịu nạn chịu chết như họ. Và kết
quả là họ đã có một đức tin kiên vững, gian lao không sờn, chết chóc không nản,
hận thù không giết chết trái tim yêu thương của họ. Ngày nay trong các hang toại
đạo, du khách vẫn còn thấy vẽ những hình về Bí tích Thánh Thể như những đĩa
bánh, những chùm nho, những con cá… và những câu tràn đầy yêu thương tha thứ
tin tưởng như sau : “Bình an”, amor “tình yêu thương”, Christus vincit “Đức
Kitô chiến thắng”…
Đường
đời chúng ta như một cuộc lữ hành gian nan nhọc mệt.
Cuộc
đời chúng ta như một cuộc chiến đấu cực khổ đau thương.
Cuộc
sống chúng ta với người khác nhiều khi bực bội như hoả ngục.
Đức
Giêsu muốn giúp chúng ta, nên Ngài đã hiến thân làm bánh hằng sống để ban nghị
lực cho chúng ta có thể đi trọn đường dài, ban ơn nâng đỡ cho chúng ta chịu đựng
những khổ đau, ban thêm tình thương để chúng ta sưởi ấm lòng mình và sưởi ấm
lòng những kẻ sống với mình.
Nhưng
chúng ta cũng phải cố gắng giúp chính chúng ta nữa bằng cách tham dự Thánh Lễ
và rước lấy thứ Bánh Hằng Sống đó một cách sốt sắng. Rước Lễ sốt sắng là có dọn
mình trước khi dự lễ, kết hợp sâu xa với Ngài đã ngự vào lòng ta, và sau đó
cùng đồng hành với Ngài bước vào cuộc sống với tâm tình lạc quan, yêu thương,
quảng đại.
Tần
Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông
là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc
duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không
gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được
trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày
kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông,
dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.
Tần
Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi
được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường
sinh của họ.
Thế rồi
ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy
thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung
nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy
chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
*
Trường
sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ
cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên
không lạ gì khi Đức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến
như đi tìm kho báu.
Nhưng
mầu nhiệm về “Sự sống đời đời” lại rất xa tầm trí mọn của đám
dân chúng. Đức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính
Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết
của linh hồn : cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với
tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt
muôn đời.
Cuộc
sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Đức Giêsu đã mạc khải : “Ta là Bánh ban
Sự Sống… Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,47). Vậy bí quyết
trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc
nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính
là Đức Giêsu nguồn mạch trường sinh.
Người
đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người : “Ở đâu có hai hoặc ba
người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ” (Mt.18,20).
Người
còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm
cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.
Người
hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử
hành các Bí tích : “Ai nghe các con là nghe Ta” (Lc.10,16).
Đặc
biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể : “Ta
là bánh hằng sống… Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời” (Ga.6,52).
Như vậy, “Sự
sống đời đời” không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực
tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc
nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.
*
Lạy
Đức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa
tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Xin
cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn
lao.
Và
cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống
muôn đời. Amen. (Thiên
Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
*
4. Mất tinh thần
Bài đọc
I kể chuyện ngôn sứ Êlia. Ông đã từng can đảm dám một mình chống lại hoàng hậu
Giêsabel và giết hết tất cả các sư sãi của bà này. Nhưng sau đó, bị bà này truy
bắt, ông phải chạy vào sa mạc. Cuộc trốn chạy quá vất vả khiến ông chán nản
không muốn tiếp tục nữa. Ông ngồi bẹp dưới gốc một cây kim tước. Ông còn xin
Chúa cho ông chết đi cho rồi : “Lạy Chúa, đủ rồi. Bây giờ xin Chúa lấy mạng
con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông con”.
Tâm
trạng Êlia lúc đó là mất tinh thần. Khi ta mất tinh thần thì ta mất nguồn sức mạnh
lớn nhất, bởi vì tinh thần đối với con người cũng giống như đôi cánh đối với
loài chim, và như bộ rễ đối với loài cây vậy.
Ngay
cả những nhân vật anh hùng cũng có lúc cảm thấy mệt mõi, yếu đuối và thất vọng.
Nhưng không phải vì thế mà họ không còn là anh hùng. Đúng hơn, những lúc đó cho
thấy họ thực sự là người. Chính Đức Giêsu cũng từng trải qua những giây phút
như thế trong vườn Cây Dầu.
Nhiều
người không thể chấp nhận những giới hạn do thân phận làm người của mình. Họ muốn
tỏ ra lúc nào cũng mạnh. Họ cho rằng họ sẽ bị mất mặt nếu để cho người ta thấy
được sự yếu đuối và sợ hãi của mình. Nhưng sự thực không phải thế. Người ta sẽ
cảm động và sẵn sàng giúp ta khi thấy ta cũng là người giống như họ. Như lời
Picasso nói : “Lòng bạn sẽ tràn ngập cảm thông khi bạn nhận ra rằng trong
mỗi người có cả một nguồn nước mắt”.
Có
người còn cho rằng cảm giác yếu đuối đó không xứng với người có đức tin. Nhưng
thực ra, yếu đuối đâu có gì ngược với đức tin. Vả lại làm sao ta có thể được
giúp đỡ nếu ta không thấy mình cần được giúp đỡ ?
Chúa
sai một thiên thần mang đến cho Êlia bánh và nước. Nhờ thứ lương thực này, Êlia
được bổ sức và đi một mạch đến núi Horép, núi của Chúa. Thực ra, tình trạng yếu
đưối trước đây của Êlia không phải chỉ do thiếu lương thực mà do mất tinh thần.
Bây giờ cũng thế, ông được hồi sức không phải chỉ vì có lương thực, mà còn do lấy
lại được tinh thần : Ông được bảo đảm rằng Chúa luôn ở cùng ông. Chính sự
bảo đảm này đã đem lại cho Êlia một nguồn sống mới và giục giã ông lên đường.
Chúng
ta cũng đang hành trình lên núi Chúa, tức là sự sống đời đời. Nhiều lúc chúng
ta cũng cảm thấy yếu đuối mệt mỏi. Cho nên chúng ta cũng cần được giúp đỡ ;
những sự giúp đỡ của anh chị em tín hữu trong cộng đoàn, và nhất là sự giúp đỡ
của Chúa. Sự giúp đỡ của Chúa chính là ý thức có Chúa ở với ta và hằng yêu
thương ta. Như Êlia, chúng ta cũng cần bánh. Bánh ban sức mạnh chính là Mình
Thánh Chúa trong bí tích Thánh Thể. Bánh Thánh thể được gọi là Viaticum, “lương
thực đi đường”. (Viết theo Flor McCarthy).
IV.
Lời
nguyện cho mọi người
Chủ tế :
Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rằng : “Tôi là bánh từ
trời xuống… không ai thấy Chúa Cha, chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính
Đấng ấy đã thấy Chúa Cha”. Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin với Người :
1.
Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng và tuyên xưng rằng / Đức
Giêsu Kitô là Đấng từ trời đến / là Con Chúa Cha ở trên trời, và là Thiên
Chúa làm người / Đấng cứu độ duy nhất ở trần gian.
2.
Xin cho mọi nhà cầm quyền và mọi người theo các tôn giáo khác / được nhận
biết Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ mà Chúa Cha sai đến / để giải thoát và
cứu độ tất cả mọi người.
3.
Xin cho mọi người chưa nhận biết ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô / được Chúa
Cha lôi kéo đến với Người / để Người ban cho họ lương thực nuôi cả xác hồn.
4.
Xin cho anh chị giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn siêng năng dự lễ và rước lễ /
để lãnh nhận lương thực bởi trời / mà chu toàn bổn phận mình trong cuộc
hành trình về Nước Chúa.
Chủ tế :
Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa là Cha yêu thương đã ban cho chúng con bánh từ
trời xuống là Đức Giêsu Kitô. Xin cho chúng con luôn được nuôi dưỡng bằng Bánh
bởi trời, để chúng con luôn có sự sống muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức
Kitô.
V.
Trong
Thánh lễ
– Trước
kinh Lạy Cha : Khi chúng ta đọc “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng
ngày”, chúng ta đừng chỉ xin cơm bánh vật chất, nhưng hãy xin Chúa ban cho
chúng ta chính bản thân Ngài, để Ngài đồng hành với chúng ta luôn mãi trong cuộc
đời.
– Trước
lúc rước lễ : Ngày xưa ngôn sứ Êlia đã được ăn bánh Chúa ban, nhờ đó có sức
lên núi Horép gặp Chúa. Chút nữa đây chúng ta sẽ được rước chính Mình Thánh
Chúa. Xin cho thứ lương thực thần thiêng này bồi dưỡng sức khoẻ tinh thần cho
chúng ta trong cuộc lữ hành dương thế.
VI. Giải tán
Chúng
ta đã có Chúa trong lòng. Hãy lạc quan trở về cuộc sống và cùng sống với Chúa
trong từng phút giây.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio
Divina: Chúa Nhật XIX Thường Niên (B)
Chủ
Nhật 12 Tháng Tám, 2018
Bánh
Hằng Sống
Ga
6:41-51
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã biến đời sống mỏng manh của chúng con thành đá tảng
đền thờ Chúa ngự.
Xin
hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết đập vỡ những phiến đá trong sa mạc, để cho
nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con.
Nguyện
xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ chúng con như tấm áo
choàng trong bóng tối của đêm đen.
Và
xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng
của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin
hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông,
Xin
hãy mang đến cho chúng con,
Với
than hồng từ lửa của những người chăn chiên thần thánh
Là những
người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh, hương vị của kỷ niệm
thánh.
- Bài Đọc
- a) Tin Mừng:
41 Khi ấy, những người Do-thái kêu
trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: “Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”. 42 Họ
nói: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết
rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống'”. 43 Chúa
Giêsu trả lời cùng họ rằng: “Các ngươi chớ thì thầm với nhau. 44 Không
ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ
cho họ sống lại trong ngày sau hết. 45 Trong sách các tiên
tri có chép rằng: ‘Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo’. Ai nghe lời giáo hóa
của Cha, thì đến với Ta. 46 Không một ai đã xem thấy Cha,
trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. 47Thật, Ta
bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. 48 “Ta
là bánh ban sự sống. 49 Cha ông các ngươi đã ăn manna
trong sa mạc và đã chết. 50 Đây là bánh bởi trời xuống, để
ai ăn bánh này thì khỏi chết. 51 Ta là bánh hằng sống từ
trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt
Ta, để cho thế gian được sống”.
- b) Chìa khóa dẫn
đến bài đọc:
Chương
sáu của Tin Mừng theo Gioan trình bày toàn bộ bức tranh tiến triển xung quanh
chủ đề lễ Vượt Qua, và tương tự với những gì đi trước đó, trải ra qua việc kể lại
về một phép lạ (5:1-9a; 6:1-15) theo sau bởi một bài thuyết giảng (5:16-47;
6:22-59). Chương này liên quan đến phần hoạt động của Chúa Giêsu tại
Galilêa, một cách chính xác là tại thời điểm tuyệt vời nhất của nó, khi Chúa
Giêsu mặc khải mình là bánh hằng sống để tin tưởng và ăn để được cứu rỗi.
Trong các câu 1-15, chúng ta thấy phép lạ tuyệt vời của bánh hóa nhiều mang ý
nghĩa quan trọng được mặc khải trong bài giảng ngày sau đó trong các câu 26-59:
món quà tặng bằng bánh để làm đỡ cơn đói của những người chuẩn bị đường đi cho
những lời về bánh ban sự sống đời đời. Chen vào đó là các câu 16-21,
chúng ta thấy có câu chuyện về Chúa Giêsu đi trên mặt nước. Trong các câu
60 đến 71, Chúa Giêsu biết rằng họ thiếu lòng tin (các câu 60-66) và cố gắng
khuyến khích niềm tin của họ (các câu 66-71), đã kêu gọi mười hai môn đệ nên
quyết định dứt khoát. Toàn bộ bài giảng về bánh hằng sống (6:25-71) trình
bày song song với một số văn bản bằng tiếng Do Thái, đặc biệt là với Philon.
- c) Giây phút
thinh lặng cầu nguyện:
Hãy để
cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.
2.Suy Gẫm
- a) Một vài câu hỏi
gợi ý:
– Họ
thì thầm về Người: có bao nhiêu tiếng nói thì thầm chống lại Thiên
Chúa?
– Ta
là bánh bởi trời mà xuống: chúng ta mua bánh ăn hằng ngày ở đâu?
– Không
ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy: Chúa
Cha có lôi kéo chúng ta không hay là chúng ta kéo lê chân chúng ta đằng sau Người
để rồi chỉ trích về những gì Chúa nói với chúng ta trong đời sống hằng ngày?
– Ai
ăn bánh này, sẽ sống đời đời: chúng ta nuôi dưỡng mình với Lời của
Chúa và Bánh của Người mỗi tuần một lần hoặc mỗi ngày… tại sao sự sống đời đời
lại không hiển nhiên trong lời nói và kinh nghiệm con người của chúng ta?
- b) Chìa khóa dẫn
đến bài Tin Mừng:
Than
phiền kêu ca. Có cách nào tốt hơn để cho chúng ta không sống ở chiều
sâu mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta không? Có hàng ngàn lý do chính đáng…
hàng ngàn luận cứ vững chắc… hàng ngàn động cơ hợp pháp… cho chúng ta không nuốt
một Lời bất chấp mọi lý do, mọi sự biện minh, mọi động lực để cho những âm
thanh vang vọng mới cộng hưởng từ một thiên đàng không xa lắm ngự trong lòng
chúng ta.
Câu
41: Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người
đã phán rằng: “Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”. Chúa Giêsu vừa mới nói: Ta
là bánh hằng sống (câu 35) và Ta bởi trời mà xuống (câu
38) và điều tạo nên sự bất đồng quan điểm giữa đám đông. Thuật ngữ Người
Do Thái là một thuật ngữ thần học trong Tin Mừng Gioan và có thể được coi như
là đồng nghĩa với những kẻ không tin. Trong thực tế, có những người miền
Galilêa được gọi lá người Do Thái bởi vì họ kêu trách Chúa Giêsu về những lời
làm xáo trộn phạm trù thông thường của họ. Người Do Thái đã quen thuộc với
thuật ngự bánh bởi trời mà xuống. Con cái nhà Israel biết bánh của Thiên
Chúa, manna, đã làm cho họ no nê trong sa mạc và ban cho họ sự an sinh cho một
cuộc hành trình bấp bênh mà tương lai thì không chắc chắn. Đức Kitô, bánh
bởi trời ban cho loài người trong sa mạc của lòng đói khát không nguôi cầu khẩn
lên trời để duy trì trên đường lữ thứ. Đây là bánh duy nhất có thể đáp ứng
được cơn đói. Những lời của người Do Thái là một sự phản đối về con người
của Chúa Giêsu và cũng là cơ hội giới thiệu chủ đề thiếu lòng tin. Trong
các đoạn Tin Mừng khác, người ta “thì thầm” về Chúa Giêsu (7:12, 32), nhưng
trong chương này họ “kêu trách” về những gì Người nói ra, về Lời của Người.
Việc kêu trách này đặt trọng tâm vào việc thiếu lòng tin và không thể lĩnh hội
được của họ.
Câu
42: “Chớ
thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ
của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống'”? Đây là sự trớ trêu tinh tế.
Những kẻ không tin biết nguồn gốc trần thế của Đức Kitô, họ biết chắc đây là
con ông Giuse, mà không phải là Con Thiên Chúa. Chỉ có những ai
biết nguồn gốc siêu việt của Người bằng sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa
trong Đức Trinh Nữ Maria. Đoạn Tin Mừng đi từ ngôn ngữ vật chất, bánh được
làm bằng nước và bột, đến ngôn ngữ tinh thần, bánh nuôi linh hồn loài người.
Như khi xưa người ta trong sa mạc đã làm, những người Do Thái trách cứ: họ
không hiểu được nguồn gốc món quà của Chúa Giêsu: và như khi xưa cha ông họ đã
từ chối bánh manna bởi vì nó quá nhẹ, và bây giờ thì đám con cháu từ chối Ngôi
Lời bằng xương bằng thịt, bánh bởi trời mà xuống, bởi vì nguồn gốc trần thế của
nó. Những người Do Thái, từ tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã nói, chỉ lưu
ý là Người đã nói rằng: Ta bởi trời mà xuống (câu
38). Tuy nhiên, câu nói này đưa ra căn bản cho tất cả những gì được nói
trước đó về bánh hằng sống (câu 35). Câu hỏi
là: Chớ ông này không phải là… được đặt ra trong một bối cảnh
bất ngờ trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Trong sách Mátthêu và Luca, qua
câu chuyện về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, người ta đã được nghe nói về sự thụ
thai đồng trinh của Chúa Giêsu. Trong sách Gioan, người Galilêa bị đối mặt
với một người tuyên bố là bởi trời mà xuống mà không có bất kỳ cuộc thảo luận
nào trước đó về tình trạng phàm nhân của Người. Con ông Giuse có
nghĩa là Chúa Giêsu là một con người giống như tất cả mọi con người khác (xem
1:45).
Câu
43-44: Chúa
Giêsu trả lời cùng họ rằng: “Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến
được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy; và Ta, Ta sẽ cho
họ sống lại trong ngày sau hết.” Chúa Giêsu dường như không
dừng lại ở nguồn gốc Thiên Chúa của mình mà còn nhấn mạnh rằng chỉ co những kẻ
được Chúa Cha lôi kéo mới có thể đến được với Người. Khi
ấy đức tin là một ân sủng của Thiên Chúa và tùy thuộc vào sự cởi mở vả khả năng
lắng nghe của một người… nhưng khi nói Chúa Cha lôi kéo thì
có ý nghĩa gì? Không phải là người ta được tự do trên cuộc hành trình này
sao? Sự lôi kéo không chỉ đơn giản được viết trong các thớ thịt trong tim
của mỗi người. Vì thế, sự tự do hoàn toàn thì tồn tại trong sự bám víu tự
phát vào nguồn gốc bản thể của người ta. Chỉ có Sự sống mới có thể lôi
kéo được sự sống, cái chết không thể lôi kéo được.
Câu
45: Trong
sách các tiên tri có chép rằng: ‘Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo’. Ai nghe
lời giáo hóa của Cha, thì đến với Ta. Phần còn lại của câu
chuyện đi theo một trình tự rất chính xác. Những lời này không phải là một
lời mời, mà là một mệnh lệnh. Lời Thiên Chúa sáng tạo, Đấng được gọi vào
sự hiện có từ ánh sáng hư không và tất cả các sinh vật khác, bây giờ kêu gọi những
người giống mình tham gia vào việc sáng tạo mới. Hệ quả không bắt nguồn từ
một quyết định cá nhân và tự trị, mà là từ việc gặp gỡ với con người Đức Giêsu
và ơn gọi của Người. Đó là một sự kiện ân sủng, không phải là một sự chọn
lựa của loài người. Chúa Giêsu không chờ đợi một quyết định tự do, mà kêu
gọi với uy quyền thiêng liêng như Thiên Chúa đã gọi các tiên tri trong Cựu Ước.
Không phải các môn đệ là những kẻ chọn Thầy như trong trường hợp với các giáo
sĩ Do Thái vào thời ấy, mà là Chúa chọn các môn đệ như những người thụ hưởng thừa
kế di sản của Thiên Chúa, cao quý hơn bất kỳ một học thuyết hoặc giáo lý nào rất
nhiều. Lời mời gọi hàm ý sự từ bỏ gia đình, nghề nghiệp, một thay đổi
hoàn toàn cách sống của một người để bám víu vào một cách sống mà không có chỗ
cho tự coi mình là trung tâm vũ trụ. Các môn đệ là dân riêng của Nước Trời.
Lời mời gọi để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu là một “lời mời gọi cánh
chung”. Lời của tiên tri Babylon trong thời gian lưu đày nói rằng: “và
tất cả các con cái Giêrusalem sẽ được” – nói về những người Do
Thái. Việc sử dụng thành ngữ: “tất cả sẽ được” là
một lời diễn đạt phổ quát của ơn cứu độ mà người làm viên mãn là Chúa Giêsu.
Câu
46: Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng
ấy đã thấy Cha. Chỉ
có Chúa Giêsu, Đấng từ Thiên Chúa, đã thấy Chúa Cha và có thể mặc khải về Người
một cách dứt khoát. Mọi người được gọi đến từ Thiên Chúa. Sự hiểu
biết về Chúa Cha không phải là một sự chinh phục, nó là một nguồn gốc. Sự
chuyển động không phải ở bên ngoài. Nếu tôi đi tìm một nguồn gốc bên
ngoài thì tôi có thể nói rằng tôi có cha và mẹ, một tạo vật của thế gian thụ tạo.
Nếu tôi đi tìm một nguồn gốc sâu xa hơn về bản thể con người của tôi, thì tôi
có thể nói rằng tôi đến từ Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa của mọi sự sống.
Câu
47: Thật,
Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Tin vào lời của Chúa Giêsu,
tin vào sự mặc khải của Người, là một điều kiện để có được sự sống đời đời và
có thể “được giảng dạy bởi Đức Chúa Cha”. Tôi tin, tôi dựa vào một tảng
đá. Sức mạnh không đến từ bên trong các giới hạn loài thụ tạo của tôi,
cũng không phải trong việc nhận thức về loài thụ tạo của tôi để đạt được sự
hoàn hảo. Tất cả đều vững chắc trong Người là Đấng không hề có những ràng
buộc bởi thời gian. Làm thế nào mà một tạo vật dựa vào chính nó khi mà nó
không phải là chủ của bất kỳ một thời khắc nào của cuộc đời nó?
Câu
48: Ta là bánh ban sự sống. Một lần nữa, chủ đề bánh ban sự sống được trình bày cùng
với đức tin và sự sống đời đời. Chúa Giêsu là bánh sự sống thật sự.
Câu Tin Mừng này được nối kết với câu 51 “Ta là bánh hằng sống”.
Chỉ những ai ăn bánh này, thì người ấy mới so sánh được sự mặc khải của Chúa
Giêsu như bánh ban sự sống, mới có thể sống.
Câu
49-50: Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết.
Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Bánh bởi trời mà xuống thì
tương phản với bánh manna đã nuôi sống cha ông họ nhưng đã không giữ gìn cho họ
khỏi cái chết. Bánh ban sự sống không bao giờ dứt và bởi trời mà xuống
chính là Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa. Chủ đề Thánh Thể, đã được hàm
ý trong một số lời diễn tả, bây giờ trở thành trung tâm điểm. Cái chết trần
thế không mâu thuẫn với kinh nghiệm này về sự sống nếu người ta đi theo cách
siêu nhiên. Giới hạn là sự vô hạn cho những ai ăn thịt của Người.
Câu
51: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời
đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. “Thịt” của Chúa Giêsu là thức
ăn quan trong cho người tín hữu. Thuật ngữ thịt (sàrx), mà trong Kinh
Thánh cho thấy thực tại mỏng dòn của loài người trước mầu nhiệm Thiên
Chúa. Nó không con là một ẩn dụ về bánh ban sự sống, nó là sự
mặc khải của Chúa Giêsu bởi vì bánh này chính thật là thịt của Con Một Thiên
Chúa. Cho thế gian được sống có nghĩa là thiên về và
nhấn mạnh đến chiều kích hy tế của Đức Kitô, bởi vì đối với thế gian biểu lộ sự
cứu rỗi phát xuất từ chiều kích đó.
- c) Suy niệm:
Ta
thán. Nêu lời ta thán của chúng ta giống như cơn gió thoảng, nó sẽ tác dụng
như là một căn bản hài hòa để cho lời hằng sống trở thành xác thịt chúng
ta: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Thật là một bất ngờ, biết rằng
Bánh hằng sống này không ai xa lạ, mà chính là Đức Giêsu, con ông Giuse, một
người mà chúng ta biết mẹ biết cha. Chúng ta ăn và chúng ta đang giả định,
bởi vì hễ ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Đây là bánh được sinh ra từ
tình yêu của Chúa Cha. Chúng ta được mời để lắng nghe và học hỏi từ Ngài
trên quỹ đạo của sự thu hút, tại tột đỉnh của đức tin cho phép chúng ta nhìn thấy.
Bánh của Chúa với bánh, Thịt của Chúa với thịt. Chỉ có Người, Đấng đến từ
Thiên Chúa, đã nhìn thấy Chúa Cha. Và khi chúng ta đã để xác thịt chúng
ta là bàn tiệc của Bánh hằng sống, thì khi ấy chúng ta sẽ được thấy Chúa
Cha. Sa mạc và cái chết, thiên đàng và sự sống. Một cuộc giao duyên
ngọt ngào được viên mãn trong mọi Bí Tích Thánh Thể… trên mọi bàn thờ, trên bàn
tế lễ của con tim nơi mà sự sống của hơi thở Thiên Chúa thiêu đốt nét mặt biến
dạng của kẻ lạc loài.
3.
Cầu Nguyện
Thánh
Vịnh 33 (32)
Một lời
CHÚA phán làm ra chín tầng trời,
một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú.
Chúa dồn đại dương về một chỗ,
Người đem biển cả trữ vào kho.
một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú.
Chúa dồn đại dương về một chỗ,
Người đem biển cả trữ vào kho.
CHÚA
đảo lộn chương trình muôn nước,
Người phá tan ý định chư dân.
Chương trình CHÚA ngàn năm bền vững,
ý định của lòng Người vạn kiếp trường tồn.
Người phá tan ý định chư dân.
Chương trình CHÚA ngàn năm bền vững,
ý định của lòng Người vạn kiếp trường tồn.
CHÚA
để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,
hầu cứu họ khỏi tay thần chết
và nuôi sống trong buổi cơ hàn.
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,
hầu cứu họ khỏi tay thần chết
và nuôi sống trong buổi cơ hàn.
4. Chiêm Niệm
Lạy
Chúa, kinh nghiệm về những thức ăn làm dịu cơn đói của tâm hồn nhắc nhở con rằng
con có thể vượt qua từ sự bất toàn đến con người giống hình ảnh Chúa, không phải
bằng cách thoát khỏi cơn đói, mà là tìm thấy trong đó không còn là một con người
đang mơ màng nữa, một kẻ không thắc mắc về chính mình, kẻ sống không có bất kỳ
quyền lợi, không muốn nhìn hay cảm thấy, kẻ sẽ không cho phép mình được đụng chạm,
kẻ sống trong nỗi sợ hãi, trọng bề ngoài hơn là nội tâm, và kẻ giữ vị thế lưng
chừng khi phải đối mặt với những biến cố, ngủ mê hoặc thờ ơ với bất cứ điều gì
mà người ấy gặp… mà phải là một người cẩn trọng, luôn luôn tỉnh thức với chính
mình và những người khác, có khả năng đáp ứng bản thân mình bởi việc làm của
mình, người có trách nhiệm không dừng lại tại hôm nay, mà là kẻ biết cách giữ tốc
độ mình cho cuộc chờ đợi lâu dài và đầy kiên nhẫn, kẻ biểu lộ tất cả những gì ở
trong mỗi đoạn của cuộc đời mình, kẻ không còn sợ hãi cảm giác dễ bị tổn
thương, bởi vì người ấy biết rằng các vết thương trên con người mình có thể được
biến đổi thành những vết thẹo qua đó Sự Sống kết hợp khi thời gian trôi qua, một
Sự Sống mà cuối cùng có thể nhận ra được Mục Đích của mình và ca vang Tình Yêu
với “trái tim đầy vết thẹo” được bao bọc trong một “ngọn lửa thiêu cháy nhưng
không làm tổn thương” và để chuẩn bị cho mình một cách dứt khoát để “xé tấm màn
che”. Cơn đói không còn là cơn đói nữa, bởi vì bây giờ nó trở thành sự giới
hạn êm ái, được bảo vệ bởi “vết thương ngọt ngào” và luôn mở ra cho “cuộc gặp gỡ
dịu dàng” sẽ đáp ứng được mọi mơ ước: “Chúa yêu thương là núi đá, là
thung lũng bằng phẳng đầy bóng rợp… Người giống như đêm đen bình an, rất gần
bình minh, một khúc nhạc yên lặng, một sự im lặng vang dội… Ai sẽ chữa lành
trái tim đầy vết thương của lòng con? Chúa là ngọn lửa thiêu cháy mà
không làm tổn thương! Ôi lạy Chúa Yêu Thương của con, xin hãy xé bức màn
vào thời điểm cuộc gặp gỡ êm ái của chúng ta.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét