Trang

Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2012

Thứ Hai Tuần II Mùa Thường Niên


Thứ Hai sau Chúa Nhật 2 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (năm I) Dt 5, 1-10
"Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Tất cả các vị Thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi, như Aaron. Cũng thế, Ðức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Ðấng đã nói với Người rằng: "Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con". Cũng có nơi khác Ngài phán: "Con là Tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê". Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người. Người được Thiên Chúa gọi là Thượng tế theo phẩm hàm Menkixêđê.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 109, 1. 2. 3. 4.
Ðáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).
Xướng: 1) Thiên Chúa đã tuyên bố cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con". - Ðáp.
2) Ðức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng: "Con hãy thống trị giữa quân thù". - Ðáp.
3) Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: trước rạng đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Ðáp.
4) Ðức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rằng: "Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê". - Ðáp.

* * *

Bài Ðọc I: (năm II) 1 Sm 15, 16-23
"Vâng lời thì tốt hơn của lễ. Chúa truất phế không cho ông làm vua nữa".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Samuel nói cùng Saolê rằng: "Thôi! Tôi sẽ tuyên bố cho ông những điều Thiên Chúa đã nói với tôi trong đêm qua". Và Saolê đáp: "Ngài cứ nói". Samuel liền nói: "Khi ông tự thấy ông còn bé nhỏ, há ông đã chẳng được đặt làm thủ lãnh các chi họ Israel sao? Và Thiên Chúa đã chẳng xức dầu phong ông làm vua Israel sao? Chúa đã sai ông lên đường và nói: "Hãy đi giết quân Amalec tội lỗi, và hãy giao chiến với chúng cho đến khi tận diệt chúng". Tại sao ông không nghe lời Chúa, mà lại chạy theo chiến lợi phẩm và làm điều tội lỗi trước mặt Chúa như vậy?" Saolê nói với Samuel: "Vâng, tôi đã nghe lời Chúa, đã đi trên đường Chúa sai tôi, đã bắt Aga vua Amalec, và tàn sát dân Amalec. Nhưng trong các chiến lợi phẩm, dân chúng đã lấy chiên bò, những vật nhất hạng họ cướp được để tế lễ Chúa là Thiên Chúa của họ tại Galgalê".
Samuel nói: "Này Chúa ưa thích của lễ toàn thiêu và hy lễ hơn sự vâng lời Chúa ư? Vì vâng lời thì tốt hơn của lễ, và tuân lệnh thì cao đẹp hơn dâng mỡ cừu; vì phản bội thì giống như tội tà thuật, còn ngoan cố thì giống như tội thờ bụt thần. Vậy bởi ông khinh bỉ lời Chúa, nên Chúa truất phế không cho ông làm vua nữa".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 49, 8-9. 16bc-17. 21 và 23.
Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng: 1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận tự nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận tự đoàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.
2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.
3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Tv 144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 2, 18-22
"Tân lang còn ở với họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay. Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Các môn đệ Ðức Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và Biệt Phái. Ðức Giêsu đã bênh vực các môn đệ Ngài và cho người ta thấy rằng: Việc thiện cũng phải biết làm đúng lúc, đúng nơi mới gọi là thiện. Vì thế, đừng vội phê bình người khác khi chưa nắm vũng hoàn cảnh sự kiện. Vấn đề lúc này là: Ðức Giêsu chính là Tin Mừng. Ngài đã đến đem niềm vui Ơn Cứu Ðộ. Nên phải biết sống vui tươi, tin tưởng. Ủ rũ sầu khổ là không hợp thời, không đúng lúc nữa.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến đem niềm vui cho chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sống vui tươi, nguồn vui đích thực bắt nguồn từ Thiên Chúa, niềm vui đích thực chỉ có với người thiện tâm. Ðể với sự an bình thẳm sâu của tâm hồn, chúng con biết đem niềm vui, sự bình an đến cho người khác. Amen.

Suy Niệm:
Cốt lõi của đạo
Trong những thập niên gần đây, mặc dầu càng lúc Hiến pháp các quốc gia càng đi sâu vào sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước; thế nhưng, sự liên kết giữa tôn giáo và chính trị lại càng đậm nét hơn. Cuộc chiến giữa Tư bản và Cộng sản đã hầu như chấm dứt, nhưng chiến tranh tôn giáo xem chừng vẫn dai dẳng, không những giữa những người khác tôn giáo với nhau, mà ngay cả trong cùng một tôn giáo. Nhìn vào thảm cảnh ấy, ai cũng thắc mắc tự hỏi: Tôn giáo nào mà không dạy ăn ngay ở lành, tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung tha thứ, thế thì tại sao những người có tôn giáo lại nhân danh tôn giáo của mình để gây chiến với người khác hay với chính những người đồng đạo của mình? Câu trả lời thật đơn giản: sở dĩ người có tôn giáo có thái độ quá khích và bất khoan nhượng, là vì họ chưa sống đúng cái cốt lõi của đạo. Xét cho cùng, cái cốt lõi của tôn giáo nào cũng là tình thương.
Chúa Giêsu cũng muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ và lời dạy của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh rao giảng của Ngài, cũng như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui tụ một số môn đệ; và cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài cũng theo một lối sống nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên và đặt vấn đề, đó là Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày chay tịnh như môn đệ của Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ những ngày chay tịnh đã đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn nữa, khi Ngài không tuân giữ cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa tay trước khi ăn.
Suốt cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là cách sống đạo hoàn toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với Ngài, linh hồn và cốt lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc đẩy Ngài đi đến tận cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi mãi là lời tố cáo về thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con người. Vụ án của Ngài được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi của viên toàn quyền La mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên, vụ án của Chúa Giêsu vẫn là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và thái độ bất khoan nhượng của các thủ lãnh Do thái giáo.
Chiêm ngắm thái độ của Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài và lắng nghe giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ thấy rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Trong cuộc sống đạo, nhiều lúc chúng ta thắc mắc phải ăn chay thế nào cho đúng cách? Ngày Chúa nhật có được làm việc xác không? Bỏ lễ Chúa nhật có tội hay không? Thật ra còn có nhiều câu hỏi nền tảng hơn mà thiết tưởng chúng ta không thể không đặt ra để tự vấn lương tâm mỗi ngày: tôi có sống công bình, bác ái chưa? Tôi có yêu thương người anh em bên cạnh tôi chưa? Nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của người xung quanh tôi có phải là một tội không?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta ngày càng thấu hiểu và xác tín rằng sống đạo là sống yêu thương, rằng cốt lõi của Kitô giáo chính là tình thương.

16/01/2012 THỨ HAI TUẦN 2 TN
Mc 2,18-22
*****
ĐẠO ĐỨC VÌ AI?
Có người đến hỏi Đức Giê-su: “Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ?” (Mc 2,18-19)
Suy niệm: Việc ăn chay tự nó không hẳn là một việc đạo đức, vì người ta có thể có nhiều lý do để ăn chay. Có người ăn chay vì lý do sức khoẻ, như để chữa bệnh. Có người vì lý do thẩm mỹ: để giảm béo, chẳng hạn. Cũng có người ăn chay để tu luyện võ công, để rèn tập nhân cách... Chúa Giê-su nói khách dự tiệc ăn chay hay không chung qui cũng là vì chàng rể. Việc ăn chay chỉ là việc đạo đức khi người ta ăn chay: - để biểu lộ sự đồng cảm với Đức Ki-tô; - để diễn tả nỗi khao khát muốn gặp Ngài; - để dâng lời khẩn cầu tha thiết muốn được Chúa đáp lời. Nói rộng ra, không riêng gì việc ăn chay, các việc gọi là đạo đức khác chỉ trở thành việc đạo đức khi chúng ta làm vì Chúa, vì yêu Chúa. Và ngay cả những công việc đời thường của chúng ta cũng có thể biến thành việc đạo đức nếu chúng ta làm với ý thức vì yêu Chúa và để phục vụ Ngài.
Mời Bạn: Hoá ra việc nên thánh đâu có ở xa ngoài tầm tay của bạn. Chất liệu của một cuộc sống thánh thiện nằm ngay trong những công việc hằng ngày của bạn. Chỉ cần bạn làm cho chúng thấm đầy tình yêu Đức Ki-tô là đủ.
Chia sẻ: Bạn hãy đề ra một công việc chung để cùng nhau làm với ý thức giúp cả cộng đoàn nên thánh.
Sống Lời Chúa: Dành một phút cầu nguyện trước khi làm bất cứ việc gì.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin công việc con sắp làm đây. Xin Chúa giúp con hoàn thành việc này cách tốt đẹp vì yêu Chúa, và để phục vụ Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
1Sm 15, 16-23; Tin Mừng theo Thánh Mc 2, 18-22
LỜI SUY NIỆM: “Bấy giờ các môn đệ ông Gioan và các người Pha-ri-sêu đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giêsu: “Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay”. Đức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được. Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó. (Mc 2,18-20).
            Lời thắc mắc của người đến hỏi Chúa Giêsu về việc môn đệ của Chúa không ăn chay trong lúc những người khác ăn chay. Qua câu hỏi này Chúa Giêsu cho chúng ta biết, những ai đang có Chúa ở cùng, thì không cần phải ăn chay, vì đang được tràn đầy ân sủng của Ngài. Đang được kết hiệp cùng Ngài một cách khắn khít, đang tận hưởng hạnh phúc, một niềm vui lớn lao. Trong đời sống của mỗi con người có rất nhiều lý do chính đáng để ăn chay. Điều này đối với Chúa Giêsu, Ngài không hề chống đối. Nhưng khi xét mình, thấy thiếu vắng Chúa trong tâm hồn của mình, đó là lý do chúng ta phải ăn chay. Ăn chay để vượt thắng chính mình và tiếp tục được đón nhận ân sủng.
Mạnh Phương
++++++++++++++++
16 Tháng Giêng
Giấc Mơ Của Mẹ Têrêxa Calcutta

Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 và là người sáng lập viện của dòng Nữ Tử thừa sai Bác Aùi chuyên phục vụ người nghèo và hấp hối, đã kể lại ơn gọi phục vụ của Mẹ trong một lá thư viết từ Calcutta như sau:
"Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng. Ngài nói như sau: "Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng. Thiên Ðàng không có nơi cùng khổ".
Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: "Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng". 
Tội nghiệp thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ ấy, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho Ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên Ðàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ. 
Giai thoại trên đây của Mẹ Têrêxa Calcutta như muốn nói lên một chân lý: không ai nên Thánh một mình, không ai lên Thiên Ðàng một mình.
Ðức Cha Fulton Sheen, vị diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình tại Hoa Kỳ, đã có lần phát biểu như sau: "Không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Ðàng, nếu ở đó không có ai nói với chúng ta: chính tôi đã giúp đỡ để bạn được vào Thiên Ðàng".
Ai cũng có thể là một trợ giúp để đưa chúng ta vào cửa Thiên Ðàng. Họ có thể là những người cùng khổ mà chúng ta chìa tay để san sẻ, để giúp đỡ. Họ cũng có thể là những người cách này hay cách khác làm cho chúng ta đau khổ. Nhưng ưu tiên hơn cả vẫn là những người chúng ta cố gắng làm cho hạnh phúc. Chính những người đó là kẻ giúp đỡ chúng ta được vào Thiên Ðàng. Nhưng Thiên Ðàng không đợi chờ ở đời sau. Hạnh phúc cũng không chỉ dành lại cho đời sau: Thiên Ðàng và Hạnh Phúc có thể đến với chúng ta ngay từ cõi đời này. Và Thiên Ðàng và Hạnh Phúc ấy là gì nếu không phải là mỗi lần chúng ta cố gắng làm cho người khác được hạnh phúc.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai, Tuần II TN2
Bài đọc: Heb 5:1-10; I Sam 15:16-23; Mk 2:18-22.

1/ Bài đọc I :
1 Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.
2 Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; 3 mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. 4 Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi.
5 Cũng vậy, không phải Đức Ki-tô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, 6 như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
7 Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. 8 Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; 9 và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, 10 vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.

2/ Bài đọc I :
 16 Ông Sa-mu-en nói với vua Sa-un: "Thôi! Tôi sẽ báo cho ngài biết điều Đức Chúa đã phán với tôi đêm qua." Vua Sa-un bảo: "Xin ông cứ nói."
17 Ông Sa-mu-en nói: "Dù ngài tự coi mình là nhỏ bé, ngài chẳng phải là đầu của các chi tộc Ít-ra-en sao? Đức Chúa đã xức dầu phong ngài làm vua cai trị Ít-ra-en.
18 Đức Chúa đã sai ngài lên đường và phán: "Hãy đi, ngươi phải tru hiến quân tội lỗi là bọn A-ma-lếch ấy, và phải giao chiến với chúng cho đến khi tận diệt chúng. 19 Tại sao ngài đã không nghe theo tiếng Đức Chúa? Tại sao ngài đã xông vào lấy chiến lợi phẩm và làm điều dữ trái mắt Đức Chúa?" 20 Vua Sa-un nói với ông Sa-mu-en: "Tôi đã nghe theo tiếng Đức Chúa. Tôi đã đi theo con đường Đức Chúa sai tôi đi. Tôi đã đưa A-gác, vua A-ma-lếch, về và đã tru hiến A-ma-lếch. 21Trong số chiến lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru hiến, dân đã lấy những con tốt nhất để làm hy lễ dâng Đức Chúa, Thiên Chúa của ông, tại Ghin-gan."
22 Ông Sa-mu-en nói: "Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu. 23 Phản nghịch cũng có tội như bói toán, ngoan cố là tội ác giống như thờ ngẫu tượng. Bởi vì ngài đã gạt bỏ lời của Đức Chúa, nên Người đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua nữa."

3/ Phúc Âm:
18 Bấy giờ các môn đệ ông Gio-an và các người Pha-ri-sêu đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giê-su: "Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?"
19 Đức Giê-su trả lời: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được. 20 Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó.21 Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm.
22 Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!"

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải tuyệt đối vâng phục Thiên Chúa.

Xung đột giữa tư tưởng và ý thức hệ cũ và mới thường xảy ra ở mọi nơi và mọi thời như các chính thể, trong tôn giáo, cách cư xử. Ví dụ: Phong trào canh tân của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn vào đầu thế kỷ 20, điển hình trong tác phẩm Đoạn Tuyệt của Khái Hưng. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng phải đương đầu với người Do-thái khi Ngài mang những mặc khải mới của Thiên Chúa đến cho con người. Câu hỏi được đặt ra: Phải tuân theo điều nào?
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự xung đột giữa Thiên Chúa và con người, giữa cái cũ và cái mới. Trong mọi trường hợp, con người phải luôn vâng phục Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái dùng tiêu chuẩn cũ để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế mới có khả năng đem Thiên Chúa đến cho con người và đem con người về cho Thiên Chúa; vì Ngài vừa có kinh nghiệm của Thiên Chúa, vừa có kinh nghiệm của con người. Chính vì sự vâng phục tuyệt đối của Ngài vào Thiên Chúa, Ngài đã trở nên nguồn cứu độ cho tất cả những ai tùng phục Ngài.
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, Thiên Chúa sai Samuel đến để truất phế ngôi vua của Saul, vì nhà vua đã không tuân phục Thiên Chúa để tru diệt toàn bộ quân Amalek. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng câu hỏi của những người thuộc thời đại cũ để giúp họ nhận ra thời đại mới đã bắt đầu; họ cần có tâm hồn mới để lãnh nhận giáo lý mới của Ngài mang đến.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu là Thượng Tế thập toàn vì Ngài vâng phục Thiên Chúa.
Bản văn chúng ta nghiên cứu hôm nay, Heb 5:1-10, được tác giả sắp xếp theo cấu trúc hình nón, với chóp đỉnh là thượng tế Aaron của Cựu Ước. Mục đích của tác giả là chứng minh Chúa Giêsu là Thượng Tế thập toàn của Tân Ước. Để làm điều này, tác giả dùng một tam đoạn luận: trước tiên, tác giả liệt kê 3 đặc tính của chức thượng tế; sau đó, tác giả chứng minh Chúa Giêsu hội đủ 3 điều kiện này; cuối cùng, tác giả kết luận: “Thiên Chúa tôn xưng Chúa Giêsu là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedek.”
1.1/ Ba đặc tính của Thượng Tế:
(1) Thượng Tế đại diện cho con người: “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.”
(2) Thượng Tế phải cảm thông với con người: “Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy.”
(3) Thượng Tế phải được Thiên Chúa gọi: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aaron đã được gọi.”
1.2/ Chúa Giêsu là Thượng Tế:
(3) Chúa Giêsu được chọn làm Thượng Tế: “Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedek.”
(2) Chúa Giêsu cảm thông với con người: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.”
(1) Chúa Giêsu đại diện cho con người: “và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedek.”
1.3/ Đức Kitô vâng phục Thiên Chúa Cha cho đến chết: Để hiểu tầm quan trọng của việc vâng phục Thiên Chúa, chúng ta phải trở lại tội nguyên tổ. Chính vì sự bất tuân của ông Adong và bà Evà, nhân loại phải chịu mọi đau khổ và phải chết. Để cứu con người thoát khỏi những cực hình này, Đức Kitô hoàn toàn vâng phục và làm mọi sự theo thánh ý Thiên Chúa Cha. Có kinh nghiệm của Thiên Chúa, Ngài biết sự vâng phục Thiên Chúa quan trọng như thế nào. Con người không có kinh nghiệm này, nên họ đã khinh thường và bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Để được lãnh nhận ơn cứu độ, con người cũng phải tùng phục Đức Kitô, như Ngài đã vâng phục Thiên Chúa Cha.

2/ Bài đọc I : Vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu.
2.1/ Saul không vâng lời Thiên Chúa: Samuel được Đức Chúa sai tới để truyền lệnh cho vua Saul phải lên đường giao chiến với vua và quân đội của người Amalek. Lý do là vì cách họ đã đối xử và chặn đường con cái Israel khi từ Ai-cập đi lên; những gì Đức Chúa đã phán, Ngài sẽ thi hành. Lời của Đức Chúa truyền cho Saul qua ngôn-sứ Samuel rất rõ ràng: "Các ngươi phải tru hiến tất cả những gì thuộc về nó. Ngươi không được tha chết cho nó. Ngươi phải giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, từ bò đến chiên dê, từ lạc đà đến lừa" (I Sam 15:3).
Sau khi giao chiến và thắng trận, Saul đã không thực thi trọn vẹn lời Đức Chúa truyền, hai điều Saul đã bất tuân Thiên Chúa: (1) ông đã không tru diệt Agag, vua Amalek; và (2) ông đã để cho quân lính giữ lại những thú vật béo tốt. Việc làm của Saul không qua mặt được Đức Chúa; Ngài sai Samuel tới để hạch tội bất tuân của Saul: "Tại sao ngài đã không nghe theo tiếng Đức Chúa? Tại sao ngài đã xông vào lấy chiến lợi phẩm và làm điều dữ trái mắt Đức Chúa?"
Vua Saul nói với ông Samuel: "Tôi đã nghe theo tiếng Đức Chúa. Tôi đã đi theo con đường Đức Chúa sai tôi đi. Tôi đã đưa Agag, vua Amalek về và đã tru hiến Amalek. Trong số chiến lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru hiến, dân đã lấy những con tốt nhất để làm hy lễ dâng Đức Chúa, Thiên Chúa của ông, tại Gilgal." Vua Saul nghĩ mình làm như thế là đẹp lòng Thiên Chúa!
2.2/ Vâng lời Thiên Chúa trọng hơn mọi hy lễ: Ông Samuel nói: "Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu." Đây là điều quan trọng mà tác giả Sách Thánh Vịnh cũng như các ngôn sứ đã không ngừng lập đi lập lại để răn bảo dân chúng (x/c Psa 40:6, 51:16; Isa 1:10-17; Mic 6:5-8; Amo 5:21-24; Hos 6:6). Bất tuân lệnh Thiên Chúa được đồng hóa với những tội nặng như tội như bói toán và thờ ngẫu tượng.
Hậu quả của tội bất tuân là Saul bị Thiên Chúa truất quyền làm vua: "Bởi vì ngài đã gạt bỏ lời của Đức Chúa, nên Người đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua nữa."
Tuân theo mệnh lệnh của cấp trên là điều tối quan trọng trong quân đội để bảo vệ an ninh và trật tự. Nếu một người lãnh đạo không tuân theo luật lệ, họ sẽ không thể làm gương cho cấp dưới và không thể điều khiển binh lính dưới quyền mình. Hơn nữa, cấp dưới không luôn biết những nguy hiểm sẽ xảy ra; vì thế, họ cần tuyệt đối vâng theo lệnh của cấp trên. Nếu điều này đúng cho quân đội, nó càng khẩn thiết hơn cho mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa.

3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bảo vệ môn đệ của mình.
3.1/ Tại sao môn đệ Chúa Giêsu không ăn chay? “Bấy giờ các môn đệ ông Gioan và các người Pharisees đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giêsu: "Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?"
Giao thời giữa Cựu và Tân Ước là thời gian người Do-thái gia tăng việc chay tịnh và khổ chế, không những chỉ có trong những giáo phái, mà còn phổ thông trong dân như các việc đạo đức. Chay tịnh, cùng với cầu nguyện và làm phúc, được coi là ba trụ chính của đời sống đạo đức (Tob 12:8). Sách Judith coi chay tịnh là cách để xin ơn lành từ Thiên Chúa (Jdt 4:9). Lối sống chay tịnh và khổ chế của Gioan Tẩy Giả trong sa mạc là muốn đề cao lối sống đơn giản và sự tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa.
3.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu nhấn mạnh đến 2 điểm chính:
(1) Lý do ăn chay: Ăn chay phải có mục đích rõ ràng. Chúa cho biết lý do tại sao các môn đệ của Ngài chưa ăn chay: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.” Chúa Giêsu nhận Ngài chính là chàng rể, và khách dự tiệc cưới, bạn hữu của chàng rể là các môn đệ.
(2) Thời gian ăn chay: Chay tịnh có lúc của nó, không phải lúc nào cũng ăn chay. Chúa Giêsu cho biết khi nào các môn đệ của Ngài sẽ ăn chay: "Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó.”
3.3/ Phải có tâm hồn mới để lãnh nhận đạo lý mới: Chúa Giêsu là mốc thời gian để phân biệt giữa cái cũ và mới. Những người Pharisees và môn đệ của Gioan đại diện cho lớp người cũ, các môn đệ của Chúa Giêsu đại diện cho lớp người mới. Để có thể lãnh nhận những đạo lý mới được giảng dạy bởi Đức Kitô, một người cần có tâm hồn mới: rộng đủ để nhận ra những bất toàn của đạo lý cũ; đồng thời biết đón nhận những đạo lý mới để làm cho con người ngày càng toàn hảo hơn. Nếu không có tâm hồn mới, con người sẽ ngoan cố thủ cựu những điều cũ; đồng thời họ sẽ khước từ những giáo lý mới của Đức Kitô.
Để giúp họ nhận ra sự quan trong của một tâm hồn mới, Chúa Giêsu dùng 2 ví dụ rất quen thuộc với khán giả:
(1) Áo và miếng vá: “Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm.”
(2) Rượu và bầu da: “Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!"

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô là Thượng Tế mới của giao ước mới hoàn hảo hơn. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài để học hỏi những mặc khải mới của Thiên Chúa; và mời Ngài đồng hành với chúng ta.
- Vâng lời làm theo những lời dạy dỗ của Thiên Chúa và của Đức Kitô là điều tối quan trọng trong cuộc sống. Chúng ta đừng bao giờ bất tuân những mệnh lệnh của Thiên Chúa.
- Dĩ nhiên chúng ta không đón nhận tất cả các cái mới và lọai bỏ các cái cũ; nhưng biết dùng trí khôn để thích ứng với hoàn cảnh: giữ lại những gì tốt, thâu nhận những gì mới, và cải tiến để làm cho tốt hơn.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************

Suy nim:
Một trong những nét khác biệt giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu  
là sự khắc khổ nhiệm nhặt. 
Gioan được coi là người “không ăn bánh, không uống rượu” (Lc 7, 33). 
còn Đức Giêsu bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” với quân thu thuế (Lc 7, 34). 
Chúng ta đã từng thấy ngài ăn tại nhà ông Lêvi hay ông Dakêu. 
Các người Pharisêu cũng là những người thích ăn chay nhiều lần trong tuần, 
dù ngày ăn chay chính thức hàng năm của đạo Do-thái chỉ là ngày lễ Xá tội.
Như thế có sự khác biệt khá rõ giữa môn đệ của Đức Giêsu 
với môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của người Pharisêu. 
Một bên có vẻ thoáng và thoải mái, một bên thì khắc khổ nhiệm nhặt. 
Tại sao môn đệ của ông lại không ăn chay ?” 
Có người đã dám hỏi thẳng Đức Giêsu như thế. 
Ngài đã trả lời bằng một cách dùng một hình ảnh dễ hiểu và đầy ý nghĩa. 
Vào thời Đức Giêsu, tại Paléttin, cũng như tại nhiều vùng quê ngày nay, 
đám cưới là một biến cố mừng vui có tính làng xã. 
Chẳng thể nào hiểu được chuyện một người đi ăn cưới 
với khuôn mặt buồn của kẻ đang ăn chay.
Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, 
khi chàng rể còn ở với họ” 
Đức Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự tiệc cưới. 
Bầu khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu khí vui tươi của một lễ thành hôn 
bởi lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi. 
Đức Giêsu, Đấng Mêsia dân Ítraen mong đợi từ lâu, nay có mặt. 
Ngài là chàng rể kết duyên với cô dâu là dân tộc Ítraen của ngài. 
Đức Giêsu đã làm trọn điều các ngôn sứ nói trong Cựu Ước 
về việc Thiên Chúa lập hôn ước với dân của Người (Hs 2, 21-22; Is 62, 4-5).
Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay.” 
Sau khi Đức Giêsu chịu cái chết dữ dằn, được phục sinh và lên trời, 
Giáo hội bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chờ đợi ngài quang lâm. 
Trong giai đoạn này, khi Chúa Giêsu vừa vắng mặt, vừa hiện diện, 
Các Kitô hữu ăn chay, vác thánh giá theo Chúa Giêsu, 
dù họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu, 
các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét