Trang

Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

18-09-2012 : THỨ BA TUẦN XXIV MÙA THƯỜNG NIÊN


THỨ BA TUẦN XXIV THƯỜNG NIÊN

Bài Đọc Hằng Ngày
BÀI ĐỌC I: 1 Cr 12, 12-14. 27-31a

"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của chi thể".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, như thân xác là một, mà có nhiều chi thể, và tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể.
Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người theo phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các Tông đồ, thứ đến là các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là Tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư? Anh em hãy cần mẫn sao cho được những ân điển cao trọng hơn. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 99, 2. 3. 4. 5

Đáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
Xướng: 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan vơi lòng hân hoan khoái trá. - Đáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta và ta thuộc quyền sở hữu của Người. Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Đáp.
3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui; hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người. - Đáp.
4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn thế hệ. - Đáp.

ALLELUIA: Mt 11, 25

Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 7, 11-17

"Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Đừng khóc nữa". Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người". Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận. Đó là lời Chúa.


Thứ Ba tuần 24 thương niên
Sứ điệp:Trước cái chết của một thanh niên, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót và làm cho anh sống lại. Những người trẻ chết trong tội lỗi cũng đang cần đến lòng thương xót của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa nhìn thấy những nỗi đau khổ của chúng con, và Chúa cứu giúp chúng con ngay cả khi chúng con chưa kịp cầu xin với Chúa. Chúa hiểu được nỗi lòng của bà mẹ goá mất người con trai duy nhất. Bà đặt tất cả niềm hy vọng của đời mình nơi người con ấy. Đó là tất cả tương lai của bà, là niềm an ủi và hạnh phúc duy nhất của bà. Người con chết đi là người mẹ cũng mất tất cả. Khi Chúa cho thân xác người con sống lại cũng là lúc Chúa cho tâm hồn người mẹ phục sinh.
Lạy Chúa, xin Chúa nhìn đến bao linh hồn người trẻ đang nằm trong bóng tối sự chết, chết trong tội lỗi. Xin nhìn đến biết bao người mẹ đang than khóc và cũng đang chết đi vì con cái đã chết. Có những người con dù thân xác còn sống đó, nhưng linh hồn đã chết vì xa Chúa. Có những người con chết trong linh hồn, và cả thân xác cũng đang đi dần tới cái chết vì nghiện ngập chơi bời phóng túng.
Xin Chúa tỏ lòng thương xót chúng con. Xin Chúa biểu lộ quyền năng và ban ơn để các thanh niên thiếu nữ được sống lại, được trỗi dậy sống cuộc đời mới. Giới trẻ chúng con sống lại chính là tương lai của cha mẹ, của Hội Thánh và của đất nước được tươi sáng. Xin Chúa thương nhận lời các bà mẹ chúng con đang cầu nguyện trong nước mắt. Có những lúc dường như hết hy vọng, nhưng chúng con tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa. Chúa không bao giờ để chúng  con thất vọng bẽ bàng khi tin vào Chúa Phục Sinh. Amen.
Ghi nhớ : "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy".

18/09/12 THỨ BA TUẦN 24 TN
Lc 7,11-17

TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA

“Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.” (Lc 7,16)

Suy niệm: Trong khi bài Tin Mừng hôm qua (Lc 7,1-10) cho thấy phép lạ được thực hiện do lòng tin mạnh mẽ của viên đại đội trưởng vào Đức Giêsu, bài Tin Mừng hôm nay lại nhấn mạnh đến phép lạ được thực hiện do tình thương của Chúa. Trước cảnh bà góa đang đau đớn vì cái chết của đứa con trai duy nhất, “Chúa chạnh lòng thương,” cho anh sống lại và “trao anh ta cho bà mẹ.” “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” để đem sự sống cho dân mình, không chỉ sự sống lại của thân xác thể lý, nhưng cả sự sống thần thiêng của Thiên Chúa. Sự sống đời đời ấy không phải nơi thế giới bên kia, nhưng đã bắt đầu ngay hôm nay.

Mời Bạn: Để được cứu độ cần phải có lòng tin (Lc 7,1-10), nhưng ơn cứu độ cũng là một món quà cho không của Thiên Chúa (Lc 7,11-17). Như thánh nữ Mônica đã dùng lời cầu nguyện và nước mắt để xin Chúa ban cho con trai mình hoán cải, hôm nay bạn cũng được mời gọi dùng lời cầu nguyện và những hy sinh của mình để qua đó, Thiên Chúa thi thố tình thương của Người.

Sống Lời Chúa: Cùng cất cao lời ngợi ca Thiên Chúa: “Bởi vì Chúa nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín” (Tv 99,5).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong hành trình cuộc đời, Chúa luôn gọi mời chúng con tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Xin cho chúng con luôn nhận ra tình thương của Chúa qua những biến cố lớn nhỏ trong đời, và góp phần đem tình thương Chúa cho mọi người qua những hy sinh âm thầm của chúng con.



Thiên Chúa viếng thăm dân Người.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác, và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.

Suy nim:
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.
Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.
Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain.
Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.
Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.
Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.
Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,
và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.
Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,
dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.
Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.
Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.
Bà đã dự đám tang của người chồng.
Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.
Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.
Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.
Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.
Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.
Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).
Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.
Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),
Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).
Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:
Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).
Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết.
Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.
Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,
chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.
Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).
Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.
Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).
Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?
Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.
Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ,
khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).
Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),
Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,
và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy".
Ý nghĩa của cuộc sống
Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.
Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: "Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá". Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.
Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm "Buồn Nôn": "Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả".
Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin, can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


Người cho kẻ chết sống lại
Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”Rồi Người lại gần sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!” (Lc. 7, 12-14)
Trong bốn Tin Mừng, chỉ một mình Thánh Lu-ca kể lại câu chuyện cho thanh niên con bà góa thành Naim sống lại.
Hôm đó, hai đoàn người gặp nhau ở gần cổng Naim: một đoàn có vị dẫn đầu là Đấng ban sự sống và một đoàn tiễn đưa người chết. Người chết là một con trai duy nhất của một bà góa. Tình trạng càng đau khổ hơn nữa cho bà mẹ góa này không còn người đàn ông nào đứng ra bảo lãnh tài sản mình trước pháp luật và bảo vệ danh dự mình trong xã hội trọng nam khinh nữ đó. Đó là lý do đau khổ cùng cực của bà khiến cho đoàn người đông đảo đã cảm thương đến tiễn đưa con bà, như bản văn lưu ý tới.
Đức Giêsu đã xúc động và cảm thương nỗi đau buồn lớn lao này. Người là con Thiên Chúa thấy rõ những khốn cực của loài người, người là con người nên càng vô cùng nhạy bén trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của loài người. Nhiều trang Tin Mừng đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người dừng lại trước bà mẹ tuyệt vọng và thì thầm an ủi bà, với tấm lòng chân thành cảm thương nồng nàn qua giọng nói nghẹn ngào: “Bà đừng khóc nữa!”.
Rồi Người tiến về phía quan tài, sờ vào nó, Người kêu gọi với giọng nói lạ lùng: Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy! Người chết liền chỗi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ! một sự thật vô cùng kinh ngạc! không phải chỉ xảy ra lúc này mà còn cho đến tận cùng lịch sử loài người, mãi mãi Đức Kitô còn cho người ta sống lại, mãi mãi sứ điệp sự thật về phục sinh vẫn còn tiếp tục cho loài người. Đức Kitô, nhờ sự sống lại của Người đã mặc khải một sự sống phục sinh muôn đời: Một sự sống không bao giờ phải chết nữa, một sự sống hoàn toàn mới, vượt trên mọi xác phàm trần gian.
“Đức Giêsu đã trao anh ta cho bà mẹ”, Thánh Lu-ca đã đặc biệt chú thích thêm, để nhấn mạnh đến vai trò các phụ nữ trong thế giới đã liệng bỏ phụ nữ vào bóng tối không còn đếm xỉa gì đến công lao của họ. Người ta có thể đoán rằng chính lúc đó, Đức Giêsu đã tha thiết nghĩ đến Mẹ Người biết chừng nào! quyền năng và tâm tình tế nhị cảm thương đi đôi với nhau khi các Ngài bởi Thiên Chúa đến với nhân loại.

www.gplongxuyen.net

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 9
18 THÁNG CHÍN
Niềm Hy Vọng Vinh Quang
Trong sứ vụ cứu rỗi phổ quát của mình, Hội Thánh không ngừng được Thánh Thần của Chúa Phục Sinh thúc đẩy. Hội Thánh thiết tha mong muốn đưa dẫn mọi người đến niềm hạnh phúc trên trời – hạnh phúc mà các thánh đang vui hưởng. Trong thành đô trên trời ấy, các thánh thi hành phần vụ của mình là cầu bầu cho Hội Thánh lữ hành dưới đất. Về phần mình, Hội Thánh hướng nhìn với đôi mắt đức tin về Giêrusalem trên trời và tìm thấy nơi đó ánh sáng và hy vọng mà Hội Thánh cần trong hành trình tiến tới và chia sẻ con đường cứu rỗi và nên thánh với thế giới này.
Bởi đó, Hội Thánh giữa lòng thế giới dẫn dắt nhân loại tiến tới đền thờ vĩnh cửu trong Thành Thánh muôn đời, như ta đọc thấy trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan. “Tôi không thấy đền thờ nào trong thành, vì đền thờ của thành chính là Đức Chúa toàn năng và là Con Chiên” (Kh 21,22).
Thành Giêrusalem thiên quốc – khác với Hội Thánh dưới thế này – hoàn toàn tinh tuyền và thánh thiện. Thành ấy được thánh hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa. Trong Thành đó không có một chút gì phàm tục cần phải tách ra khỏi những sự thánh thiêng của Thiên Chúa. Trong Thành đó không có đền thờ, bởi vì không cần phải có một hình thức hiện diện trung gian. Không, mọi sự trên trời đều biểu hiện vẻ rạng ngời của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nói cách khác, Thiên Chúa hiện diện một cách vĩnh hằng trong đền thờ là trong chính mọi sự mọi người trên thiên quốc.
Thiên Chúa cũng thực sự hiện diện nơi Hội Thánh dưới đất này. Nhưng Ngài hiện diện một cách giấu ẩn trong đức tin kiên định và đức cậy dạt dào của dân Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta không nhìn thấy vinh quang của Đức Kitô rõ ràng như Hội Thánh trên trời, nhưng chúng ta khắc khoải chờ mong cuộc quang lâm của Đức Kitô và sự sống lại của những người đã chết. Bấy giờ, Hội Thánh sẽ hoàn toàn hiệp nhất trên trời với Đức Kitô.
Ôi tuyệt diệu! Đấy sẽ là Hội Thánh trong vinh quang sung mãn của mình. Đấy sẽ là Hội Thánh như Thánh Gioan đã thị kiến trong Sách Khải Huyền.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 18-9
1Cr 12, 12-14.27-31a; Lc 7, 11-17.
LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện Chúa Giêsu cho người thanh niên độc nhất của một bà góa thành Nain sống lại. Cho chúng ta thấy Chúa Giêsu khi đứng trước nỗi đau tột cùng của một con người, Chúa đã động lòng thương, mặc dù bà góa này không cầu xin, nhưng đối với Chúa, Chúa thấy rõ tận căn của đau thương của bà góa có con trai độc nhất chết. Từ động lòng thương này của Chúa; Chúa đã lấy quyền năng của Ngài để cho người thanh niên sống lại và trao lại cho bà góa. Bởi Ngài là sự sống và sự sống lại. Trong cuộc đời của mỗi chúng ta phải làm sao để Chúa động lòng thương và để cho Chúa thể hiện lòng thương của Ngài trên mỗi chúng ta.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
18 Tháng Chín
Những Giọt Nước Mắt Của Sám Hối
Người Hồi Giáo thường nói đến ý nghĩa và giá trị của lòng sám hối qua câu chuyện tưởng tượng như sau:
Một hôm Allah, Ðấng Khôn Ngoan, truyền cho một sứ thần xuống trần gian để tìm cho được điều tốt đẹp nhất và mang về Thiên quốc.
Vị sứ thần đáp ngay xuống một trận chiến nơi máu của những vị anh hùng đang chảy lai láng. Vị sứ thần thu nhặt một ít máu và mang về trình cho Ðấng Allah. Nhưng Ðấng Allah xem ra không hài lòng mấy. Ngài nói: "Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất dưới trần gian".
Vị sứ thần đành phải giáng trần một lần nữa. Lần này, ngài gặp ngay một đám tang của một người giàu có, nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi đằng sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc, vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị ân nhân. Vị sứ thần bèn thu nhặt hương thơm ngào ngạt và mang về trời. Lần này, Ðấng Allah mỉm cười đón lấy mùi thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: "Dĩ nhiên, lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng ta nghĩ rằng còn có một cái gì khác tốt đẹp hơn".
Lại một lần nữa, vị sứ thần đành phải vâng lệnh Allah để trở lại trần gian. Phải mất một thời gian lâu, sau khi đã đi rảo khắp bốn phương, vị sứ thần mới tìm được điều mong mỏi. Một buổi chiều nọ, ngồi nghỉ mệt bên vệ đường, ngài bỗng thấy một người đàn ông bên cạnh khóc sướt mướt. Vị sứ thần được người đàn ông giải thích như sau: "Tô đã chiều theo cơn cám dỗ để phạm tội... Giờ đây, nước mắt là cơm bữa hằng ngày của tôi". Vị sứ thần bèn đưa tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và vội vã bay về trời. Ðấng Allah nhìn thật lâu vào những giọt nước mắt và mỉm cười nói với vị sứ thần:
"Thế là người đã hoàn thành tốt sứ mệnh. Quả thật dưới trần gian, không có gì đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, người đã thấy đó, trước khi vui mừng, ta đã nhìn thật kỹ xuyên qua những giọt nước mắt. Một lòng sám hối giả dối không có ích lợi gì cả. Một sự sám hối thành thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân của Tình Yêu".
Trong Tin Mừng theo thánh Luca ở đoạn 15 câu 7, Chúa Giêsu đã nói: "Trên trời sẽ vui mừng gấp bội khi có một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công chính không ăn năn hối cải".
Vinh quang của Thiên Chúa, niềm vui của Thiên Chúa chính là con người được sống. Và sự sung mãn, sự sống đích thực chính là ân sủng, là sự sống của Thiên Chúa trong tâm hồn con người. Sự sống ấy chỉ có thể đến trong tâm hồn con người, nếu con người biết mở rộng cửa tâm hồn để đón nhận Thiên Chúa... Những giọt nước mắt sám hối chính là sức đẩy để mở tung cánh cửa tâm hồn vậy.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++


Ngày 18


Giáo hội là ngôi nhà của Chúa Ki tô, nơi quy tụ mọi tâm hồn kitô hữu. Mọi người đều có thể bước vào ngôi nhà này và cảm nhận rất riêng tư, sự kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu của Tin Mừng cách thầm lặng. Mọi người, bất kể mọi trình độ, mọi sai lỗi trong quá khứ, mọi bí mật tự bên trong, hãy dám tiếp cận Đức Kitô, như một tội nhân trong nhà của Simon người Pharisiêu. Mọi người có thể van xin với Ngài như người mù thành Giêricô:

"Lạy Thiên Chúa, xin cho con được thấy!" (Lc 18, 41).
Khi một người trung thành đề nghị bạn phải làm điều gì đó để tìm ra Sự Thật, có lẽ ngay cả trước khi giải thích cho người đó về giáo lý và những mẩu nhiệm Kitô giáo, thì bạn đang đẩy người đó vào giữa đám đông các tín hữu, nơi người ấy cảm thấy xa lạ và nơi Giáo Hội đã xuất hiện với anh ta như một cộng đổng của mọi người, Giáo Hội đề nghị anh ta dành nhiều thời gian nghỉ ngơi yên tĩnh để đến với Tin Mừng. Rổi sau đó anh ta có thể hiểu rằng sự hiện diện thực sự là lý do cho sự vĩnh cửu của Giáo Hội trong không gian và thời gian cho đến muôn đời.

Hồng y Charles Journet

Hạnh Các Thánh


Ngày 18 tháng 9
THÁNH GIUSE COPERTINÔ

Thánh nhân sinh ngày 17 tháng 6 năm 1603 tại Copertinô, thuộc Napôli, trong một gia đình nghèo khó chuyên nghề thợ mộc như gia đình Nazarét xưa. Nhưng Giuse lại lấy làm sung sướng được sống trong cảnh thanh bần ấy. Vì hoàn cảnh gia đình, lại bị các chủ nợ, những tay cường hào gian ác, cậy quyền ỷ thế đã tịch thu và phân tán tất cả gia sản, cha mẹ Giuse không còn chốn che mưa trú nắng, nên phải trú ngụ trong chuồng bò. Chính Giuse cũng sinh ra trong cảnh tồi tàn của chuồng bò ấy. Yên vui trong cảnh thanh bần, cha mẹ Giuse đã hiến dâng con cho thánh Phanxicô nghèo để cậy nhờ thánh nhân phù trợ trên đường đời. Thân mẫu Giuse một bà mẹ gương mẫu với một đức tin mạnh mẽ, hằng lo lắng cho con nên người và nhất là dạy dỗ cho con biết mến Chúa yêu người tha thiết. Vì ảnh hưởng tốt lành, Giuse lớn lên trong một khung cảnh thanh bình đạo hạnh, say mê việc đạo đức, chăm lo nguyện ngắm, mộ mến lần hạt Mân côi.
Tuy nhiên, vì thiếu ăn thiếu mặc, Giuse đã phải sống trong đau khổ của bệnh tật, khắp thân thể cậu đầy những mụn nhọt tanh hôi, khiến cho mọi người phải kinh tởm và tránh xa. Sau một thời gian khá lâu mang bệnh, chịu trăm điều khổ nhục đau đớn, một hôm Giuse được ơn lạ, các bệnh bỗng dưng biến hết. Biết là ơn đặc biệt của Chúa ban, Giuse từ đó nhất tâm tận hiến cuộc đời cho Chúa. Giuse hâm mộ việc truyện vãn với Chúa trong nhà chầu, nên người ta thường thấy suốt ngày ngài vào nhà thờ cầu nguyện mà không biết mệt mỏi chán ngán. Thêm vào đó, ngài vẫn hãm mình phạt xác đủ cách, của ăn là trái cây, bánh khô, và rau cỏ. Nhiều ngày ngài còn không ăn uống, khiến nhiều người đã lên tiếng trách ngài, nhưng ngài chỉ tươi cười đáp lại: “Tôi quên mất đấy”.
Sau nhiều ngày sống khắc khổ như thế, Giuse đến gõ cửa tu viện “Anh em Hèn Mọn” xin vào tu thân để lo việc phụng sự Chúa hơn. Nhưng Giuse đã bị từ chối vì trí khôn kém cỏi dốt nát, nhất nữa lại không biết đọc biết viết. Không thất vọng, Giuse tìm đến một tu viện khác. Nơi đây ngài được bề trên nhận vào bậc trợ sĩ, và đến tháng 8 năm 1620 thì được mặc áo dòng. Sống trong dòng 9 tháng, Giuse quá say mê với việc chầu thánh thể nên đôi khi bê trễ việc bổn phận hằng ngày. Chúa lại thêm thánh giá cho Giuse. Sau nhiều ngày cố gắng để đi đúng đường lối của nhà dòng nhưng không kết quả, ngài đã bị bề trên sa thải. Giuse tìm đến hết dòng này tới dòng khác, nhưng đều bị từ chối. Cuối cùng ngài đành phải trở về Côpertinô. Lúc này, Giuse mồ côi cha, sống vất vưởng với người mẹ trong cảnh nheo nhóc lầm than. Gặp những hoàn cảnh đau thương ấy, Giuse vẫn kiên nhẫn chịu đựng không chút than vãn ngã lòng. Một lần nữa ngài lại đến gõ cửa một tu viện để xin tu.
Các bề trên thấy nơi Giuse có một đức khiêm tốn lạ thường, vâng lời tuyệt đối, liền nhận ngài vào nhà tập, rồi cho ngài học hành để có thể tiến tới chức linh mục. Giuse đã phải đương đầu với biết bao khó khăn tủi nhục, để rồi ngày 04 tháng 3 năm 1628, ngài hân hoan bước lên bàn thánh dâng thánh lễ tạ ơn lòng lân tuất Chúa đã thương kêu gọi một người đã bị thế gian bạc đãi lên chức linh mục.
Sau khi được diễm phúc nhận Chúa làm gia nghiệp đời đời, cha Giuse không còn thuộc về thế gian nữa, ngày đêm cha chỉ tưởng nhớ đến quê trời. Vì thế cha không còn nghĩ gì đến tấm thân hèn hạ của mình. Suốt mười lăm năm trường, cha chỉ ăn quả khô và rau sống, và chỉ xin Mình Máu Chúa làm của nuôi bổ dưỡng xác hồn để ngày đêm chiêm ngắm Chúa mà thôi.
Muốn sống kết hợp hoàn toàn với Chúa, cha Giuse không muốn cho một ai nhắc đến tên mình nữa, nhưng danh thơm tiếng tốt của ngài vẫn tràn lan khắp xứ, khiến giáo dân lũ lượt kéo đến xin ngài cầu nguyện và chúc lành cho. Họ còn thi nhau xin những đồ vật như áo xống của ngài để giữ làm kỷ niệm.
Thấy đời sống của ngài có thể thu hút được nhiều linh hồn, bề trên liền truyền cho cha Giuse phải đi kinh lý các tu viện thuộc tỉnh Đông và lưu lại mỗi nơi bốn ngày để khuyên nhủ các thầy. Trong cuộc kinh lý của ngài, dân chúng nơi nơi được hưởng nhờ nhiều nhân đức và phép lạ ngài làm, nên họ đã hết lòng mến yêu và ca tụng ngài như một vị thánh sống mà Chúa đã sai đến để thi ân giáng phúc cho họ vậy.
Vì hãm mình phạt xác nhiều quá, sức lực ngài hao mòn tiều tụy. Ngày 10 tháng 8 năm 1663, cha bị một cơn sốt hoành hành, trong cơn sốt ấy cha linh cảm thấy ngài lìa cõi trần để về an nghỉ trong Chúa trên chốn trường sinh. Và ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, vì quá kiệt sức sau khi cử hành thánh lễ cuối cùng, cha Giuse tưởng rằng đã đến lúc gửi tấm thân nhỏ hèn lại thế gian để về sống với gia đình các thánh trên thiên quốc. Nhưng Chúa còn muốn cho ngài chịu khó thêm để làm ơn làm phúc cho những linh hồn nguội lạnh, nên cha Giuse cứ sống trong hôn mê hàng tháng trời trên giường bệnh. Ngày 17 tháng 9, linh mục đem của ăn đàng đến cho cha, cha không còn nói năng được nữa, chỉ dùng mấy cử điệu để làm hiệu. Khi nghe thấy chuông báo đưa Mình Thánh đến, ngài như được sức mạnh, liền chỗi dậy khỏi giường, quỳ xuống như một người lành mạnh. Sau đó, ngài cầm ảnh chuộc tội trong tay, bước ra cửa phòng đón nhận Mình Thánh Chúa. Lúc ấy mặt cha toả sáng như có hào quang, sau khi chịu Mình Thánh Chúa, cơn bệnh lại càng tăng thêm rất mạnh và hôm sau ngài đã thở hơi cuối cùng, từ giã cõi trần để về thiên quốc. Năm đó ngài vừa chẵn 60 tuổi. Xác thánh ngài được mai táng trong nhà nguyện của tu viện.
Đức Giáo Hoàng Clêmentê XIII đã tôn phong cha Giuse lên bậc hiển thánh ngày 16 tháng 7 năm 1767, tức là 100 năm sau khi ngài qua đời, và Đức Clêmentê XIV đã truyền cho khắp Giáo hội mừng lễ kính ngài vào ngày 18 tháng 9 hằng năm.
Ðaminh Trạch (Ðoài) (1792-1840)
Thánh Đa minh Trạch.

Ðaminh Trạch (Ðoài), linh mục, Dòng Ba Ða Minh; sinh năm 1792 tại Ngoại Bồi, Nam Ðịnh; chết 18 tháng 9 năm 1840, tại Bảy Mẫu. Thánh Trạch, môt linh mục bản xứ Ða Minh 49 tuổi, đã hoạt động để rao giảng Phúc Âm cho dân chúng cho đến khi bị bắt. Năm sau, ngài được phép lựa chọn là được sống hay chết vì chối đạo. Ngài thú thật là có đạo và khuyến khích các bạn hữu trước khi bị xử trảm. Phong Á Thánh 1900. Lễ kính ngày 18 tháng 09.
Cậu Ða Minh Trạch chào đời năm 1793 tại họ Ngoại Vối, tỉnh Nam Ðịnh. Cậu vào ở với cha xứ từ thuở bé. Trong thời vua Gia Long, cậu được học đầy đủ chương trình ở chủng viện và thụ phong linh mục năm 30 tuổi. Năm sau, cha xin vào Dòng Ða Minh và tuyên khấn ngày 3-6-1825.
Những người làm chứng trong hồ sơ phong thánh ca tụng cha Trạch sống nghiêm ngặt và hết lòng tuân giữ kỷ luật dòng. Tuy mang trong mình chứng bệnh lao phổi nan y, cha vẫn giữ đủ luật ăn chay hãm mình và chu toàn mọi công tác. Cha coi xứ Quần Cống, sau đó là Viên Ðông, rồi về Lục Thủy để dưỡng bệnh và kiêm nhiệm việc linh hướng cho các chủng sinh.
Năm 1839, cha bị bắt ở Ngọc Cục, nhưng dân làng đã chuộc cha về. Ngày 11-4-1840, khi cha lên Ngưỡng Nhân để thăm hai linh mục Vinh và Thản, bị quân lính phát hiện và bị bắt ở Sa Châu, sau đó quân lính giải cha về Xuân Trường, rồi về Nam Ðịnh.
Trong tù, mặc dù kiệt sức vì mắc bệnh, cha vẫn cố gắng an ủi khuyên nhủ các giáo hữu và giải tội cho họ, đặc biệt cha đã cảm hóa được thầy Tô-ma Toán, người đã chối đạo.
Ra tòa lần nào cha cũng bị vặn hỏi về linh mục Héc-mô-xi-la Vọng Dòng Ða Minh, vị Thừa sai Tây Ban Nha mà quan tưởng là người cuối cùng chưa bị bắt. Quan còn hứa trả tự do nếu cha chịu bước qua thập giá và đe dọa : "Hãy nhìn cây thập giá kia, một là bước qua hai là chết." Cha Ða Minh Trạch không trả lời ngay, tự động quỳ xuống hôn kính thánh giá rồi quay về phiá quan và nói : "Thưa quan, thánh giá là giường Chúa Ki-tô nằm chết thay cho nhân loại, nếu quan muốn sự sống đời đời, xin quan kính lạy thánh giá này. Tôi thà bị chết chớ không bước qua thánh giá."
Nghe vậy, quan tổng đốc nổi giận tát vào mặt nhà giảng thuyết, rồi đấm đá túi bụi. Quan bắt lính cầm hai đầu gông khiêng cha qua thánh giá, nhưng cha co chân lên mặc cho quân lính đánh đập tàn nhẫn. Vừa mỏi mệt thất vọng, vừa phẫn nộ điên cuồng, các quan đồng thanh kết án xử trảm cha. Ngày 18-9-1840, bản án được vua Minh Mạng châu phê ra tới Nam Ðịnh và được thi hành ngay tức khắc.
Ðến nơi xử, lính tháo gông cho cha. Sau một phút cầu nguyện, cha Trạch đưa đầu lãnh nhát gươm tử đạo tiến về Nước Hằng Sống. Thi thể cha được an táng tại chỗ, năm sau, các tín hữu cải về nhà chung Lục Thủy.
Ngày 27-5-1900, đức giáo hoàng Lê-ô XIII suy tôn cha Ða Minh Trạch lên bậc chân phước. Ngày 19-6-1988, đức giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nâng người lên bậc hiển thánh.
Lời nguyện: Lạy chúa, Chúa đã tưới gội quê hương Việt Nam chúng con bằng máu của thánh Ða Minh Trạch. Nhờ sự chuyển cầu của người, xin cho hạt giống đức tin và sự nhận biết Chúa Ki-tô luôn được triển nở mạnh mẽ trên quê hương chúng con. Chúng con cầu xin
Nguồn từ Đa Minh

Trường Thi Tử Đạo

Ðaminh Trạch sinh năm Quý Sửu (1793)
Thuộc Thành Nam giáo hữu Ngoại Bồi
Sách đèn kinh sử luyện truôi
Chương trình chủng viện thông xuôi rõ ràng

Rồi sau đó chuyển sang thần học
Ðại chủng sinh cắt tóc tu trì
Thụ phong Linh mục hướng đi
Tông đồ phục vụ thực thi khấn dòng

Sống nhiệm nhặt nằm trong kỷ luật
Mang trong mình bệnh tật nan y
Ăn chay giữ luật khắc ghi
Chu toàn trách nhiệm rất thì hăng say

Coi Quần Cống sau này Lạc Thủy
Cha về đây để nghỉ dưỡng hưu
Chủng sinh linh hướng dắt dìu
Ngài kiêm cố vấn tham mưu cộng đoàn

Cha bị bắt khi sang Ngọc Cục
Nhưng giáo dân thủ tục chuộc ra
Hai trăm quan một món quà
Quân quan bỏ túi dân đà khổ đau

Cha ở trọ nhà sau ông Thiện
Và ông Trùm Bảo tiện ngay bên
Làng Trà Lũ chẳng thể quên
Ngài đi thăm viếng làng trên đường ngoài

Ðể gặp gỡ hai ngài Linh mục
Cha Thản, Vinh cầu chúc cho nhau
Tới Ngưỡng Nhân, chúng theo sau
Vây nhà chúng bắt hùa nhau đuổi ngài

Cha Thản, Vinh không ai bị bắt
Riêng Cha Trạch trục trặc yếu chân
Lính vây phút chốc lại gần
Bắt Cha dẫn giải quan quân Xuân Trường

Bị tra tấn công đường của huyện
Sau giải đi trình diện Quang Khanh
Nơi đây ngục thất đã dành
Tống giam đạo trưởng lính canh đêm ngày

Cha Trạch bị đưa ngay vào ngục
Ngài mừng vui tiếp tục ủi an
Cho tín hữu cả quân gian
Nhủ khuyên thống hối theo đàng Kitô

Quang Khanh biết nhốt vô riêng biệt
Trong cầu tiêu cho kiệt sức đi
Trăm roi cho đánh mỗi kỳ
Bước qua Thánh Giá ta thì tha ngay

Cha không nói chắp tay quỳ gối
Hôn Thánh Giá thống hối nguyện rằng
Ðây là giường Chúa toàn năng
Hy sinh chuộc tội vĩnh hằng vinh quang

Bẩm quan tôi sẵn sàng chịu chết
Trịnh Quang Khanh mất hết lương tri
Chửi thề thóa mạ tức thì
Giao cho quân lính dẫn đi hành hình

Lãnh bản án Triều Ðình Minh Mạng
Ngài bước đi biệt tạm ba Cha
Ðể tôi đi trước đó mà
Pháp Trường Bảy Mẫu bước ra nguyện cầu

Cha Trạch ngài cúi đầu nhận lãnh
Nhát gươm thiêng máu Thánh tuôn trào
Hồng ân Thiên Chúa ban trao
Chứng nhân trung tín máu đào hiến dâng

Và thi thể Thánh Nhân an táng
Ngay tại nơi máu láng pháp trường
Năm sau giáo hữu mến thương
Rước về Lạc Thủy nghĩa đường nhà chung

Phúc tử đạo ung dung Canh Tý (1840)
Sáu mươi năm sắc chỉ Giáo Hoàng (Lêô XIII)
Từ Roma được gởi sang
Suy tôn Canh Tý (1900) Thiên đàng dành cho

Lời bất hủ: Quan hứa sẽ trả tự do nếu cha bước qua Thanh giá. Cha Ðaminh Trạch không trả lời ngay, tự động quỳ xuống hôn kính Thánh giá rồi quay về phía quan và nói: "Thưa quan, Thánh giá là giường Chúa Kitô nằm chết thay cho nhân loại, nếu quan muốn sự sống đời đời, xin quan kính lạy Thánh giá này. Tôi thà bị chết chứ không bước qua Thánh giá".

Thứ Ba 18-9

Thánh Giuse Cupertino

(1603-1663)
T
hánh Giuse là người nổi tiếng bay bổng khi cầu nguyện.
Ngay từ lúc nhỏ, Giuse đã ưa thích cầu nguyện. Sau một thời gian sống với các tu sĩ dòng Capuchin, ngài gia nhập dòng Conventual (một nhánh của dòng Phanxicô). Sau một thời gian ngắn trông coi lừa cho nhà dòng, Giuse được đi học để làm linh mục. Mặc dù việc học đối với ngài thật khó khăn, nhưng Giuse đã hiểu biết nhiều qua sự cầu nguyện. Ngài được thụ phong linh mục năm 1628.
Việc bay bổng khi cầu nguyện của Thánh Giuse đôi khi là thập giá cho ngài, vì nhiều người đến xem lễ như đi xem xiệc. Tuy được ơn sủng đặc biệt này nhưng ngài thật khiêm tốn, kiên nhẫn và vâng phục, dù có nhiều khi bị thử thách nặng nề và cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ quên. Suốt cuộc đời, ngài ăn chay và đeo một giây xích sắt trong người.
Nhà dòng thuyên chuyển thánh nhân đến nhiều nơi vì ích lợi cho ngài cũng như cho toàn thể cộng đoàn. Ngài bị báo cáo lên Tòa Thẩm Tra và bị điều tra, nhưng cơ quan này không kết tội ngài.
Thánh Giuse Cupertino được phong thánh năm 1767. Trong cuộc điều tra để lập hồ sơ phong thánh, người ta ghi nhận có đến 70 lần ngài bay bổng.

Lời Bàn

Trong khi việc bay bổng là dấu hiệu bất thường của sự thánh thiện, Thánh Giuse cũng được người đời nhớ đến qua những dấu chỉ bình thường của ngài. Ngài cầu nguyện khi tâm hồn tăm tối, và ngài sống theo Tám Mối Phúc Thật. Ngài dùng "vật sở hữu độc đáo" là ý chí tự do của ngài để ca ngợi Thiên Chúa và phục vụ các tạo vật của Người.

Lời Trích

"Hiển nhiên điều mà Thiên Chúa mong muốn trên tất cả mọi sự là ý chí mà chúng ta được tự do lãnh nhận qua sự tạo dựng của Thiên Chúa, và chiếm hữu như của riêng mình. Khi một người tự rèn luyện sống theo các nhân đức, và đạt được điều đó là nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, Ðấng phát sinh mọi điều thiện hảo. Ý chí là điều mà con người có được như một sở hữu độc đáo" (Thánh Giuse Cupertino, trích từ bài đọc ngày lễ kính trong sách nhật tụng của dòng Phanxicô).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét