Trang

Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2015

04-10-2015 : (phần III) CHÚA NHẬT XXVII MÙA THƯỜNG NIÊN năm B - Kính Trọng Thể ĐỨC MẸ MÂN CÔI

CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN NĂM B
    04/10/2015
Kính trọng thể Đức Mẹ Mân côi
(phần III)


Chủ đề :
Hôn nhân bất khả phân ly
"Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly"
(Mc 10,9)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (St 2,18-24) : Thiên Chúa dựng nên nhân loại có nam có nữ, để hai người kết hợp với nhau thành vợ chồng gắn bó với nhau.
- Tin Mừng (Mc 10,2-16) : Trả lời cho câu hỏi của những người pharisêu "Có được phép ly dị không ?", Đức Giêsu nói : "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly".
I. Dẫn vào Thánh  lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay dạy về đạo thuỷ chung trong hôn nhân.
Ngày nay, đạo thuỷ chung đang bị thử thách nặng nề : nhiều cặp vợ chồng ly dị nhau, nhiều cặp khác thì ly thân, nhiều cặp khác nữa thì vẫn còn sống chung nhưng ngoại tình.
Trong thánh lễ này, anh chị em hãy cầu nguyện cho gia đình mình, và cũng hãy cầu nguyện cho những gia đình đang bất hòa với nhau.
II. Gợi ý sám hối
- Xin Chúa tha thứ cho những người làm vợ làm chồng đã vì yếu đuối mà có lần không trung tín với nhau.
- Xin Chúa tha thứ cho những vợ chồng không hòa thuận yêu thương nhau.
- Xin Chúa thứ tha cho những cha mẹ không làm gương tốt cho con cái.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (St 2,18-24)
Bài tường thuật về việc Thiên Chúa tạo dựng người nữ. Qua những hình ảnh mà tác giả tạm dùng, chúng ta khám phá được những ngụ ý sau : (1) Người nữ là trợ tá tương xứng của người nam (trong khi mọi dã thú và chim trời đều không thể làm bạn tương xứng với người nam được) ; (2) Người nữ vừa thân thiết vừa bình đẳng với người nam (hình ảnh chiếc xương sườn ở ngang hông người nam) ; (3) Vợ chồng phải gắn bó với nhau thành một xương một thịt.
2. Đáp ca (Tv 127)
Bài thơ ca tụng người vợ đức hạnh : nàng như cây nho đầy hoa trái, nàng là phúc lộc Thiên Chúa ban cho người kính sợ Chúa.
3. Tin Mừng (Mc 10,2-16)
Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai bài học :
a/ Về cuộc sống hôn nhân : Những người biệt phái phỏng vấn Đức Giêsu về vấn đề ly dị.
Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường ngược nhau về vấn đề này : lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbi Hillel) cho phép ly dị vì những cớ rất tầm thường ; lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbi Shammað) chỉ cho ly dị trong trường hợp ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai lập trường này có điểm chung là cho phép ly dị.
Còn lập trường của Đức Giêsu là tuyệt đối không được ly dị : "Điều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly".
Nhân dịp này, Đức Giêsu còn dạy cách sống đời hôn nhân : phải yêu thương nhau ("luyến ái") và đồng tâm nhất trí ("nên một huyết nhục") với nhau.
b/ Về thái độ đón tiếp :
- Người ta đem trẻ nhỏ đến với Đức Giêsu. Lý do khiến người ta đem trẻ nhỏ đến với Đức Giêsu là để Ngài chúc lành cho chúng ("đặt tay trên chúng").
- Lý do khiến các môn đệ khiển trách họ là vì thời đó người do thái coi khinh trẻ nhỏ (co chúng chưa biết Luật). Trẻ nhỏ bị coi là hạng còn ở ngoài lề xã hội.
- Phản ứng của Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại bỏ bất cứ ai.
- Chúa còn bảo người lớn phải có tâm thế của trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.
4. Bài đọc II (Dt 2,9-11) (Chủ đề phụ)
Đức Giêsu là đại biểu của loài người. Qua cuộc chịu nạn và chịu chết, Người bị hạ xuống thua kém các thiên thần một thời gian ngắn. Nhưng qua việc phục sinh, Ngài lại được nâng lên trở thánh vị lãnh đạo thập toàn. Các kitô hữu kết hợp với Đức Giêsu trong đau khổ thì cũng được chia xẻ vinh quang với Ngài.

IV. Gợi ý giảng
* 1. Gia đình : Vấn đề Ly hôn và con cái
"Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi. Tôi buồn giận cha tôi lắm, tuy nhiên tôi thấy thiếu vắng cha tôi kinh khủng. Biết bao lần tôi hình dung cha tôi mà tôi chỉ nhớ loáng thoáng bóng dáng. Tôi tưởng tượng một ngày nào đó đến nhà ông để khạc nhổ vào mặt ông ta cho hả cơn oán ghét và khinh bỉ. Hôm khác tôi lại mơ thấy mình nằm gọn trong cánh tay cha tôi, đắm mình trong một tình thương mà tôi tưởng chừng đã phai tàn. Rồi tôi đã khóc, và tôi còn khóc, nhưng không ai biết... Tôi nằm lăn đất vì đau khổ, vì bị xung đột khủng khiếp. Tôi muốn tìm cách báo thù : chống lại cha tôi, chống lại mẹ tôi, chống lại mọi người, chống lại xã hội và chống lại... chính tôi nữa !"
Tâm trạng của một đứa con mà cha mẹ đã ly dị với nhau là như thế : bị xâu xé ray rứt rất đau đớn : vừa thù ghét cha mẹ mà vừa đói khát thèm muốn tình thương của cha mẹ. Tương lai của những đứa con ly hôn là như thế : nó sẽ nổi loạn chống lại mọi người, phá phách mọi người và phá phách cả cuộc đời của chính nó nữa.
Vậy mà ít ai lưu tâm đến hoàn cảnh đau khổ to lớn ấy của những đứa con mà cha mẹ đã ly hôn. Ngược lại càng ngày người ta càng ủng hộ việc ly dị. Theo một bảng thống kê ở các nước giàu có phát triển thì cách đây 20 năm cứ 20 cặp vợ chồng thì có một cặp ly dị, cách đây 10 năm thì trong 10 cặp có một cặp ly dị, và hiện thời cứ 2 cặp là có một cặp ly dị. Nghĩa là tỉ lệ phân nửa : bên Nga cũng vậy mà bên Mỹ cũng vậy !
Lý do người ta dựa vào, là "Đã không thể sống chung với nhau nữa thì thà chia tay nhau". Một lý do quá giản dị, nhưng vì quá giản dị nên cũng quá thiếu sót, ít ra là thiếu sót 3 điểm sau đây :
1/ Thứ nhất là quá ích kỷ : chỉ lo cho những cặp vợ chồng mà không nghĩ đến những đứa con. Cho phép ly dị thì có lẽ vợ chồng sẽ thoải mái đấy, nhưng con cái thì như chúng ta đã thấy qua bức trên đây. Cha mẹ muốn thoải mái cho bản thân mình, và dồn mọi hậu quả cho những đứa con phải chịu. Mà những đứa con đó nào có tội tình gì đâu ? Tội là ở cha mẹ chúng, nhưng chúng phải gánh lấy hậu quả hoàn toàn.
2/ Thứ hai là phản trắc, lật lọng : những người ly dị là những kẻ phản trắc, lập lọng, không phải đối với ai khác mà đối với chính bản thân họ, đối với chính lương tâm của họ. Họ hãy nhớ lại xem trước khi cưới họ đã nghĩ gì, đã muốn gì, đã thề hứa gì ? Họ muốn chiếm cho bằng được con người lúc đó họ đang yêu, họ chấp nhận tất cả mọi khó khăn xung đột của cuộc sống chung, và họ thề sẽ yêu thương nhau trọn đời. Lúc ban đầu thì vậy, nhưng lúc sau thì khác không yêu nhau nữa, không chấp nhận nhau nữa và đòi bỏ nhau bằng mọi giá. Có phải là phản trắc, là lật lọng, là tiền hậu bật nhất không ?
3/ Và điểm thứ ba là người ta đã quên một điều rất là thông thường trong cuộc sống hôn nhân : bất cứ cặp vợ chồng nào cũng phải trải qua những cuộc khủng hoảng. Không cặp nào thoát. Đó là điều tất yếu, và có thể nói còn cần thiết nữa. Cũng như một đứa trẻ cần phải trải qua khủng hoảng của tuổi dậy thì mới trở nên người lớn được, thì bất cứ cặp vợ chồng nào cũng cấn phải trải qua khủng hoảng mới đi tối chỗ trưởng thành. Vậy mà khi gặp khủng hoảng thì tính ngay chuyện ly dị, thử hỏi làm sao gia đình trưởng thành được ?
Đó là ba điểm rất quan trọng mà người ta đã bỏ qua không xét tới. Vì bỏ qua những điểm quan trọng như thế nên người ta càng ngày càng đòi hỏi ly hôn : những cặp vợ chồng trẻ đòi ly hôn, cha mẹ đôi bên xúi ly hôn, luật pháp cho phép ly hôn... Chỉ có Tin Mừng Chúa và Giáo Hội Công giáo là còn cố gắng ngăn cản việc ly hôn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý tới những điểm sau đây :
1/ Những người biệt phái dẫn chứng với Đức Giêsu rằng ông Môsê cho phép ly hôn. Đức Giêsu trả lời : đó chỉ là vì lòng dạ chai đá của các ngươi thôi. Nghĩa là Đức Giêsu vạch cho thấy nguồn gốc của ly hôn là lòng dạ chai đá, lòng xấu của con người. Và như chúng ta đã phân tích ở trên, lòng xấu ấy chính là cái tính ích kỷ, cái thái độ phản trắc lật lọng, thái độ hèn nhát vội tìm đường lẫn trách trước những khủng hoảng tất yếu của hôn nhân.
2/ Đức Giêsu nhắc nhở tính chất bất khả ly của hôn nhân là quyền của TC, con người không có quyền làm ngược lại "Điều gì mà Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly". Nghĩa là Đức Giêsu phủ nhận mọi quyền của con người trong vấn đề này : vợ chồng không có quyền đòi ly dị, cha mẹ đôi bên và bè bạn không có quyền xúi ly dị, luật lệ xã hội không có quyền cho phép ly dị, cho nên dù có 100 tờ giấy ly dị cũng chẳng có chút giá trị nào trước mặt Chúa.
3/ Và thứ ba là Chúa nhắc mọi người phải nhớ đến những đứa trẻ. Đức Giêsu đã ôm trẻ nhỏ vào lòng, Ngài đã chúc lành cho chúng để nhắc mọi người phải thương yêu chúng, phải bao bọc chúng, đừng ruồng bỏ chúng để chúng phải bơ vơ vì cha mẹ chúng đã ly dị nhau ; đừng ngăn cản, không cho chúng đến với Chúa bằng cách dạy chúng vào con đường bất mãn, nổi loạn, sa đoạ khi cha mẹ chúng đã ly dị với nhau.
Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm vợ và mẹ. Khi về gần đến nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường.
Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.
Hồ Tử nói :
- Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân !
Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.
Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học :
- Chàng đi làm quan năm năm mới về. Đáng lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được !
*
Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin mừng hôm nay xác định lại. Đó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân : "Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo : Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mc.10,6-9). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục "là giao ước tình yêu". Hiệu quả của giao ước này là"hai người trở nên một". Điều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.
Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy : "Mình với ta tuy hai mà một". Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.
Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Đavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.
Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Đó cũng là một ơn huệ của bí tích Hôn nhân.
Hình ảnh "Đức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng" (Mc.10,16) là một lời nhắc nhở các bậc cha mẹ. Nếu "cơm không lành canh không ngọt", muốn chia tay, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp "đường ai nấy đi" thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu ? Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.
Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết : "Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn".
*
Lạy Chúa, "Chúa là tình yêu", xin ban Tình yêu Chúa xuống trong các gia đình đã nguội lạnh tình yêu.
Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhẫn nhục và tha thứ cho nhau, để họ trọn đời chung thủy trong tình yêu mà Chúa đã chúc phúc cho họ trong ngày thành hôn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
3. Trở lại thành trẻ thơ
Đức Giêsu nói : "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với một tâm hồn trẻ thơ thì sẽ chẳng được vào".
Sau đây là một vài suy nghĩ về việc trở lại thành trẻ thơ :
1. Trẻ không do tuổi đời mà do tâm hồn.
Ta già đi không phải vì đã sống nhiều năm mà do đã đánh mất lý tưởng, chất chứa ưu phiền, nghi hoặc, sợ hãi, thất vọng, không tự tin…
2. Niềm tin làm ta trẻ, hoài nghi khiến ta già ; hy vọng làm ta trẻ, thất vọng khiến ta già.
3. Hồi còn bé chúng ta rất hồn nhiên. Lớn lên chúng ta đánh mất nó. Dù vậy chúng ta vẫn có thể tìm lại được sự hồn nhiên. Tuy nhiên tính chất của hai sự hồn nhiên này khác nhau :
- Sự hồn nhiên thứ nhất thì chưa chín chắn, chưa có trách nhiệm, chưa biết đến ưu sầu và sự dữ. Sự hồn nhiên thứ hai đã chín mùi nhờ tinh thần trách nhiệm, nhờ cảm nghiệm về ưu sầu và sự dữ ; Sự hồn nhiên thứ nhất chưa biết phạm tội. Sự hồn nhiên thứ hai chỗi dậy từ tội lỗi ; Sự hồn nhiên thứ nhất không biết phạm tội, sự hồn nhiên thứ hai không muốn phạm tội.
4. Chuyện minh họa
a/ Đổi lời tuyên hôn
Một đôi bạn trẻ sắp sửa thành hôn đến gặp vị Linh mục sắp chứng hôn cho họ và đề nghị :
- Thưa cha, chúng ta đã thảo luận với nhau rất kỹ nên đến xin Cha sửa đổi một chút trong câu mà Cha sẽ đọc trong nghi lễ : Thay vì Cha tuyên bố là chúng ta sẽ là vợ chồng với nhau "cho đến chết", Cha có thể đổi lại là "cho đến khi không còn yêu nhau nữa" được không ạ ?
Linh mục hỏi lại :
- Tại sao thế ?
- Chúng con thấy nhiều vợ chồng sống với nhau một thời gian rồi không còn yêu nhau nữa. Khi đó mà phải tiếp tục sống với nhau thì chỉ làm khổ cho nhau thôi. Thà ly dị còn tốt hơn.
- Cha khen ngợi sự thẳng thắn của chúng con. Nhưng Cha không thể sửa đổi như chúng con đề nghị, vì Cha không muốn chứng hôn cho một cuộc hôn nhân chắc chắn sẽ tan rã.
- Nghĩa là sao ạ ?
- Hôn nhân nửa vời thì chắc chắn sẽ tan rã.
- Thế nào là hôn nhân nửa vời ?
- Thứ nhất là nửa vời về thời gian, nghĩa là chỉ muốn sống chung cho đến khi không còn muốn sống chung nữa ; thứ hai là nửa vời về chọn lựa : chúng con không chọn con người của nhau mà chỉ chọn một số những điểm hợp nhau ; thứ ba là nửa vời về dấn thân : chúng con chỉ muốn dấn thân bao lâu sự dấn thân đó mang đến cho chúng con sung sướng và hạnh phúc. Hôn nhân nửa vời chắc chắn sẽ tan rã thôi.
- Vậy thế nào là hôn nhân trọn vẹn ?
- Hôn nhân công giáo phải là hôn nhân trọn vẹn, vì khi chọn một người làm vợ hay làm chồng mình là ta chấp nhận trọn vẹn con người của người đó gồm cả ưu điểm và khuyết điểm, ta muốn cùng người đó chia xẻ không chỉ niềm vui mà cả nỗi buồn, ta sẽ cùng người đó sống không chỉ một thời gian mà là suốt đời.
- Thế nhưng ở đời này có gì là trọn vẹn đâu ?
- Đúng thế. Nhưng chính vì con người không trọn vẹn nên con người cần có bạn hôn nhân để bổ túc cho nhau nên trọn vẹn hơn. Hơn nữa, khi hôn nhân được cử hành bằng bí tích trước mặt Chúa thì còn có Chúa hỗ trợ cho những cố gắng của hai vợ chồng.
b/ Nam và nữ
Truyện kể Ấn độ về tạo dựng : Khi tạo dựng người nam xong, Đấng sáng tạo thấy Ngài đã tận dụng tất cả những yếu tố vật chất. Ngài không còn chất cứng hay vật rắn trên tay để tạo dựng người nữ.
            Sau một hồi suy nghĩ, Ngài lấy sự tròn trịa của mặt trăng, dẻo dai của thân nho, mảnh mai của cây sậy, nảy nở của bông hoa, màu tươi sáng của lá cây và sự yên tĩnh của tia nắng mặt trời, nước của đám mây và sự bất ổn của gió, sự sợ hãi của con thỏ và tự cao tự đại của con công, sự mềm mại của ức chim và cứng rắn của kim cương, ngọt ngào của mật và độc ác của cọp, nóng của lửa và lạnh của tuyết, sự bép xép của chim mỏ ác và giọng líu lo của họa mi, sự dối trá của sếu và sự tự tin của sư tử.
Trộn tất cả những yếu tố đó lại với nhau, Đấng sáng tạo dựng nên người nữ và trao cho người nam.
Một tuần sau, người nam trở lại và nói : "Thưa Ngài, tạo vật Ngài trao cho làm con sống không hạnh phúc. Cô ấy nói luôn miệng và chòng ghẹo con suốt ngày, làm con chẳng được nghỉ ngơi. Cô bắt con phải luôn để ý đến cô, nên thời giờ của con bị lãng phí. Chuyện nhỏ tí cũng làm cô khóc và cuộc sống thật vô dụng. Con đến trả lại cô ấy cho Ngài, vì con không thể sống với cô ấy".
- Được.
Và Ngài nhận lại. Một tuần trôi qua, người nam trở lại với Đấng sáng tạo và nói : "Thưa Ngài, cuộc sống của con thật trống rỗng từ khi con trao lại tạo vật đó cho Ngài. Con luôn nghĩ về cô ấy, về cách cô múa hát, về ánh mắt trao duyên, về bao câu  chuyện và xích lại gần con. Trông cô thật đẹp và da thịt cô mịn màng. Con rất thích nghe cô cười. Xin trao lại cô ấy cho con".
- Được.
Và Ngài trao lại cho anh. Nhưng ba ngày sau, người nam trở lại và nói : "Thưa Ngài, con không biết phải giải thích làm sao, nhưng với tất cả kinh nghiệm của con về tạo vật này, con kết luận rằng cô đã gây cho con nhiều buồn bực hơn niềm vui. Con cầu nguyện cho cô và trao trả lại cho Ngài. Con không thể sống với cô ấy  !"
- Anh cũng không thể sống thiếu cô ấy !
Rồi Ngài quay lại và tiếp tục làm việc. Người nam nói vẻ thất vọng : "Con sẽ làm gì ? Con không thể sống với cô ấy và cũng không thể sống thiếu cô ấy !"
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho những người Thiên Chúa đã liên kết thành vợ chồng trong hôn nhân, để họ luôn nhớ và thi hành lời Chúa dạy : "Điều gì Thiên Chúa đã liên kết thì loài người không được phân ly".
1. Nhiệm vụ của Hội thánh là giúp mọi người chuẩn bị và nuôi dưỡng đời sống hôn nhân theo ý Thiên Chúa / Xin cho các vị chủ chăn luôn tận tâm thi hành nhiệm vụ rất cần thiết và cao quí này.
2. Nhiệm vụ của xã hội là tạo điều kiện và môi trường tốt / để các đôi vợ chồng sống đời hôn nhân đúng phẩm giá con người / Xin cho các nhà cầm quyền biết ý thức trách nhiệm đó / để loại bỏ mọi ảnh hưởng nguy hại đến đời sống hôn nhân.
3. Nhiệm vụ của vợ chồng là chung thủy với nhau trọn đời / để tôn trọng và yêu thương nhau / Xin cho các đôi vợ chồng đang chia rẽ bất hòa / biết nhận lỗi và tha thứ cho nhau / để gia đình được sum họp.
4. Nhiệm vụ của vợ chồng công giáo là thi hành đúng lời cam kết với nhau trước mặt Chúa và Hội thánh khi cử hành bí tích hôn phối / Xin cho các đôi vợ chồng trong họ đạo chúng ta / luôn nêu gương sống trung thành với lời cam kết đó.
Chủ tế  : Lạy Chúa, hoàn cảnh nghèo đói, chậm tiến và những ảnh hưởng xấu trong xã hội, đang gây đổ vỡ cho nhiều gia đình chúng con, xin Chúa luôn trợ giúp để ít là những gia đình công giáo, luôn là những dấu hiệu tinh thương của Chúa giữa mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Qua kinh nghiệm gia đình, chúng ta đã hiểu tình cha yêu thương con cái là thế nào. Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta hơn bất cứ người cha trần gian nào. Tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời kinh sau đây.
VII. Giải tán
Hôm nay Lời Chúa đã dạy cho chúng ta hiểu tình nghĩa vợ chồng như thế nào. Cầu chúc cho những vợ chồng trở về gia đình sống hòa thuận yêu thương nhau.
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật XXVII Thường Niên (B)
Chúa Nhật, 4 Tháng 10, 2015
Liên quan đến việc ly hôn và các trẻ nhỏ
Sự bình đẳng giữa vợ chồng
Mc 10:1-16


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của mình.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Trong văn bản của phần phụng vụ hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra lời khuyên liên quan đến mối quan hệ giữa vợ và chồng, và giữa các bà mẹ và các trẻ nhỏ.  Vào thời ấy, nhiều người bị hắt hủi và chịu thiệt thòi.  Lấy ví dụ, trong mối quan hệ giữa vợ chồng, sự thống trị của nam giới chiếm ưu thế.  Người vợ không thể dự phần, không có quyền bình đẳng với người chồng.  Trong mối quan hệ của họ với các trẻ nhỏ, là những kẻ “nhỏ bé”, đã có lời “gièm pha” rằng đó là nguyên nhân gây ra mất lòng tin nơi nhiều người trong bọn họ (Mc 9:42).  Trong mối quan hệ vợ chồng, Đức Giêsu truyền phải có sự bình đẳng tối đa.  Trong mối quan hệ giữa người mẹ và các trẻ nhỏ, Người dạy phải có sự trìu mến và dịu dàng nhất.

b)  Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Mc 10:1:   Dữ kiện nơi chốn;
Mc 10:2:  Câu hỏi của những người Biệt Phái liên quan đến việc ly hôn;
Mc 10:3-9:  Cuộc thảo luận giữa Chúa Giêsu và những người Biệt Phái về việc ly hôn;
Mc 10:10-12:  Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ nói về việc ly hôn;
Mc 10:13-16:  Chúa Giêsu dạy phải có sự trìu mến và dịu dàng đối với các bà mẹ và các con trẻ.

c) Tin Mừng:
1 Chúa Giêsu bỏ nơi đó, đi tới miền Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.  Đông đảo dân chúng lại tuôn đến với Người.  Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ. 2 Khi ấy, những người Biệt Phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môisen đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môisen cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môisen đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, 8 và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
10 Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. 11 Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. 12 Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".
13 Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. 14 Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. 15 Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". 16Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.
3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.

a)  Bạn thích điểm nào nhất và điểm nào lôi cuốn sự chú ý của bạn nhất?
b)  Địa vị của người vợ trong đoạn Tin Mừng như thế nào?           
c)  Chúa Giêsu muốn mối quan hệ giữa vợ chồng phải như thế nào?
d)  Các bà mẹ khi đem con nhỏ của họ đến với Chúa Giêsu thì lo lắng điều gì?
e)  Phản ứng của Chúa Giêsu ra sao?
f)  Chúng ta có thể học hỏi được điều thực tiễn gì từ các trẻ nhỏ?  

5.  Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng

Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề

a)  Lời bình luận:

Mc 10:1:  Dữ kiện địa lý
Tác giả Tin Mừng Máccô có thói quen đưa ra các dữ kiện chi tiết về nơi chốn hoặc dữ kiện địa lý ngắn gọn trong câu chuyện.  Đối với những người lắng nghe một chuyện dài mà không có một cuốn sách trong tay, dữ kiện địa lý như thế đã giúp cho sự hiểu biết về bài đọc.  Điều này giống như những điểm tra cứu để duy trì sự liên tục của câu chuyện.  Một cách thường xuyên trong Tin Mừng Máccô, chúng ta tìm thấy những dữ kiện như “Chúa Giêsu đang giảng dạy” (Mc 1:22,39; 2:2,13; 4:1; 6:2-34).   

Mc 10:2:  Câu hỏi của những người Biệt Phái liên quan đến việc ly hôn
Câu hỏi thật là xảo quyệt.  Nó được dùng để thử thách Chúa Giêsu:  “Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?”  Điều này cho thấy rằng Chúa Giêsu đã có một quan điểm trái ngược với những người Biệt Phái mà trong bọn họ vấn đề này chưa bao giờ được đặt tới.  Họ không đặt vấn đề là các bà có được phép ly dị chồng mình không.  Điều này không hề chợt lóe lên trong trí họ.  Đây là dấu hiệu rõ ràng về sự thống trị mạnh mẽ của nam giới và về vai trò chịu thiệt thòi của người vợ trong đời sống xã hội thời bấy giờ. 

Mc 10:3-9:  Câu trả lời của Chúa Giêsu:  Người ta không được phép ly dị vợ mình
Thay vì trả lời, Chúa Giêsu hỏi lại:  "Môisen đã truyền cho các ông thế nào?"  Lề luật cho phép người đàn ông được viết một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi người vợ ra khỏi nhà (Đnl 24:1).  Sự cho phép này cho thấy sự thống trị của nam giới.  Người chồng có quyền ly dị vợ mình, nhưng người vợ thì không có quyền tương tự.  Chúa Giêsu giải thích rằng ông Môisen đã làm như vậy vì sự cứng lòng của người ta; tuy nhiên, ý định của Thiên Chúa thì khác khi Chúa tạo dựng nên loài người.  Chúa Giêsu truy nguyên về ý định của Đấng Tạo Hóa (St 1:27; 2:24) và Người bác bỏ việc người chồng có quyền ly dị vợ mình.  Người sắp đặt quyền hạn của người chồng đối với vợ mình trên thế gian và ra lệnh phải có sự bình đẳng tối đa.


Mc 10:10-12:  Sự bình đẳng giữa chồng và vợ
Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về việc ly hôn.  Chúa Giêsu đưa ra kết luận và một lần nữa khẳng định sự bình đẳng về quyền hạn và nhiệm vụ giữa chồng và vợ.  Tin Mừng Mátthêu (xem Mt 19:10-12) đưa ra một lời giải thích về câu hỏi được đặt ra bởi các môn đệ liên quan đến điểm này.  Các ông thưa với Người: “Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn.”  Các ông cho rằng chẳng thà không kết hôn hơn là kết hôn mà không có đặc quyền khống chế vợ mình.  Chúa Giêsu đi sâu hơn vào trong vấn đề.  Người trình bày ba trường hợp khi một người không thể kết hôn:  (1) bất lực, (2) bị hoạn và (3) vì lợi ích Nước Trời.  Tuy nhiên, không kết hôn vì người ta không muốn mất quyền thống trị người vợ thì không thể chấp nhận được trong Lề Luật mới về yêu thương!  Cả đời sống hôn nhân lẫn đời sống độc thân phải là để phục vụ Nước Trời và không phải để phục vụ lợi ích vị kỷ.  Cả hai đời sống không thể là nguyên do để duy trì việc người chồng thống trị vợ mình.  Chúa Giêsu đưa ra một dạng thức quan hệ mới cho cả hai bên.  Trong hôn nhân, người nam không được phép khống chế vợ mình hoặc ngược lại.

Mc 10:13:  Các môn đệ ngăn cản các bà mẹ với các trẻ nhỏ không được đến gần Chúa
Một số người đã mang những đứa con của họ đến để cho Chúa Giêsu đặt tay lên chúng.  Các môn đệ cố gắng ngăn chặn việc này.  Tại sao các ông lại muốn ngăn chặn việc ấy?  Văn bản không cho chúng ta biết.  Dựa theo nghi lễ phong tục thời ấy, các trẻ nhỏ cùng với mẹ chúng, bị coi như sống trong tình trạng ô uế gần như thường trực.  Chúa Giêsu sẽ trở nên ô uế nếu Người đụng chạm đến chúng.  Có lẽ các môn đệ ngăn cản Chúa Giêsu không đụng chạm đến chúng để khỏi bị trở nên ô uế.

Mc 10:14-16:  Chúa Giêsu khiển trách các môn đệ và đón nhận các trẻ nhỏ
Phản ứng của Chúa Giêsu dạy ngược lại:  “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng!”  Người ôm các trẻ nhỏ, đón nhận chúng và đặt tay ban phép lành cho chúng.  Khi một vấn đề đặt ra về việc đón tiếp một ai đó và khuyến khích tình huynh đệ, Chúa Giêsu không hề lo lắng về luật tinh khiết, Người không sợ phải phạm lỗi.  Cử chỉ của Người dạy cho chúng ta:  “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, thì sẽ không được vào nước đó!”  Câu này có nghĩa là gì? 1) Đứa trẻ được nhận lãnh tất cả mọi thứ từ cha nó.  Nó không xứng đáng với những gì nó nhận lãnh, miễn là nó sống trong tình yêu cho không này.  2) Những người cha đón nhận con cái như tặng phẩm từ Thiên Chúa và đối xử chúng với sự chăm sóc.  Những người cha không quan tâm đến việc phải thống trị con cái họ, nhưng với lòng yêu thương chúng và dạy dỗ chúng theo bổn phận của mình!

b)  Phần phụ chú để hiểu rõ về văn bản hơn

*  Chúa Giêsu đón nhận và bênh vực những kẻ bé mọn

Đã nhiều lần, Chúa Giêsu khẳng định về việc đón tiếp những kẻ bé mọn, các trẻ nhỏ.  “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy” (Mc 9:37).  “Nếu ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật các con, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42).  Người yêu cầu chúng ta đừng khinh khi những kẻ bé mọn (Mt 18:10).  Vào ngày phán xét chung, công lý sẽ được chào đón bởi vì họ đã chia thức ăn cho “kẻ bé mọn nhất trong những anh em của Ta” (Mt 25:40).

Trong Tin Mừng, thành ngữ “những kẻ bé mọn” (theo tiếng Hy Lạp là elachistoi, mikroi hay nepioi).  Đôi khi có nghĩa là “trẻ nhỏ”, những lúc khác, nó có nghĩa là những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội.  Rất khó mà phân biệt.  Thỉnh thoảng chữ “bé nhỏ” trong Tin Mừng có nghĩa là “đứa bé” và không ai khác.   Trẻ em bị xếp vào giai cấp “những kẻ bé mọn”, những kẻ ngoài lề. Cũng thế, chẳng dễ mà có thể phân biệt được nghĩa nào có nguồn gốc từ thời Chúa Giêsu và nghĩa nào bắt nguồn từ các cộng đoàn khi các sách Phúc Âm đang được biên soạn.  Dù sao chăng nữa, điều rõ ràng là bối cảnh của việc loại trừ thì có thật vào thời ấy, và hình ảnh mà các cộng đoàn tiên khởi có về Chúa Giêsu là:  Chúa Giêsu đứng về phía những kẻ bé mọn, những kẻ bị khinh khi, và bênh vực họ.  Thật là cảm kích khi chúng ta nhìn vào tất cả những việc mà Chúa Giêsu đã làm để bênh vực đời sống của các trẻ em, của những kẻ bé mọn.

Tiếp đón và không được xúc phạm.  Đây là một trong những lời nghiêm khắc nhất của Chúa Giêsu dành cho các kẻ xúc phạm đến những người bé mọn, đó là, những kẻ làm cớ cho những kẻ bé mọn sa ngã không tin vào Thiên Chúa.  Đối với những kẻ này, thì thà buộc thớt cối đá vào cổ chúng mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn (Mc 9:42; Lc 17:2; Mt 18:6).
Tiếp đón và giao tiếp.  Các bà mẹ với con cái của họ trong tay tiến gần đến Chúa Giêsu để xin ban phép lành.  Các tông đồ bảo họ hãy tránh đi.  Giao tiếp với họ có nghĩa là sẽ lây sự nhơ bẩn.  Chúa Giêsu không lo lắng về chuyện này như các ông.  Người chỉnh sửa các môn đệ và tiếp đón các bà mẹ và con cái họ.  Người động chạm và ôm chúng vào lòng.  “Hãy để yên các trẻ nhỏ và để chúng đến cùng Thầy; đừng ngăn cản chúng!” (Mc 10:13-16; Mt 19:13-15).
Tự nhận mình với những kẻ bé mọn.  Chúa Giêsu tự nhận mình với những trẻ nhỏ. Ai tiếp đón một em nhỏ, là “tiếp đón chính Thầy” (Mc 9:37).  “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40).
Trở nên như trẻ nhỏ lần nữa.  Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ trở nên như trẻ nhỏ lần nữa và chấp nhận Nước Trời như một trẻ thơ.  Nếu không, thì sẽ không thể vào được Nước Trời (Mc 10:15; Mt 18:3; Lc 9:46-48).  Hãy để cho trẻ nhỏ là thày dạy cho người lớn.  Điều này thật là bất thường.  Chúng ta quen với chuyện ngược lại.
Bảo vệ quyền của những người reo hò.  Khi Chúa Giêsu tiến vào đền thờ và hất đổ bàn ghế của những kẻ đổi tiền, thì chính những trẻ nhỏ đã reo hò:  “Vạn tuế con vua Đavít” (Mt 21:15).  Chúa Giêsu đã bị các thượng tế và kinh sư chỉ trích, nhưng Người đã bênh vực các trẻ nhỏ và Người đã trích lời Kinh Thánh để bênh vực chúng (Mt 21:16).
Hãy cảm tạ vì Nước Trời hiện diện trong các trẻ nhỏ.  Chúa Giêsu rất đỗi vui mừng khi Người nghe thấy các trẻ nhỏ, là những kẻ bé mọn, đã hiểu được những điều về Nước Trời được loan truyền cho người ta.  “Lạy Cha, Con xin ngợi khen Cha!” (Mt 11:25-26).  Chúa Giêsu nhận ra rằng những kẻ bé mọn hiểu biết về những việc Nước Trời rõ hơn là các luật sĩ.
Đón tiếp và chữa lành.  Chúa đón tiếp nhiều người trong đó có nhiều trẻ nhỏ, Người chữa lành hoặc làm cho họ sống lại:  cô con gái mười hai tuổi của ông Giairu (Mc 5:41-42), đứa con gái của người phụ nữ Canaan (Mc 7:29-30), con trai của góa phụ thành Naim (Lc 7:14-15), đứa bé mắc bệnh động kinh (Mc 9:25-26); con trai vị đại đội trưởng (Lc 7:9-10), con trai viên sĩ quan cận vệ nhà vua (Ga 4:50), đứa bé với năm chiếc bánh và hai con cá (Ga 6:9).
*  Bối cảnh của đoạn Tin Mừng chúng ta trong sách Phúc Âm Máccô

Đoạn Tin Mừng của chúng ta (Mc 10:1-16) là một phần của bài hướng dẫn dài của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ của Người (Mc 8:27 đến Mc 10:45).  Tại khởi điểm của bài hướng dẫn này, Máccô đưa ra việc chữa lành người mù vô danh tại Béthsaiđa trong miền Galilêa (Mk 8:22-26); vào đoạn kết, việc chữa lành anh mù Batimê thành Giêricô trong miền Giuđêa (Mc 10:46-52).  Hai việc chữa lành là biểu tượng cho những gì sẽ xảy ra giữa Chúa Giêsu và các môn đệ.  Các môn đệ đã quá mù quáng bởi vì “họ có mắt mà không thấy” (Mc 8:18).  Các ông phải phục hồi lại thị giác của mình; các ông phải bỏ đi những tư tưởng đã ngăn cản các ông không nhìn thấy rõ; các ông phải chấp nhận Đức Giêsu như chính con người Chúa và không phải như người mà các ông muốn.  Lời hướng dẫn dài này nhằm để chữa trị việc mù lòa của các môn đệ.  Nó giống như một lược đồ hướng dẫn, một loại giáo lý, dùng chính Lời của Chúa Giêsu.  Thứ tự sau đây cho thấy chương trình giảng dạy:

Mc 8:22-26:  Chữa lành người mù
            Mc 8:27-38:  Loan báo lần thứ nhất về Cuộc Thương Khó
                        Mc 9:1-29:  Giảng dạy cho các môn đệ về Đấng Mêssia Tôi Tớ
            Mc 9:30-37:  Loan báo lần thứ hai về Cuộc Thương Khó
                        Mc 9:38 – 10:31:  Giảng dạy cho các môn đệ về việc hoán cải
            Mc 10:32-45:  Loan báo lần thứ ba về Cuộc Thương Khó
Mc 10:46-52:  Chữa lành người mù Batimê
            
Như chúng ta có thể thấy, sự giảng dạy gồm có ba lần loan báo về Cuộc Thương Khó.  Lần thứ nhất ở Mc 8:27-38, lần thứ hai ở Mc 9:30-37 và lần thứ ba ở Mc 10:32-45.  Giữa lần thứ nhất và lần thứ hai, chúng ta có một loạt các lời giảng dạy để giúp chúng ta hiểu được rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêssia Tôi Trung (Mc 9:1-29).  Giữa lần thứ hai và lần thứ ba, chúng ta có một loạt các lời giảng dạy để làm sáng tỏ việc hoán cải đòi hỏi phải xảy ra ở các mức độ khác nhau trong cuộc sống để chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêssia Tôi Trung (Mc 9:38-10:31).  Bối cảnh của toàn bộ lời giảng dạy là cuộc hành trình từ Galilê lên Giêrusalem.  Từ đầu đến cuối của lời chỉ dẫn dài này, Máccô thông báo rằng Chúa Giêsu đang trên đường tiến về thành Giêrusalem (Mc 8:27; 9:30-33; 10:1, 17-32), nơi mà Người sẽ nhận lấy thập giá.
Trong mỗi lần của ba lời loan báo về Cuộc Thương Khó thì được kèm theo bằng những cử chỉ và lời nói không thấu hiểu của các môn đệ (Mc 8:22; 9:32-34; 10:32-37) và bằng lời giáo huấn của Chúa Giêsu, nhận xét về sự kém hiểu biết của các môn đệ và dạy cho các ông cách phải ứng xử (Mc 8:34-38; 9:35-37; 10:35-45).  Một sự hiểu biết đầy đủ về lời giáo huấn của Chúa Giêsu sẽ không đạt được nếu chỉ qua lời dạy lý thuyết xuông, mà không có bất kỳ một dấn thân thực tiễn nào, cùng đồng hành với Người trên cuộc hành trình Phục Vụ, từ Galilêa đến thành Giêrusalem.  Những ai muốn duy trì ý tưởng của Phêrô, về một Đấng Cứu Thế vinh quang mà không qua thập giá (Mc 8:32-33), họ sẽ không hiểu được gì, và càng tệ hơn nữa là họ sẽ không có thái độ chân thực của người môn đệ sẵn sàng.  Họ sẽ tiếp tục mù lòa, lẫn lộn người ta với cây cối (Mc 8:24).  Nếu không vác thập giá thì không thể hiểu được Chúa Giêsu là ai và đi theo Chúa Giêsu thì có ý nghĩa gì.  Cuộc hành trình của sự giáo huấn là cuộc hành trình của sự tận hiến, từ bỏ, phục vụ, sẵn sàng, chấp nhận xung khắc, biết rằng sẽ có sự sống lại.  Cây thập giá không phải là một sự ngẫu nhiên trên đường, mà là dẫn đến một điểm nhất định trên cuộc hành trình.  Một thế giới được sắp xếp theo đẳng cấp thì bắt nguồn từ sự vị kỷ.  Chỉ có tình yêu và sự phục vụ mới có thể bị đóng đinh!  Kẻ nào từ bỏ cuộc sống mình mà phục vụ tha nhân, thì gây khó chịu cho những ai đang nắm giữ đặc quyền, và người ấy phải chịu đau khổ.
6.  Thánh Vịnh 24 (23)

Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, trèo lên đồi Canvê 
CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.

Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.

Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.

7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét