Trang

Thứ Sáu, 6 tháng 3, 2015

07-03-2015 : THỨ BẢY TUẦN II MÙA CHAY

07/03/2015
Thứ Bảy Tuần II Mùa Chay Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: Mk 7, 14-15. 18-20
"Chúa ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển".
Trích sách Tiên tri Mikha.
Lạy Chúa, với cây trượng của Chúa, xin chăn dắt dân Chúa, chăn dắt những con chiên thuộc quyền sở hữu của Chúa, sống lẻ loi trong rừng, ở giữa núi Carmêlô. Tất cả được chăn dắt ở Basan và Galaad như ngày xưa. Như ngày ra khỏi Ai-cập, xin tỏ cho chúng con thấy những việc lạ lùng.
Có Chúa nào giống như Chúa là Đấng dẹp tan mọi bất công, và tha thứ mọi tội lỗi của kẻ sống sót thuộc về Chúa? Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển. Chúa ban cho Giacóp biết sự trung thành của Chúa và cho Abraham biết lòng từ bi mà Chúa đã thề hứa với tổ phụ chúng tôi từ ngàn xưa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 102, 1-2. 3-4. 9-10. 11-12
Đáp:  Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Đáp.
2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Đáp.
3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa điều oan trái chúng tôi. - Đáp.
4) Cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. - Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: 2 Cr 6, 2b
Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

PHÚC ÂM: Lc 15, 1-3. 11-32
"Em con đã chết nay sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:
"Người kia có hai con trai. Đứa em đến thưa cha rằng: 'Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: 'Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: "Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha"'. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa'. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
"Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: 'Đó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ'. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh trả lời: 'Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó'. Nhưng người cha bảo: 'Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy' ". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)


SUY NIỆM : Người con hoang đàng
Văn hào Nga Dostoievki khi biết mình không còn sống bao lâu nữa, đã gọi các con đến bên giường bệnh và yêu cầu vợ đọc cho chúng nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Khi bà vợ vừa dứt lời, Dostoievki nói như để lại di chúc riêng của ông như sau:
“Các con yêu dấu, các con đừng quên những gì các con vừa nghe đọc. Hãy tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, đừng bao giờ thất vọng về sự tha thứ của Ngài. Cha thương các con vô cùng, nhưng tình thương của cha không thể sánh được với tình yêu Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tạo dựng. Cho dù các con có phạm tội ác, các con đừng bao giờ thất vọng về Thiên Chúa. Các con là con cái Ngài, hãy khiêm tốn đến trước mặt Ngài. Hãy xin Ngài tha thứ và Ngài sẽ vui mừng vì sự sám hối của các con, như người Cha đã vui mừng khi người con hoang trở về”.
Những lời trăn trối của Dostoievki có lẽ cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội mời gọi chúng ta khi cho chúng ta lắng nghe dụ ngôn về người con hoang đàng. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa được chính Ngài cụ thể hoá qua sự gần gũi của Ngài với các tội nhân. Nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người, Chúa Giêsu cũng nhắm đến thái độ chai đá của các biệt phái và luật sĩ, được Ngài tô vẽ qua hình ảnh của người con cả. Trong một vài nét ngắn ngủi, nhưng Chúa Giêsu đã phô bày được bộ mặt chai đá, ích kỷ, mù quáng của biệt phái và luật sĩ. Người con cả là hạng người không bao giờ nhận ra được tình thương của Thiên Chúa. Bao lâu nay sống bên cạnh cha, người con cả vẫn xem mình như một thứ người làm công trong nhà, mà không nghĩ rằng “tất cả những gì của cha đều là của con”.
Đó có thể là tâm tình của rất nhiều người trong chúng ta. Chúng ta tuân giữ và thực hành đúng đắn với giới răn, nhưng có lẽ chúng ta chỉ ngước lên Chúa như một quan toà công thẳng hay như một viên cảnh sát lúc nào cũng rình rập theo dõi để trừng phạt chúng ta. Từ một hình ảnh như thế về Thiên Chúa, tâm tình mà chúng ta có đối với Ngài có lẽ chỉ là sợ hãi, nô lệ. Và bởi lẽ không nhận ra Thiên Chúa như một người cha, cho nên con người cũng không nhận ra tha nhân là anh em của mình và như vậy cũng là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Mùa Chay là mùa của hoán cải. Hoán cải trước tiên là trả lại cho Thiên Chúa gương mặt mà Chúa Giêsu đã mạc khải, đó là gương mặt của người Cha yêu thương con người đến thí ban Con Một mình. Nhưng không thể trở về với Thiên Chúa là Cha mà lại không yêu thương tha thứ cho người anh em của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần II MC
Bài đọc: Mic 7:14-15, 18-20; Lk 15:1-3, 11-32.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương tha thứ của Thiên Chúa
Khi chúng ta nghe Chúa Giêsu đòi hỏi phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người đã xúc phạm đến chúng ta; nhiều người đã lắc đầu và chép miệng than: Khó quá! Làm sao thực hiện nổi? Chắc chắn Thiên Chúa không đòi con người làm những gì quá sức mình. Để giúp con người làm được điều này, Thiên Chúa ban ơn thánh và mời gọi con người nhìn lại mối liên hệ của họ với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay giúp con người nhận ra tình thương tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của con người đã xúc phạm đến Ngài. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Micah xin Thiên Chúa nối lại mối liên hệ của Ngài với Israel sau Thời Lưu Đày. Điều này chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được, vì mọi con dân Israel đã xúc phạm đến Ngài. Để thực hiện điều đó, Thiên Chúa phải chà đạp tội lỗi dưới chân hay quăng chúng xuống đáy biển. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Luca viết lại cho chúng ta một câu truyện tuyệt vời về tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện và phục hồi quyền làm con, khi một người ăn năn trở lại.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa nhân từ.
1.1/ Xin Thiên Chúa tiếp tục chăn dắt dân: Những gì Tiên-tri Micah viết trong chương cuối hôm nay giả sử Thời Lưu Đày đã qua, và Thiên Chúa đã có kế họach cho dân Do-Thái trở về để tái thiết Đền Thờ và xây dựng lại quê hương. Tiên-tri ước mơ Thiên Chúa sẽ nối lại tình cha con, như khi họ mới từ Ai-cập vào Đất Hứa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài dùng gậy để chăn dắt dân là đàn chiên, là cơ nghiệp của Ngài, đang biệt cư trong rừng giữa vườn cây ăn trái. Xin đưa họ tới đồng cỏ miền Bashan và Galaat như những ngày thuở xa xưa. Như thời Ngài ra khỏi đất Ai-cập, xin Ngài cho chúng con thấy những kỳ công.”
1.2/ Thiên Chúa không chấp tội của con người: Tiên-tri ý thức sâu xa các tội của dân đã xúc phạm đến Thiên Chúa, và tình thương như trời biển của Ngài dành cho dân. Họ xứng đáng lãnh nhận mọi hình phạt và ngay cả cái chết; nhưng họ còn sống và còn được trở về quê hương là hòan tòan do lòng nhân từ của Thiên Chúa. Tiên-tri Micah tự hỏi: “Thần minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng lỗi lầm, Đấng bỏ qua tội ác cho phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài? Người không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa, Người sẽ lại thương xót chúng ta, tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển.”
2/ Phúc Âm: Người Cha nhân hậu
2.1/ Người tội lỗi cần tình thương của Thiên Chúa: Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisees và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Chúa Giêsu đưa ra 3 dụ ngôn để giúp họ nhận ra tình thương Thiên Chúa, và dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” tuyệt vời hơn cả, vì nó bao hàm tất cả các tiến trình phạm tội, xám hối, trở về, và tình thương tha thứ.
(1) Tội lỗi và tự do: Tội lỗi xảy ra khi con người lạm dụng quyền tự do của mình. Thiên Chúa ban cho con người quyền tự do chọn lựa, và Ngài tôn trọng quyền tự do của con người. Dĩ nhiên Ngài có thể bắt con người làm theo ý Ngài, nhưng làm như thế là mâu thuẫn với chính Ngài, và con người cũng không thỏai mái khi bị bắt làm như thế. Người con thứ cho chúng ta nhìn thấy cách xử dụng tự do không đúng của con người. Người cha để cho con hòan tòan tự do, mặc dù ông rất đau khổ trong lòng, vì ông biết có thể đây là lần cuối được nhìn thấy con.
(2) Tội lỗi và hình phạt: Tự do chọn lựa là phải lãnh nhận hậu quả mang lại. Người biết dùng tự do là người biết cân nhắc kỹ các hậu quả sẽ mang lại của từng lựa chọn. Người con thứ đã không nhìn thấy trước hậu quả của lối sống anh ta đã chọn; và khi hậu quả xảy ra, anh mới biết mình đã lựa chọn không đúng. Vì không có nghề, nên anh phải chăn heo, là một nghề mà người Do-Thái khinh thường. Chưa hết, vì quá đói nên anh ước ao được ăn những đồ heo ăn, mà cũng chẳng ai cho. Danh dự của một con người giờ còn thua cả một con vật nhơ bẩn.
(3) Tội lỗi và xám hối: Đau khổ cần thiết vì nó giúp con người biết phân biệt phải trái; trong đau khổ, con người nhận ra nhu cầu phải ăn năn xám hối. Người con thứ nhận ra mình đã không sống xứng đáng với địa vị làm con, nên muốn xin trở nên như một người làm công để có cơm ăn cho khỏi chết đói. Và anh ta mạnh dạn đứng lên ra về.
(4) Tội lỗi và tha thứ: Có một chi tiết nhỏ, nhưng nhiều người đã nhận ra và viết về nó: Làm sao người cha biết khi nào con trở về mà chạy ra đón con? Có người suy đóan: chắc ngày nào ông cũng ra đón vì thương con. Điều hợp lý hơn có lẽ Chúa Giêsu muốn ám chỉ Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa mới biết những gì xảy ra trong tâm hồn con người. Ngài tha thứ mà chẳng đòi điều kiện nào cả; cũng chẳng cần con kịp nói hết lời. Không những sẵn sàng tha thứ mọi tội mà còn phục hồi quyền làm con qua việc mặc áo đẹp nhất, xỏ nhẫn, mang giầy, và ăn mừng.
2.2/ Con người không thể hiểu được tình thương Thiên Chúa: Tình thương quá tuyệt vời của người cha làm nhiều người bất mãn, trong đó có người anh của người con thứ.
(1) Phản ứng của người anh cả: Khi biết lý do của buổi tiệc, Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ, và cậu được dịp để bày tỏ nỗi tức giận của mình:
- Kể công phục vụ: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.”
- Từ chối không nhận em mình: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”
(2) Phản ứng của người cha: Ông vẫn bênh vực người con thứ và kiên nhẫn cắt nghĩa cho người con cả: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta khó tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho người xúc phạm; vì chúng ta không chịu xét mình để nhìn ra tình thương tha thứ và cách cư xử của Thiên Chúa với chúng ta.
- Một khi chúng ta nhìn ra tình thương tha thứ của Thiên Chúa và cách cư xử của Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng tha thứ cho anh chị em hơn; và nhận ra những gì họ xúc phạm đến chúng ta không thể so sánh với những gì chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa.
- Sau cùng, tất cả chỉ là tình thương. Nếu chúng ta đã nhận được tình thương từ Thiên Chúa, chúng ta cũng phải chia sẻ tình thương cho nhau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


07/03/15 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 2 MC
Thánh Pe-pê-tua và Thánh Phê-li-xi-ta tử đạo
Lc 15,1-3.11-33

Suy niệm: Người con thứ sau hành trình dài “một mình,” đã quyết định “đứng lên trở về” nhà cha, không phải vì hối hận về những việc mình làm, mà đúng hơn là vì “lâm vào bước đường cùng” (x. cc. 14-16). Người con cả, luôn ở bên phụng sự cha, nhưng anh không “cảm” được tình thương của cha đối với anh cũng như với người em trở về, bởi anh bị đóng chặt trong khuôn khổ của quả tim hẹp hòi. Xuyên suốt câu chuyện là một thiên tình sử của người cha dành cho cả hai người con. Với tuổi đời của ông, thân xác có thể hao mòn, nhưng con tim thì không hao mòn chút nào. Với quả tim yêu thương, độ lượng, ông giang tay đón đứa con thất lạc trở về, cũng như năn nỉ đứa con tưởng như không thất lạc vào lại nhà.
Mời Bạn: Đứng lên  trở về” với Chúa mỗi khi lầm lỡ, dù với ý hướng nào, bạn cũng tin chắc mình được yêu thương và chào đón. Hình ảnh người cha trong dụ ngôn phần nào phác họa hình ảnh một Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, luôn tìm kiếm và chờ đợi những đứa con trở về. Ngài không mệt mỏi chờ đợi và tha thứ, chỉ e rằng bạn mệt mỏi, cho rằng tội lỗi mình nhiều quá, không thể được thứ tha. Hay bạn đang mệt mỏi khi nghĩ về “tội lỗi” của người anh em, mà không muốn chia sẻ niềm vui, mở rộng tâm hồn, và niềm nở đón tiếp khi người anh em sám hối ăn năn.
Sống Lời Chúa: Tôi nhận ra mình là ai qua hình ảnh hai người con trong bài Tin Mừng này, để làm một hành trình “Đứng lên  trở về” với Chúa, Giáo Hội, với cộng đoàn, gia đình… trong Mùa Chay năm nay.
Cầu nguyện: Sốt sắng hát bài: “Con nay trở về…

Ăn mừng
Hoán cải bao giờ cũng khó. Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha... Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào... Cả hai người con đều cần hoán cải.

Suy nim:
Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân.
Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ,
người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống.
Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất.
Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ.
Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy.
Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn.
Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con.
Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32).
Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em,
một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28).
Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào.
Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.
Hoán cải bao giờ cũng khó.
Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha.
Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm?
Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại?
Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào,
vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải,
vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30).
Cả hai người con đều cần hoán cải.
Người con cả cũng hỗn hào với cha không kém gì đứa em (c. 30).
Em bỏ nhà ra đi nên đói, còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói.
Anh phục vụ cha rất tốt nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29).
Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha.
Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.
Mùa Chay là thời gian trở về với Cha, trở lại với anh em.
Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc.
Không rõ người con cả có vào nhà cha và ôm lấy em mình không?
Cầu nguyn:

Lạy Cha,
người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha
như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy
ngoài vòng tay Cha,
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,
chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.

Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.

Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG BA
Tình Yêu Thiên Chúa Là Tình Yêu Vô Giới Hạn
Tất cả chúng ta đều rất quen thuộc với dụ ngôn Người Con Đi Hoang. Dụ ngôn này nói lên sự thật về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một câu chuyện không thể nào quên – một câu chuyện đánh động chúng ta hết sức sâu sắc.
Trong Thông Điệp Dives in misericordia, cũng như trong Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia, dụ ngôn này trở thành một điểm qui chiếu nòng cốt của các giáo huấn cho Giáo Hội hôm nay. Những giáo huấn ấy nêu bật một điểm luôn luôn có tầm hết sức quan trọng trong toàn bộ sứ điệp Tin Mừng: việc con người hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Theo Thánh Phao-lô, trở về có nghĩa là trở nên một tạo vật mới trong Đức Kitô. Thiên Chúa, giống như người cha trong dụ ngôn, niềm nở tiếp đón tất cả những con trai con gái đi hoang của Ngài. Vì thế, khi một người được sinh lại trong Đức Kitô, người ấy trở thành một con người mới.
Chúa Cha đã trao ban cho chúng ta Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Kitô, để mỗi người trong chúng ta – dù đi hoang đàng – đều có khả năng trở thành một con người mới trong Đức Kitô. Được đổi mới một cách thâm sâu trong hữu thể mình, chúng ta có thể tìm thấy con đường về nhà Cha. Con đường ấy chính là tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đối với chúng ta.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 07-3
Thánh nữ Perpêtua và Thánh nữ Fêlicita tử đạo
Mk 7,14-15.18-20; Lc 15,1-3.11-32.

LỜI SUY NIỆM: Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.
Những người Pha-ri-sêu, họ là những con người tự cho mình là công chính và tự sống tách biệt với mọi người, và họ lánh xa, không giao tiếp với hạng người tội lỗi để khỏi bị ô-uế. Nên khi họ thấy Chúa Giêsu thường tiếp xúc với những người tội lỗi và ăn uống. Họ đã lên án Chúa Giêsu. Nhân chuyện này Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa. “Dụ ngôn con chiên bị mất”; “Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất”; và “Dụ ngôn người Cha nhân hậu” để cho mọi người thấy được sự quan tâm tìm kiếm, đợi chờ trong yêu thương của Thiên Chúa, và Thiên Chúa cùng triều thần Thiên Quốc sẽ vui mừng khi tìm thấy những người tội lỗi quay trở về gặp lại Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, trong những ngày trong Mùa Chay, là mùa của sám hối để nhận hồng ân tha thứ. Xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn tin vào tình thương của Chúa, để biết dứt bỏ mọi rào cản, mọi cám đỗ mà trở về cùng Chúa bằng Bí tích hòa giải và Thánh Thể.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 07-03: Thánh PERPÊTUA Và PHÊLIXIA
Tử đạo (thế kỷ III)

Perpêtua và Phêlixita, cùng với các bạn chịu chết với các Ngài năm 203 tại Carthage, là những khuôn mặt sống động đặc biệt trong số các thánh tử đạo vào các thế kỷ đầu. Chúng ta có được những tường thuật chính xác về cuộc tử đạo của các Ngài nhờ vào tài liệu đương thời, bao gồm những nhật ký của chính thánh Perpêtua, một trang sử của vị tử đạo khác và một câu chuyện do nhân chứng đầu tiên, có lẽ là Tertulianô viết lại.
Dưới cuộc bách hại của Septimô Sêvêrô. Một phụ nữ trẻ thuộc gia đình danh giá tên là Vibia Perpêtua đã bị bắt cùng với hai thanh niên là Saturnunô và Secundôiô, với hai người nô lệ là Revecatô và Phêlicitê. Tất cả đều đang học với một giáo dân tên là Saturô. Thấy các học viên của mình bị bắt, Saturô cũng tự nộp mình để khỏi phải xa lìa họ.
Cha của Perpêtua là một người thờ ngẫu tượng nài nỉ con mình trung thành với ngoại giáo. nhưng chỉ vào một cái bình, thánh nữ trả lời : - Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng cái tên nào khác hơn là cái bình không ? Đối với con cũng vậy con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu.
Người cha liền lao vào con như muốn móc mắt và ông đánh đập Perpêtua tàn nhẫn. Rồi ông rút lui. Nhiều ngày sau thánh nữ không gặp lại ông. Trong những ngày đó Perpêtua cùng với các bạn còn đang dự tòng đã được rửa tội.
Khi người ta dìm vào nước, thánh nữ đã chỉ nguyện xin một lời này là: được sức mạnh để chịu đựng nên các đau khổ của cuộc tử đạo. Bây giờ họ bị dồn chung vào một phòng chật hẹp tối om. Đút lót tiền bạc, họ được rộng rãi hơn một chút, Perpêtua mẹ của một đứa bé còn đang bú đã phải đau khổ nhiều vì xa con. Đứa bé kiệt sức. Người ta trả nó lại cho mẹ và người mẹ vui sướng quên hết mọi đau đớn. Ngục tù đã trở nên cung diện đối với Ngài. Các thi kiến thánh nữ được thấy, an ủi Ngài nhiều và nâng cao niềm hy vọng của Ngài ngay khi còn ở trần gian này.
Người ta biết rằng: các tù nhân sắp bị xét xử. Người cha của Perpêtua thất vọng. Ông đến thăm con gái mình và thốt ra những lời van xin nghe muốn đứt ruột: - "Con ơi, hãy thương mái tóc bạc của cha, hãy thương cha. Hãy nhớ tới đôi tay cha đây đã dưỡng nuôi con. Hãy tưởng tượng tới mẹ con, anh em con, con của con nữa, không có con nó sống sao được. Bỏ đi con, điều dốc quyết làm cho chúng ta mất tất cả".
Tất cả điều này thật là độc dữ đối với Perpêtua. Thánh nữ nói:- Thưa cha, tại tòa án sẽ xẩy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình.
Người cha còn cho người đem đứa trẻ tới năn nỉ lần nữa :- Hãy thương đến con của con.
Trong khi đó các tù nhân tuyên bố rằng họ đều sẵn sàng hy sinh tất cả cho Thiên Chúa. Họ bị giải tới nhà tù gần hí trường, Perpêtua đã cầu nguyện ngày đêm cho một người em chết vì ung thư. Trong một thị kiến Ngài đã thấy nó trong một nơi tối tăm, bây giờ lên một nơi ngập đầy ánh sáng.
Phêlicitê hạ sinh một đứa con trai. Khi Ngài rên xiết vì đau đớn, một người lính gác ngục chế nhạo người rằng: - Nếu không chịu nổi đau đớn lúc này, làm sao cô chịu nổi các thú dữ ?
Phêlicitê trả lời: - Hôm nay tôi khổ vì tôi nhưng khi tôi chết vì đạo, sẽ có một người khác trong tôi chịu khổ cho tôi, bởi vì tôi chịu cực khổ vì Ngài.
Trong khi chờ đợi cái chết độc dữ đã được dành sẵn, các tù nhân vẫn giữ được cái tính hài hước lành mạnh và vui tươi của họ, thánh Perpêtua nói: - Còn sống chúng ta luôn vui tươi, trong cuộc sống khác, chúng ta sẽ hân hoan mãi.
Ngày vui chơi đến, họ phải diễn trò cho thiên hạ. Người cha của Perpêtua tàn héo vì sầu muộn, nhưng thánh nữ luôn có thị kiến. Khi các thánh tử đạo tiến vào hí trường, các Ngài tỏ vẻ vui tươi phấn khởi. Perpêtua thì ca hát. Trước mặt dân chúng, Ngài đã trả lời quan tòa: - Ngài xét xử chúng tôi, nhưng Thiên Chúa xét xử Ngài.
Quan tòa truyền đánh đòn các Ngài, nhưng các Ngài lại cảm thấy hạnh phúc vì được giống Chúa Kitô thày mình. Thú dữ được thả ra, những người trẻ bị cắn xé, Perpêtua và Phêlicitê bị lột áo. Các Ngài đòi lại và người ta chấp nhận cho các Ngài đặc ân này. Các Ngài bị gói vào trong một cái lưới. Một con bò cái hung hãn xông vào Perpêtua, hất tung Ngài lên trời, rớt xuống đất Ngài vẫn còn sống và Ngài cúi nhìn người nữ tì Phêlicitê của mình đang nằm sõng sượt trên mặt đất, và giúp nàng chỗi dậy. Dân chúng trong một lúc hết hung hăng đã xin trả tự do cho các vị tử đạo. Perpêtua tin rằng: mình vừa thức dậy từ một cơn mơ. Phải thấy những vết thương đã chịu, Ngài mới tin là sự thật, Ngài nói với Rusticus và em mình rằng: - Hãy vững tin, đừng kinh ngạc vì những đau khổ của chúng tôi.
Đám dân chúng dễ bị khích động và thất thường lại đòi giết những người này. Ngài hôn chuc bình an và đưa thân cho lý hình. Người phải giết Perpêtua run rẩy, lưỡi gươm của anh ta trật đường, làm bị thương bên sườn Ngài. Chính Perpêtua phải hướng dẫn tay của lý hình và giúp đỡ để hắn đẩy mũi giáo vào cổ họng mình.
(daminhvn.net)


7 Tháng Ba
Dachau
Dachau: đó là một địa danh mà dân Âu châu không bao giờ xóa bỏ khỏi ký ức của họ. Nơi tập trung và sát hại hàng triệu người Do Thái dưới thời Ðức Quốc xã, Dachau vừa là hỏa ngục của hận thù, độc ác nhưng cũng là khung trời rực sáng những vì sao của yêu thương, tin tưởng.
Edmond Michelet, văn sĩ Pháp bị giam tại đây và sau này trở thành bộ trưởng Tư Pháp, đã viết lại ký sự của những ngày bị giam trong địa ngục Dachau. Ông kể lại rằng: mỗi buổi sáng, các linh mục bị giam tù lén lút cử hành Thánh lễ. Các tù nhân Công giáo, bất chấp mọi đe dọa đến mạng sống, chen chúc sát cánh bên nhau để tham dự Thánh lễ.
Phẩm phục của linh mục chủ tế chỉ là một mảnh áo tù rách rưới thảm thương. Cái tách uống nước được dùng làm chén thánh, hộp thuốc ho được dùng làm bình đựng bánh lễ.
Sau Thánh lễ, một số người được chia công tác mang Mình Thánh đến cho những người đang hấp hối được giam riêng trong phòng đặc biệt... Edmond Michelet kể lại rằng: hình ảnh ông vẫn luôn ghi nhớ đó là nụ cười rạng rỡ của những người đang tiến đến cõi chết.
Vào khoảng cuối năm 1944, một nghi lễ đặc biệt đã diễn ra ngay trong trại Dachau. Một phó tế người Ðức, bị lao phổi, đang hấp hối... Các linh mục đang bị giam bèn nghĩ đến chuyện phong chức linh mục cho thầy... Một vị giám mục cùng bị giam đã chấp thuận tiến hành nghi thức. Người ta làm mọi cách để che mắt người lính canh. Một người Do Thái đã chấp nhận chơi đàn vĩ cầm để đánh lạc hướng sự chú ý của công an, vị giám mục người Pháp, trong bộ đồng phục rách rưới của tù nhân, đã phong chức linh mục cho một chủng sinh người Ðức.
Vị tân linh mục đã cử hành Thánh lễ đầu tiên ít ngày sau đó. Và đó cũng là Thánh lễ cuối cùng của Ngài... Trong quyển nhật ký của Ngài, người ta đọc thấy hai chữ: Tình Yêu, Ðền Bù...
Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chân lý này sáng ngời một cách mãnh liệt ngay trong những nơi mà hận thù chết chóc ngự trị như luật tối thượng của cuộc sống. Hận thù càng dâng cao, chết chóc càng đe dọa người ta càng thấy những tấm gương của hy sinh, xả kỷ và tin tưởng.
Dạo tháng 6 năm 1989, một số linh mục, giám mục người Ba Lan đã hành hương đến trại tập trung Dachau để kỷ niện 50 năm ngày thế chiến thứ hai bùng nổ và nhất là để tưởng niệm gương hy sinh của gần 3,000 linh mục thuộc 9 quốc tịch khác nhau bị giam giữ tại đây. Trên ngôi mồ chôn lớn nhất, một Thánh lễ đã được cử hành không phải để gợi lại hận thù, nhưng họ còn được mời gọi để chỉ thấy Yêu Thương và tha thứ giữa hận thù.
Ðó cũng chính là lời mời gọi của Ðức Kitô trong Thánh lễ mà Giáo hội cử hành mỗi ngày. Chúng ta không tưởng niệm những độc ác dã man trong cái chết của Chúa, chúng ta không gợi lại hận thù trong cuộc tử nạn của Ngài, nhưng chỉ nhìn thấy Yêu thương và tha thứ vô bờ của Ngài. Ngài mời gọi chúng ta hãy chỉ nhìn thấy yêu thương và tha thứ giữa hận thù, hãy múc lấy yêu thương và tha thứ để đáp trả lại hận thù...
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét