Trang

Thứ Tư, 19 tháng 9, 2012

20-09-2012 : THỨ NĂM TUẦN XXIV MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Năm sau Chúa Nhật 24 Quanh Năm
Lc 7,36-50

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 15, 1-11
"Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không, anh em đã tin cách vô ích. Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như đứa con sinh non.
Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các đấng: song không phải tôi, mà là ơn của Thiên Chúa ở với tôi. Dù tôi, dù là các đấng, chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 28
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm (c. 1a).
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 7, 36-50
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
"Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng".
Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".
Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Người phụ nữ trong Tin Mừng tuy có tội nặng hơn mọi người, nhưng chị biết lỗi và tin vào Ðức Giêsu. Chị bất chấp cái nhìn khinh miệt của mọi người để tìm đến với Ðức Giêsu. Trước niềm tin mạnh mẽ và tình yêu mến chân thành, dù tội chị rất nhiều, nhưng chị đã được tha tất cả. Như vậy niềm tin và lòng yêu mến là điều kiện cần thiết để chúng ta được ơn tha thứ và cứu độ.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Thánh Thần, xin soi sáng tâm hồn mỗi người chúng con. Ðể chúng con biết nhận ra con người tội lỗi của mình mà ăn năn hối cải. Xin cho chúng con luôn đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa là Ðấng bao dung và luôn yêu thương. Dù tội của chúng con có thẫm như vải điều, Thiên Chúa vẫn làm cho trắng tinh như tuyết. Chúng con không bao giờ phải lo sợ và thất vọng. Amen.


(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Lòng Sám Hối
(Lc 7,36-50)
Suy Niệm:
Lòng Sám Hối
Tin Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên tòa này không có luật sư biện hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quí giá nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Ngài đến là để khơi dậy lòng sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội nhân với Thiên Chúa. Cái chết của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của nhà cách mạng hay chính trị gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: "Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều". Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Lịch sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có lẽ không ai ý thức được hành động phản bội của mình cho bằng Yuđa, nhưng ý thức ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã biến thành tình yêu thương; Phêrô đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa".
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương.
Nguyện xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người bằng cảm thông, tha thứ, và những thể hiện của bác ái.

(Veritas Asia)

Thứ Năm tuần 24 thường niên
Sứ điệp:Thái độ ăn năn thống hối thực lòng của người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa thương xót. Ai tin tưởng vào tình yêu Chúa, sẽ được cứu độ và được bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Đấng hiền từ và hay thương xót, tấm lòng bao dung của Chúa là nơi nương tựa cho con là kẻ tội lỗi. Nhờ lòng thương xót của Chúa, một người dù tội lỗi đến đâu, cũng vẫn có cơ may làm lại cuộc đời. Bởi lẽ, Chúa không đánh giá chúng con theo vẻ bên ngoài hoặc dựa vào công nghiệp của chúng con. Trái lại, Chúa xét xử con người theo những tâm tình, suy tưởng sâu kín trong lòng, Chúa thấu suốt tâm tình sám hối chân thành phát xuất từ lòng yêu mến.
Phủ phục dưới chân Chúa, người phụ nữ tội lỗi không nói gì mà chỉ biết khóc. Chị khóc cho tội lỗi của mình, những giọt nước mắt của lòng sám hối ăn năn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy được sự nặng nề của tội con đã xúc phạm đến tình yêu Chúa. Xin cho con được lòng yêu Chúa để biết khóc tội lỗi mình. Xin đừng để lòng con chai đá, nhưng giúp  con biết chân thành sám hối.
Lạy Chúa, Chúa đã tha, đang tha, và mãi mãi tha hết những lỗi lầm con xúc phạm đến Chúa. Chúa yêu con vô bờ. Xin cho con luôn tin tưởng vững vàng và cậy trông vào Chúa, cho con biết siêng năng đến với Chúa nơi bí tích Hòa Giải, để con được giao hoà lại với Chúa và anh em. Chỉ có Chúa mới có thể làm cho con được tái sinh và có sức mạnh đổi mới đời sống. Chỉ trong Chúa con mới tìm lại được bình an và được sống trong tình yêu. Con được tha nhiều, con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn. Amen.
Ghi nhớ : "Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".

20/09/12 THỨ NĂM TUẦN 24 TN
Th. Anrê Kim, Phaolô Chung và các bạn tử đạo 
Lc 7,36-50

YÊU NHIỀU, ĐƯỢC THA NHIỀU

“Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.” (Lc 7,47)

Suy niệm: Tòa án của loài người thường cân lường tội trạng của tội nhân để tìm ra hình phạt cân xứng. Thiên Chúa không áp dụng cán cân như thế với tội lỗi chúng ta. Vì chưng, Ngài có một trái tim vô cùng nhân hậu. Ngài yêu thương và tha thứ tất cả tội lỗi của chúng ta, chỉ cần ta yêu mến Ngài. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu hoàn toàn tha thứ cho người phụ nữ tội lỗi nổi tiếng cấp thành phố vì chị yêu mến Chúa nhiều. Tình yêu của chị dành cho Chúa mạnh đến nỗi chị sẵn sàng làm tất cả dù phải "mất mặt" hay "mất của," vì chị hiểu rằng chỉ có lòng sám hối ăn năn trở về với Chúa là nguồn bình an và hạnh phúc đích thực.

Mời Bạn: Với tình yêu Chúa chân thành, thì một cử chỉ nhỏ mọn cũng trở thành của lễ dâng đẹp lòng Chúa. Vậy, mỗi lần đọc kinh, dâng lễ, hay làm những nghĩa cử chia sẻ cho người khác, hoặc làm những việc khổ chế thân xác để bày tỏ lòng sám hối ăn năn, hay bất cứ việc nhỏ bé nào, bạn hãy làm vì lòng mến Chúa. Thánh Phaolô nhắc bạn rằng giả như bạn có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác để thiêu đốt, mà không có lòng mến, thì chẳng ích gì (x. 1Cr 13,3).

Sống Lời Chúa: Tôi sẽ thực hiện gẫm thứ ba của Mầu Nhiệm Sáng: “Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối. Ta hãy xin cho được tin vào lòng Chúa thương xót và siêng năng lãnh nhận bí tích giao hòa.”

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa nhân từ và tha thứ cho người biết hối cải ăn năn. Xin soi sáng cho chúng con biết ăn năn hối cải bằng việc nhận ra và đáp lại tình yêu Chúa với tất cả tâm hồn chúng con. Amen.




Chị hãy đi bình an.
Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới, can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn. 

Suy nim:
Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.
Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).
Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).
Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.
Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).
Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó,
các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,
chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.
Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào.
Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.
Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,
nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.
Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.
Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.
Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.
Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).
Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.
Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,
hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha ?
Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.
Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.
Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt
đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy !).
Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,
vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.
Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.
Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:
“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết
người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”
Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.
Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,
thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!
Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).
Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.
Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,
nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.
Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.
Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:
rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.
Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.
Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.
Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.
Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.
Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ,
Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)
Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.
cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả.
“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn ?”
Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.
Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.
Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.
Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.
Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.
Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).
Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.
Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.
Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.
Câu này trước đây thường được dịch như sau:
“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha,  (hoti) chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”
Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.
Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.
Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.
Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.
Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.
Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),
và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.
Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa.
Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,
vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn !!!
Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?
Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?
Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.
Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).
Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.
Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,
can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.
Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:
“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.
Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.
Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.
Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.
Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.
Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:
Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).
Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ:
lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,
Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,
và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.
Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?
Cầu nguyn:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện :
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.

R. Tagore
(Đỗ Khánh Hoan dịch)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".



Tinh thần khoan nhượng
Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy nghĩ về tinh thần khoan nhượng đích thực. Chúa Giêsu là hiện thân của tinh thần ấy. Trong những quan hệ xã hội của Ngài, Ngài vốn dành ưu tiên cho người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài tìm đến với họ và nhất là ngồi đồng bàn để ăn uống với họ, nhưng Chúa Giêsu không khơi dậy cuộc đấu tranh giai cấp. Ngài không bao giờ đi với người nghèo để kêu gọi chống lại những người giàu có. Ngài đến với những người nghèo và những kẻ tội lỗi nhưng không loại trừ những người giàu có và những người đạo đức thánh thiện. Ngài chia sẻ cơm bánh với những người tội lỗi nhưng cũng không ngại ngồi đồng bàn với những người công chính. Người biệt phái Simon được Tin Mừng hôm nay nhắc tên là một người giàu có và đạo đức, ông có thể là đại biểu cho những người giàu có và thánh thiện mà Chúa Giêsu không hề muốn loại trừ ra khỏi những quan hệ xã hội của Ngài. Chúa Giêsu kết thân với những người nghèo khổ và tội lỗi nhưng không xa cách những người giàu có và đạo đức.
Cuộc gặp gỡ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của thái độ khoan nhượng của Chúa Giêsu. Chính trong một bữa tiệc được một người giàu có và đạo đức khoản đãi mà Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành phố, Ngài luôn có thái độ khoan nhượng đối với mọi người.
Sự khoan nhượng là thái độ cần thiết cho mọi người bởi vì xã hội nào cũng gồm những thành phần khác biệt nhau bởi vì nhân loại gồm những con người khác biệt mà họ cần đối xử với nhau bằng thái độ khoan nhượng. Hai chìa khóa để mở cánh cửa của khoan nhượng là sự chấp nhận và cảm thông. Chấp nhận thường đi trước sự cảm thông. Chấp nhận sự khác biệt nơi người khác để dễ dàng cảm thông với họ hơn, nhưng dĩ nhiên khoan nhượng không hề đồng nghĩa với đồng lõa. Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và tha thứ với những người tội lỗi nhưng Ngài không bao giờ nhân nhượng trước tội lỗi; Ngài khoan dung tha thứ bao nhiêu với tội nhân thì lại càng cương quyết bấy nhiêu với tội lỗi. Chính vì thế mà sự tha thứ của Ngài luôn đi kèm với mệnh lệnh: "Con hãy đi về và đừng phạm tội nữa". Với người biệt phái tên là Simon, Ngài đã kêu gọi với thái độ khoan nhượng khi để cho người đàn bà tội lỗi đến thể hiện lòng sám hối của mình bằng việc xức dầu thơm cho Ngài. Với người đàn bà tội lỗi, Ngài cho cảm nhận được ơn tha thứ. Ngài kêu gọi chúng ta: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Lời ấy bảo đảm cho chúng ta ơn tha thứ và sự bình an của Ngài, đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy sống khoan nhượng và tha thứ đối với mọi người.
Ước gì chúng ta luôn cảm nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ của Chúa để cũng biết sống cảm thông và tha thứ với mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Yêu nhiều được tha nhiều
Vì thế tôi nói cho ông hay: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.”Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.” (Lc. 7, 47-48)
Lòng quảng đại không phải là một nhân đức ai cũng có thể biết được và luyện tập được. Nó cũng chính thứ tình yêu, không thể đặt giới hạn và thời hạn vì nó quá mạnh. Đức Kitô đã thực hiện tình yêu này không ngừng và Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một gương sáng trong nhiều gương khác.
Đức Giêsu đang dự tiệc tại nhà một người biệt phái đã mời Người đồng bàn, Thánh Lu-ca nói đến ba lần những người biệt phái tiếp đón Người tại nhà họ. Chứng tỏ có những người biệt phái ít hiềm khích Người, họ cũng mong hiểu biết Người hơn.
Đang bữa ăn, một đàn bà tội lỗi trong thành bước vào. Cô mang theo một bình dầu thơm quý giá và khóc nức nở quì xuống lấy nước mắt tưới ướt chân Người, lấy tóc mình mà lau chân Người và xức dầu thơm vào chân Người. Trước cảnh tượng chướng tai gai mắt này, người biệt phái cảm thấy tức giận và xúc phạm nặng nề, ông nói thầm trong lòng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai!”. Nếu biết rõ nó, Giêsu không được ngây ngất như thế.
Đức Kitô biết ý nghĩ của chủ nhà và đề cập đến một dụ ngôn nhỏ để biến đổi con tim của ông: “Một chủ nợ có hai con nợ, một kẻ nợ năm trăm quan tiền, một kẻ nợ năm mươi. Vì họ không có gì trả nên chủ nợ thương tình đã tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó ai mến chủ nợ hơn? Ông Simon đáp: Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Đức Giêsu bảo: Ông suy xét đúng lắm”. Giữa biệt phái trong sạch và bà này, nhơ bẩn chất chứa tội lỗi chắc là không giống nhau: tộibà này chất đống nhiều hơn, biẹt phái ít hơn, nhẹ hơn. Vậy rõ ràng bà được tha thứ nhiều hơn biệt phái. Đức Giêsu kết luận: điều đáng kể đối với tôi không nhất thiết là tội lỗi nhưng chính là tình yêu để được ơn thương xót: “Tội của chị rất nhiều, nhưng được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều!”.
Ồ vâng, yêu đi thì không còn phạm tội nữa!.
GF.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 9
20 THÁNG CHÍN
Nối Những Nhịp Cầu Yêu Thương
Bạn hãy hăng say cộng tác với Đấng Cứu Độ. Người bày tỏ cho chúng ta thấy lòng thương xót của Chúa Cha. Trong Đức Kitô, Chúa Cha luôn luôn chan tưới hồng ân của Ngài trên chúng ta. Ngài ban cho chúng ta sự sống và sức mạnh. Ngài tha thứ chúng ta và đưa chúng ta vào mối quan hệ riêng với Ngài; Ngài sai Con của Ngài đến với chúng ta, qua Người Con ấy lòng thương xót của Ngài tuôn trào.
Vâng, bạn hãy học với Đức Ki-tô, hình ảnh hoàn hảo (Tổng Luận Thần Học I,35) diễn tả tình yêu vô hạn của Chúa Cha. Như Chúa Giêsu, bạn hãy gần gũi với con người. Nhất là, hãy gần gũi với những người bệnh tật, những người bị chà đạp phẩm giá. Bạn hãy trở thành người chiến sĩ xây dựng nền văn minh tình thương, hãy nhiệt thành chia sẻ lòng bác ái chân thực, để thăng tiến nhân loại này nên tốt hơn. Như vậy, bạn sẽ tham dự trọn vẹn vào công cuộc cứu độ của Đức Ki-tô.
Hội Thánh ngỏ lời với các bạn, những người xây đắp nền văn minh tình thương: “Kinh nghiệm của quá khứ và của chính thời đại chúng ta cho thấy rằng chỉ công bằng mà thôi thì chưa đủ để đảm bảo cho con người được sống trên mọi chiều kích của sự sống. Chúng ta cần phải có được năng lực sâu xa hơn nữa, đó chính là tình yêu” (Div. In Mis, 12).
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 20-9
Thánh Anrê Kim Têgon, Phaolô Chong Hasang
và các bạn tử đạo; 1Cr 15, 1-11; Lc 7, 36-50.
LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện Chúa Giêsu đang dùng bữa tiệc tại nhà ông Simon, có một người phụ nữ mang tiếng là tội lỗi trong thành đến lấy dầu thơm mà rửa chân cho Chúa Giêsu mà còn xõa tóc mình mà lau chân cho Chúa. Cả câu chuyện cho chúng ta thấy sự trái ngược giữ hai thái độ và hai lòng trí: Đối với ông Simon, ông đang là người thuộc nhóm biệt phái, ông ta tự cho mình là người công chính và tin tưởng mình là người tốt trước mặt Thiên Chúa và người đời. Nên đã không nhận được ơn tha thứ. Còn người phụ nữ nhận biết mình là kẻ tội lỗi trước mặt Thiên Chúa cùng với đồng loại, người phụ nữ này cần đến tình yêu thương và sự tha thứ, khi nhận biết Chúa Giêsu là Đấng yêu thương, có quyền tha thứ tội lỗi và chữa lành cho con người. Nàng đã đến với Ngài, bất chấp những cặp mắt xoi bói và kết án; Nàng đã nhận được ơn tha thứ và chữa lành trong tình thương của Chúa. Thiên Chúa là tình yêu và Ngài trông chờ con người tìm đến tình yêu.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
20 Tháng Chín
Bởi Vì Tôi Rất Yêu Mến Bà!
Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêxa thành Calcutta tiến lại gần một người mà người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Ðó là một lão bà. Mình phủ đầy những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết thương hôi thối. Mẹ Têrêxa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng người đàn bà đáng thương này đang hấp hối... có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén canh nóng và tràn đầy tình thương yêu.
Người đàn bà đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêxa bằng một giọng thều thào:
- "Tại sao bà lại làm như vậy?"
Mẹ Têrêxa trả lời:
- "Bởi vì tôi rất yêu mến bà..."
Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất từ tận đáy lòng, đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu xuất hiện.
- "Ôi bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!"
- "Tôi rất yêu mến bà". Mẹ Têrêxa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.
- "Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà".
Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêxa và kéo về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt vời nhất trên cõi đời...
Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêxa đã biết nhìn sự suy sụp của tình người, Mẹ đã biết khám phá ra cái thực thể thiêng liêng Mầu Nhiệm của những con người nghèo hèn xấu số nhất. Chúng ta cũng hãy luôn nhìn mọi người bằng chính cái nhìn yêu thương và tôn trọng của chính Chúa đối với mọi người...
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++


Ngày 20
Thánh Phaolô Chong Hasang và các bạn tử đạo

Hạnh phúc thay những ai hằng mơ ước và sẵn sàng trả giá cho ước mơ của mình, đang được hình thành trong lịch sử nhân loại.


Chúng tôi tạ ơn Thiên Chúa là Thiên Chúa của Israel. Ngài đã viếng thăm, cứu vớt và ở lại với dân Ngài trong niềm vui ngợi ca. Mỗi chủ nhật, ngay khi bắt đầu Thánh Lễ, kinh vinh danh hòa điệu: Chúng tôi ngợi khen Chúa, chúng tôi chúc tụng Chúa, chúng tôi vinh danh Chúa, chúng tôi thờ lạy Chúa... Vì vinh quang cao cả Chúa! Đó là tất cả niềm vui đơn sơ của sự chiêm ngưỡng vinh quang Ngài: Quyền năng cao cả của Ngài!

Bạn có thể khám phá ra những nghĩa cử trong bữa tiệc ly cuốì cùng của Ngài: Ngài cẩm lấy bánh và rượu, rồi chúc lành cho hoa màu ruộng đất và lao công của con người. Ngài đã biến tất cả thành thịt và máu Ngài và cuối cùng, Ngài biến chúng ta thành chính thân thể Ngài. "Ai ăn Tôi sẽ sống trong Tôi."

Vì Ngài, với Ngài và trong Ngài, Ngài muốn làm tất cả cho cuộc sống của chúng ta như điều Ngài đã hứa, lời ngợi khen vinh quang Cha trên trời. Để thực hiện điều này, xin làm cho chúng con trở nên nhỏ bé, ở lại trong sự nhỏ bé, để tiếp nhận Lời Ngài, Lời mà Chúa Cha đã mạc khải... và là Lời hằng sống mãi muôn đời.

p. Pierre Duvillaret
Hạnh Các Thánh
Ngày 20 tháng 9
THÁNH ANRÊ KIM
 THÁNH PHAOLÔ CHUNG
VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO
(1839-1846 và 1862-1867)
Các thánh tử đạo Hàn Quốc.


Năm 1984, Giáo hội công giáo Hàn quốc mừng lễ kỷ niệm 200 năm kể từ khi nhà học giả trẻ tuổi Li Sung Hung đến Bắc Kinh năm 1784 và được rửa tội tại đây, đoạn ông trở về quê hương với một số sách đạo và một ánh lửa đức tin, để rồi sau đó làm bùng cháy ngọn lửa đức tin công giáo tại Hàn quốc
.
Ngày 6.5.1984, tại Seoul, Nam Hàn, lễ phong thánh đầu tiên đã được cử hành ngoài Rôma kể từ thế kỷ XIII, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng 103 vị tử đạo lên bàn thờ và gọi dịp này là ngày vui mừng nhất, ngày trọng đại nhất trong lịch sử Giáo hội công giáo tại Hàn quốc. 103 vị tử đạo này tiêu biểu cho khoảng mười ngàn tín hữu kitô tử đạo tại Hàn quốc trong khoảng thời gian kéo dài gần 100 năm. Trong số 103 vị tử đạo này có 92 giáo dân thuộc đủ mọi giai cấp trong xã hội, 45 người nam và 47 phụ nữ. Cũng có vị linh mục đầu tiên tại đất nước Hàn quốc là Anrê Kim Têgôn và mười nhà truyền giáo Pháp. Trong số 103 vị tử đạo, 79 vị đã được phong chân phước năm 1925, họ là nạn nhân của cuộc bách hại đầu tiên, và 24 vị được nâng lên hàng chân phước năm 1968, là nạn nhân của cuộc bách hại sau này. Hàn quốc là quốc gia duy nhất trong lịch sử Hội thánh, bắt đầu theo đạo công giáo nhờ vào việc trao đổi mậu dịch với nước Trung Hoa. Công việc này thành hình là nhờ những nỗ lực của một nhóm học giả Hàn quốc đã tìm tòi, nghiên cứu về đức tin công giáo trong các sách vở mà ông Li Sung Hung đã mang về nước từ Trung Hoa. Những người giáo dân Hàn quốc này bắt đầu dạy giáo lý cho những người khác và rửa tội cho họ. Nhờ sự học hỏi sâu rộng, nhóm giáo dân công giáo đầu tiên này mới bắt đầu nhận thức được rằng: họ cần có một linh mục. Và như thế, một đại diện ngoại giao đoàn đã được gửi sang Bắc kinh theo lời yêu cầu này. Đức giám mục Bắc kinh đã chấp thuận liền ngay.

Và năm 1795, cha Chumuymô, vị linh mục thuộc giáo phận Bắc kinh đã trở thành nhà truyền giáo đầu tiên tại Hàn quốc. Sau sáu năm truyền giáo ở Hàn quốc, cha Chumuymô đã được phúc tử đạo. Cùng chịu tử đạo với cha lúc đó, có khoảng 300 người mới trở lại đạo. Những người chống Giáo hội công giáo đã tuyên truyền và gán cho đức tin công giáo là một cái gì chối bỏ quyền làm cha mẹ và nhà vua, và tuyên bố rằng các tín hữu kitô có ý đồ mang quân đội Âu châu sang thống trị đất nước.

Năm 1831, Toà thánh Vatican đã gửi các linh mục thuộc hội Thừa sai Paris đến làm việc cho Giáo hội công giáo tại Hàn quốc. Đức cha Batôlômêô Ruyghit và cha Phêrô Philipphê Môboong liền bắt đầu một cuộc hành trình dài và khó khăn xuyên qua Trung Hoa để đến Hàn quốc. Đức cha Ruyghit chết trước khi đặt chân lên đất nước Hàn quốc, nhưng cha Môboong thì được đến nơi vào năm 1863, và đến ngay thủ đô Seoul. Từ nơi ẩn náu, cha bắt đầu bí mật chăm sóc cho các tín hữu. Đức cha Lôrensô Giuse Maria Humbert được bổ nhiệm làm vị đại diện Toà thánh và đã đến Hàn quốc vào năm 1837. Sau đó nhà truyền giáo thứ ba lại đến. Nhưng vào năm 1839 thì cuộc bách hại bắt đầu. Đức cha Humbert cùng với hai nhà truyền giáo ngoại quốc lúc này đã ra trình diện với chính quyền, với hy vọng sẽ làm cho họ nguôi cơn tức giận các tín hữu. Tuy nhiên, cả ba đã bị tra tấn và bị hành quyết cùng với một số tín hữu Hàn quốc, cả đàn ông lẫn đàn bà. Những người khác thì phải chịu tù ngục hoặc phải đi đày. Sánh với cuộc đàn áp của năm 1801-1802, trong đó những vị tử đạo đều thuộc các gia đình vọng tộc. Lần này hầu hết các tín hữu thuộc giai cấp cùng đinh. Tổng cộng có 70 tín hữu bị chém đầu, 60 vị bị cắt cổ hoặc đánh cho đến chết, hoặc chết vì bị các vết thương làm độc. Hai thí dụ cho thấy đức tin và lòng can đảm mạnh mẽ của những vị tử đạo.

Ông Phaolô Chung, nhân công trong một xưởng dệt dây thừng, đã được rửa tội năm 30 tuổi, và đã hoạt động tích cực trong việc truyền bá đức tin công giáo bằng cách giấu ẩn các tín hữu trong vùng khi họ đến nhận lĩnh các bí tích. Ông đã bị bắt vào năm 1839, bị tống ngục và bị tra tấn dã man. Vì không chịu đựng được những cực hình, ông đã đồng ý chối đạo, và được trả lại tự do. Tuy nhiên, sau đó ông hối hận và trở lại nói với chánh án, là ông muốn rút lại lời tuyên bố chối đạo. Một lần nữa, ông bị bắt giam tù và bị đánh đập. Ông chết vì các vết thương làm độc, năm ấy ông 41 tuổi.

Một thiếu nữ trẻ, đẹp, mới 17 tuổi, tên là Agatha Dy, cùng với người em trai của cô đã bị đánh lừa là cha mẹ của cô đã chối bỏ đức tin. Agatha đã trả lời rằng: “Cha mẹ tôi có phản bội hay không, đó là quyền của họ, còn chúng tôi, chúng tôi không thể phản lại Chúa tể trời đất, Người mà chúng tôi hằng phục vụ”. Và như thế, Agatha đã bị hành quyết cùng với cha mẹ và người em trai của cô. Cả bốn người đã được phúc tử đạo. Năm 1845. Một thời gian ngắn sau đó, cha Anrê Kim đã trở thành nạn nhân của cuộc bách hại đạo dã man này. Cha đã bị chém đầu năm 1846. Trước ngày chịu tử đạo, cha Anrê Kim đã viết cho các tín hữu một lá thư, trong đó cha khuyên họ chấp nhận cuộc khủng bố như là một hành động của Chúa Quan phòng. Cha bảo các tín hữu rằng: Giáo hội Hàn quốc không thể miễn trừ khỏi Giáo hội khổ đau của Chúa Kitô và được làm cho lan rộng bởi những khổ đau của các tông đồ tiên khởi. Thời kỳ mười năm sau khi Đức cha Feriô đến Hàn quốc, đánh dấu một bước tiến mạnh mẽ của Giáo hội Hàn quốc, một linh mục địa phương thứ hai là cha Tôma Choi Giăng đã được chịu chức. Năm 1866, cuộc bắt đạo mạnh mẽ cuối cùng bùng nổ. Một lần nữa đe dọa tiêu diệt Giáo hội công giáo Hàn quốc. Hai vị Giám mục và bảy nhà truyền giáo khác bị tử hình. Ba nhà truyền giáo thoát chết và trốn được ra khỏi nước. Cho tới tháng 9 năm 1868 đã có 2.000 tín hữu kitô bị sát hại. Từ trong số người này, con số tử đạo tăng thêm là 103 vị. Dù được biết mười ngàn tín hữu kitô Hàn quốc đã chịu tử đạo, hội Thừa sai Paris vẫn không nản chí. Nhiều cố gắng đã được thực hiện để gửi các nhà truyền giáo vào trong quốc gia thù địch này.

Năm 1876, một linh mục Pháp đã được hướng dẫn viên Hàn quốc đưa vào nội địa. Năm 1877, một vị tân Giám mục vào nước. Ngài tên là Philipphê Claire Quyđăng, một trong những linh mục đã đào thoát khỏi cuộc bách hại đạo của năm 1866. Đức cha Quyđăng đã bị bắt. Nhưng nước Pháp gây áp lực trên Trung Hoa và Nhật Bản để ngài được trả lại tự do. Lệnh bãi việc chống Giáo hội công giáo có từ năm 1881, nhưng không được thi hành triệt để và một năm sau đó, các cuộc bách hại mới chính thức chấm dứt, nhờ hiệp ước ký kết với Hoa Kỳ. Một hiệp ước với nước Pháp năm 1886 đã đảm bảo được an ninh cho cả những nhà truyền giáo lẫn những người trở lại đạo. Như thế, những cuộc bách hại những nhà truyền giáo kitô đã trở thành chuyện quá khứ. Năm 1887, tại Hàn quốc đã có 5 linh mục và 12.500 tín hữu. Giáo hội Hàn quốc đã trải qua cuộc bách hại đạo dài gần 100 năm, một khoảng thời gian đánh dấu của gần 10 cuộc bắt đạo thuộc mọi cấp độ trầm trọng. Cuối cùng hạt giống kitô là máu của không biết bao nhiêu vị tử đạo kitô Hàn quốc, những người được biết đến, cũng như những người không biết đến, đã trổ sinh nhiều hoa trái. Giờ đây, con số tín hữu kitô Nam Hàn lên tới một triệu rưỡi. Tại Bắc Hàn hiện đang sống trong chế độ cộng sản, không có bản thống kê mới nhất về con số các tín hữu. Các tín hữu Bắc Hàn hiện vẫn một mực trung thành với đức tin, hẳn đã phải chịu đau khổ nhiều, và những nhân đức anh hùng của họ sẽ có ngày được biết đến. Trong khi chờ đợi ngày được tự do thực hành niềm tin của mình, nhưng tín hữu kitô đau khổ này rất cần đến những lời cầu nguyện của chúng ta.
Thứ Năm 20-9

Thánh Anrê Kim Taegon, Phaolô Chong Hasang và Các Bạn

St.Andrew Kim Taegon.

A
nrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao, Trung Cộng. Sáu năm sau, ngài xoay sở để trở về quê hương qua ngả Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và thụ phong linh mục. Khi trở về quê, ngài có nhiệm vụ thu xếp cho các vị thừa sai vào Ðại Hàn qua ngã đường biển, nhằm tránh né sự kiểm soát biên phòng. Ngài bị bắt, bị tra tấn và sau cùng bị chặt đầu ở sông Han gần thủ đô Hán Thành
Thánh Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi.
Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592, lúc ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế. Một trong những chuyến đi này, khoảng năm 1777, sách vở tài liệu Công Giáo của các cha dòng Tên ở Trung Cộng được lén lút đem về để dạy bảo người tín hữu Kitô Ðại Hàn. Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình. Khoảng mười năm sau đó, khi một linh mục Trung Hoa lén lút đến Ðại Hàn, ngài thấy có đến 4,000 người Công Giáo mà chưa có ai được gặp một vị linh mục. Bảy năm sau, số người Công Giáo ấy lên đến khoảng 10,000 người. Sau cùng, tự do tôn giáo được ban hành vào năm 1883.
Khi Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn năm 1984 để phong thánh, ngoài Thánh Anrê và Phaolô, còn 98 người Ðại Hàn và ba vị thừa sai người Pháp, tất cả đều tử đạo trong khoảng 1839 và 1867. Trong số đó có các giám mục và linh mục, nhưng hầu hết là giáo dân: 47 phụ nữ, 45 quý ông.
Trong những người tử đạo năm 1839 là Columba Kim, một phụ nữ 26 tuổi. Ngài bị cầm tù, bị tra tấn bằng vật dụng bằng sắt nung nóng và than. Ngài và người em là Agnes bị lột quần áo và bị giam chung với những tù nhân hình sự, nhưng họ không bị làm nhục. Sau khi Columba phàn nàn về sự sỉ nhục này, từ đó về sau không một phụ nữ nào bị nhục nhã như vậy nữa. Hai người bị chém đầu. Một em trai 13 tuổi, Phêrô Ryou, bị tra tấn dã man đến độ em có thể lấy da thịt của mình mà ném vào quan toà. Em bị xiết cổ cho đến chết. Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi, sau khi bị tra tấn ông đã chối đạo và được thả tự do. Sau đó, ông trở lại, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn cho đến chết.
St.Paul Chong Hasang.

Lời Bàn

Chúng ta bàng hoàng khi thấy sau khi được thành lập, Giáo Hội Ðại Hàn hoàn toàn là một Giáo Hội của giáo dân khoảng hơn một chục năm. Làm thế nào mà giáo hội ấy sống còn khi không có bí tích Thánh Thể? Ðiều này cho thấy, không phải các bí tích không có giá trị, nhưng phải có một đức tin sống động trước khi thực sự được hưởng ơn ích của bí tích Thánh Thể. Bí tích là dấu chỉ của sự hoạt động và đáp ứng của Thiên Chúa đối với đức tin sẵn có. Bí tích làm gia tăng ơn sủng và đức tin, nhưng chỉ khi nào sẵn có một điều gì đó để được gia tăng.

Lời Trích

"Giáo Hội Ðại Hàn thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Ðại Hàn ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến" (ÐGH Gioan Phaolô II, bài giảng trong lễ phong thánh).
Bài đọc 2 
Ngày 20 tháng 9: Thánh An-rê Kim Tê-gon, Phao-lô Chung Ha-san và các bạn, tử đạo. Lễ nhớ
Nhờ việc tông đồ của một số giáo dân, đức tin Kitô giáo đã đi vào Hàn Quốc đầu thế kỷ thứ XVII. 
Dù thiếu các mục tử, giáo đoàn vẫn sống đức tin hăng say và mạnh mẽ. Cộng đoàn được hướng dẫn và xây dựng hầu như chỉ nhờ những người giáo dân, cho tới cuối năm 1836, khi những nhà truyền giáo đầu tiên người Pháp bí mật đến xứ này. 
Giáo đoàn này, với những cuộc bách hại vào những năm 1839, 1846, 1866 và 1867, đã sinh sản ra 103 thánh tử đạo, trong đó nổi bật nhất là linh mục đầu tiên người Hàn quốc, An-rê Kim Tê-gon. Người là một mục tử hăng hái nhiệt thành. Kế đó là người tông đồ giáo dân, anh Phao-lô Chung Ha-san. 
Còn những vị khác là giáo dân nam, nữ, độc thân, có gia đình, người già, thanh niên, thiếu nhi. Tất cả đều đã lấy máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô, làm nên mùa xuân tươi đẹp của Giáo Hội Hàn Quốc. 
Đức tin được thành toàn nhờ đức ái và sự kiên trì 
Trích huấn dụ cuối cùng của thánh An-rê Kim Tê-gon, linh mục, tử đạo. 
Tượng Thánh An-rê Kim Tê-gon.


Anh em và các bạn rất thân mến, trước hết hãy suy nghĩ cho thấu đáo : từ thuở ban đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất muôn vật thế nào. Sau đó, hãy suy gẫm xem vì lý do và ý định nào Thiên Chúa đã dựng nên từng người theo hình ảnh của Chúa và giống như Người. 
Vậy, nếu trong thế giới đầy hiểm nguy và khốn khổ này, chúng ta không nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo thành, thì có sinh ra và sống ở trên đời cũng chẳng ích lợi chi. Mặc dù nhờ ơn Thiên Chúa, chúng ta chào đời, cũng nhờ ơn Thiên Chúa chúng ta lãnh nhận bí tích thánh tẩy, được gia nhập Hội Thánh, trở thành môn đệ của Chúa và mang danh Người, nhưng hữu danh vô thực nào có ích chi ? Nếu thế, sinh ra trên đời và gia nhập Hội Thánh thật là vô ích ; hơn thế nữa, đó còn là phản bội Thiên Chúa và cưỡng lại ơn Người. Thà không sinh ra còn hơn là lãnh nhận ơn Chúa mà xúc phạm đến Người. 
Hãy xem người nông dân lo việc đồng áng thế nào : người ấy cày bừa đúng thời vụ, rồi bỏ phân và gieo hạt giống quý báu, không quản ngại lao nhọc nắng nôi. Đến mùa gặt, nếu thấy bông lúa nặng trĩu, ông ta quên cả mồ hôi và nỗi vất vả, lòng hân hoan vui sướng, hạnh phúc tràn trề. Còn nếu thấy những bông lúa lép xẹp, nếu chỉ thu được rơm rạ và những hạt lúa lép, người nông dân lại nhớ đến mồ hôi và nỗi lao nhọc vất vả, và trước đã chăm sóc thửa ruộng đó bao nhiêu thì nay lại càng bỏ hoang nó bấy nhiêu. 
Tương tự như thế, Thiên Chúa nhận mặt đất làm thửa ruộng của Người, nhận chúng ta là những con người làm thóc giống, ban ân sủng làm phân bón. Người còn lấy máu mình mà tưới trên chúng ta nhờ việc nhập thể và cứu chuộc, để chúng ta có thể lớn lên và trở thành bông lúa chín vàng. Đến ngày phán xét là lúc thu hoạch, người nào nhờ ân sủng mà thành bông lúa chín, sẽ được hưởng Nước Trời với tư cách làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Còn ai không thành bông lúa chín, sẽ trở nên kẻ thù của Thiên Chúa, dù trước đó chính họ đã từng là nghĩa tử của Người, và sẽ bị trừng phạt đời đời theo tội trạng của họ. 
Anh em rất thân mến, anh em hãy biết rằng Chúa chúng ta là Đức Giê-su, khi xuống thế gian đã chịu muôn vàn đau khổ, đã lấy cuộc thương khó của mình mà thiết lập Hội Thánh và lấy cuộc thương khó của các tín hữu mà làm cho Hội Thánh được lớn lên. Quyền lực thế gian mặc sức đàn áp và chống đối, cũng đã chẳng bao giờ thắng được Hội Thánh. Sau khi Chúa lên trời, kể từ thời các thánh Tông Đồ cho đến nay, Hội Thánh đã lớn lên ở khắp nơi giữa những gian truân. 
Còn nay, suốt năm, sáu mươi năm trở lại đây, kể từ lúc Hội Thánh có mặt trên đất Triều Tiên của chúng ta, các tín hữu cũng đã nhiều lần bị bách hại. Ngay cả ngày nay, cuộc bách hại cũng còn đang khốc liệt, đến nỗi nhiều người bạn chia sẻ cùng một niềm tin, trong đó có tôi, đang chịu cảnh ngục tù, cũng như chính anh em đang sống giữa cảnh gian truân. Chúng ta đã làm nên một thân thể như thế, làm sao lòng chúng ta lại chẳng buồn, làm sao chúng ta lại chẳng cảm thấy nỗi buồn chia ly theo tình cảm con người ? 
Tuy nhiên, như lời Kinh Thánh nói, ngay cả sợi tóc nhỏ nhất trên đầu, Thiên Chúa cũng quan tâm, và quan tâm bằng sự thông suốt vô cùng của Người. Vậy, sao lại coi một cuộc bách hại lớn như thế là cái gì khác chứ không phải là mệnh lệnh của Thiên Chúa, hoặc là phần thưởng hay thậm chí là hình phạt của Người ? 
Vậy, chúng ta hãy tuân theo ý Thiên Chúa, anh em hãy hết lòng chiến đấu cho thủ lãnh trên trời là Đức Giê-su, và đánh bại ma quỷ của thế gian này là kẻ đã từng bị Đức Ki-tô đánh bại. 
Tôi xin anh em, đừng sao lãng tình bác ái huynh đệ, nhưng hãy giúp đỡ lẫn nhau, hãy kiên trì cho tới khi Thiên Chúa thương xót mà cất nỗi gian truân khỏi chúng ta. 
Chúng tôi ở đây gồm hai mươi người và nhờ ơn Thiên Chúa, chúng tôi vẫn còn khoẻ mạnh. Sau này, nếu có ai chịu tử hình, tôi xin anh em đừng lơ là gia đình của người đó. Tôi còn nhiều điều phải nói nữa, nhưng làm sao có thể diễn tả hết bằng giấy trắng mực đen ? Đến đây tôi xin ngừng bút. Vì chúng tôi sắp bước vào cuộc chiến đấu, tôi xin anh em luôn sống trung thành để cuối cùng chúng ta được hưởng niềm vui với nhau trên trời. Trong tình yêu thương, tôi xin hôn chào anh em.

Lời nguyện 
Lạy Chúa là Ðấng tạo thành và cứu độ muôn dân, Chúa đã mời gọi dân tộc Triều Tiên đón nhận đức tin công giáo để gia nhập cộng đoàn dân Chúa chọn. Chúa lại ban cho cộng đoàn này tăng trưởng nhờ lời tuyên xưng đức tin của các bậc anh hùng là hai thánh An-rê Kim, Phao-lô Chung cùng các bạn, tử đạo. Xin nhận lời cầu nguyện của các ngài mà ban cho chúng con biết noi gương các ngài để lại là trung thành tuân giữ giới răn Chúa cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Chúng con cầu xin...
 
(trích bài đọc Giờ kinh Sách-bản dịch của nhóm CGKPV)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét