11/03/2018
Chúa Nhật tuần 4 Mùa Chay năm B
(Phần I)
Bài Ðọc I: 2 Sb 36,
14-16. 19-23
"Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và
giải phóng của dân tộc".
Trích sách Sử Biên Niên quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất
trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa
đã được Chúa thánh hoá tại Giêrusalem.
Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ,
vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người. Nhưng họ nhạo báng các sứ
giả Chúa, coi thường lời Chúa, và nhạo báng các tiên tri, đến nỗi, sau hết, cơn
thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người, và vô phương cứu chữa. Quân thù đã đốt đền
thờ Chúa, phá huỷ tường thành Giêrusalem, phóng hoả tất cả các lâu đài và thiêu
huỷ mọi đồ vật quý giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để
làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba-tư thống trị; như thế
ứng nghiệm lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia mà phán, cho đến khi đất nước
được mừng ngày Sabbat; vì trong tất cả những ngày xáo trộn, họ sẽ không giữ được
ngày Sabbat trọn bảy mươi năm trường.
Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba-tư, để lời Chúa dùng miệng tiên
tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế
Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ
rằng: "Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất
đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất
cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về
dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 136, 1-2. 3.
4-5. 6
Ðáp: Lưỡi tôi dính vào cuống họng,
nếu tôi không nhớ đến ngươi (c. 6a).
Xướng: 1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ
đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền
cầm của chúng tôi. - Ðáp.
2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng
tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion!". -
Ðáp.
3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người?
Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét. - Ðáp.
4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi
không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 2, 4-10
"Anh em chết bởi tội và được cứu rỗi bởi ân sủng".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương
cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải
chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng
ta được cứu rỗi; Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị
trên nước trời trong Ðức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi
dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu
Kitô? Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Ðiều đó không phải
do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai
được tự phụ. Vì chúng ta là thụ tạo của Người, đã được tạo thành trong Ðức
Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực
hành.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc
Âm: Ga 3, 16
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Mình, để tất cả những ai
tin Con Ngài, sẽ được sống đời đời.
Phúc Âm: Ga 3, 14-21
"Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu
độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn
lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những
ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì
không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của
Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu
độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt
rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến
thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu
xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng,
sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì
đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên
Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tội Lỗi Và Tình Thương
Lịch sử Dân Chúa là một lịch sử của ân sủng và tội lỗi, trung thành và bất
tín, đón nhận và từ chối, ánh sáng và bóng đen. Ðó là lịch sử một tình thương hải
hà, nhưng vô cùng mầu nhiệm.
Sách Khởi nguyên cho biết con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên
Chúa và sống trong tình thương yêu thân thiện của Người. Nhưng ngay từ những bước
đầu, tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian. Con người đã phản bội Chúa. Do hành vi
phản bội nguyên thủy này, tội lỗi bắt đầu thống trị. Tội phân lìa con người ra
khỏi Chúa, đẩy con người xa quỹ đạo sự sống và tình thương, biến cuộc sống con
người thành một xung khắc triền miên với bản thân, với anh em và với thế giới.
Lịch sử con người trở nên một lịch sử hận thù đầy chém giết, tham lam và tranh
chấp.
Bị dục vọng đè nén, con người không làm nổi điều thiện mình muốn, trái lại
cứ lao đầu vào hố sâu của tội ác.
Tội lỗi mãnh liệt như một quyền lực cứ luôn đè bẹp và cầm tù con người.
Lịch sử con cháu Ađam cho thấy tội lỗi như một vết dầu loang bao trùm cả
thế giới và vũ trụ, khiến mỗi người sinh ra trong tội (Tv 51,7).
Tội lỗi gieo rắc mầm mống sự chết khắp nơi và biến đổi thế giới sự sống
thành thế giới u sầu tang tóc.
Nếu chỉ dừng lại ở đây, chúng ta sẽ bi quan và thất vọng. Cuộc đời sẽ
hoàn toàn vô nghĩa và con người thà đừng sinh ra thì hơn (Yb 3,1-26).
Quả thật tội lỗi đã khiến hình ảnh Thiên Chúa trong con người bị hoen ố.
Con người đánh mất hết những vẻ diễm lệ yêu kiều, trở nên một tạo vật xấu xí trần
trụi; thân thể đầm đìa máu me và vết tích.
Không ai trong chúng ta có thể tự hào là đáng yêu, vì mỗi người đều đắm
chìm trong tội.
Nhưng, tình thương của Thiên Chúa thật nhiệm mầu. Người đã yêu thương ta,
khi ta còn là những kẻ có tội. Người khiến ta là những kẻ đã chết bởi sa ngã phạm
tội, được cùng hồi sinh với Ðức Kitô (Ep 2,5).
Tiên tri Êzêkiel ví Thiên Chúa như một người qua đường thấy dân mình quằn
quại trong vũng máu, quyết đưa về tắm rửa và trang điểm, biến thành như một thiếu
nữ mỹ miều xinh đẹp (Ez 16,6-14).
Thiên Chúa chăm sóc và nuôi dưỡng dân Người. Người để ý từng đường đi nước
bước của họ. Người trìu mến như người cha, dỗ dành như người mẹ, âu yếm như người
chồng. Nhưng dân Người lại là những kẻ tình nghĩa nhạt như nước ốc, lòng dạ bạc
như vôi.
Tiên tri Hôsê ví dân Chúa như một người vợ được chiều chuộng đủ điều,
nhưng vẫn quen thói thất trung, thích chạy theo khách mới. Thiên Chúa phải làm
mọi cách cho người vợ ấy trở về (Hs 2).
Sách Ký sự cho thấy mọi thành phần dân Chúa đều bất tín, từ đầu mục tư tế
cho đến thứ dân đã chạy theo những ngẫu tượng của ngoại bang. Họ làm hoen ố đền
thờ Chúa và xúc phạm Danh Thánh Người.
Thiên Chúa giàu lòng yêu thương đã sai nhiều sứ giả đến với họ, nhưng họ
vẫn giả điếc làm ngơ, và hơn thế nữa, họ còn nhạo báng, hành hạ và giết chết
các tiên tri.
Thiên Chúa, dù là Ðấng nhân ái từ bi, đã buộc lòng phải trừng phạt vì chạm
trán với lòng con người chai đá. Người cho dân đi lưu đày, mất quê hương, mất đền
thờ, mất tất cả, để từ đó họ khám phá lại những hồng ân lớn lao của Thiên Chúa.
Và đến ngày đã định, Thiên Chúa lại đưa dân về sau khi thanh luyện họ bằng
những biến cố xảy ra trong đời họ.
Thánh Phaolô ý thức sâu xa về thực trạng tội lỗi. Người đã kinh nghiệm về
hoạt động của tội trong chính bản thân, trong môi trường người sống và những
nơi người đến rao giảng.
Về bản thân, người đã thốt lên những lời chua xót:
Tôi thuộc về xác thịt, bị bán làm tôi sự tội (Rm 7,14).
Không phải tôi hành động, nhưng chính là tội lỗi cư ngụ trong tôi (Rm
7,17).
Mọi thứ luật khác chi phối chi thể tôi, giam cầm tôi trong tội (Rm 7,23).
Về nhân loại nói chung, người đưa ra một ý tưởng còn táo bạo hơn nữa.
Thiên Chúa đã đón mọi người vào đàng bất tuân, ngõ hầu dủ lòng thương hết
mọi người (Rm 11,32).
Thánh Phaolô thấy rõ tội lỗi của riêng mình và của toàn thể nhân loại,
nhưng người cũng nhận thức được tình yêu và thượng trí của Thiên Chúa. O�i thẳm sâu
thay sự giàu có, khôn ngoan và thượng trí của Thiên Chúa (Rm 11,33).
Thiên Chúa là Chúa của hồng ân, và "tội lỗi phát sinh càng nhiều, ân
sủng càng dồi dào gấp bội" (Rm 5,30).
Chính Ðức Yêsu Kitô là hồng ân trọn vẹn của Thiên Chúa. Người là dấu hiệu
của tình thương. Người là chính tình thương sâu thẳm bao la của Thiên Chúa.
Tình thương của Chúa Cha đã nhiều lần trở nên hữu hình trong lịch sử nhân
loại. Tình thương đã được tỏ bày nhờ nhiều sứ giả và qua nhiều biến cố. Và cuối
cùng, tình thương đã hoàn toàn biểu lộ trong một người, một gương mặt. Ðó là
Yêsu Kitô.
"Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình... để
thế gian nhờ Người mà được cứu độ..." (Yn 3,16).
"Thiên Chúa đã không dung tha chính Con mình, nhưng lại trao phó Người
cho tất cả chúng ta" (Rm 8,32).
Chúa Cha đã biểu lộ tình thương đối với loài người đến mức tối đa trong Ðức
Yêsu Kitô, Con của Người. Và chính Ðức Yêsu Kitô cũng đã yêu thương chúng ta đến
cùng độ:
"Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người chịu chết vì
kẻ mình yêu thương" (Yn 15,13).
Ðức Yêsu chấp nhận chịu treo trên Thập giá để sức mạnh tình yêu có thể
kéo mọi người lên với mình, nhưng với điều kiện là con người phải nhìn lên Thập
giá và tin vào Người.
Tình thương không bao giờ cưỡng bách, nhưng đòi hỏi một thái độ rõ rệt
đón nhận hay khước từ.
Ðức Yêsu Kitô đến, không để luận phạt thế gian, nhưng để cho thế gian được
cứu rỗi.
Ai tin, nghĩa là đón nhận tình thương, thì được sống; ai không tin thì tự
hủy diệt mình vì đã từ chối sự thật và ánh sáng.
Ðức Yêsu Kitô là dấu chỉ trọn vẹn tình thương của Chúa Cha, nên chỉ một
mình Người có quyền đòi hỏi thái độ dứt khoát:
"Ai không theo Ta là chống lại Ta".
Ai không chọn yêu thương thì không ở trong Thiên Chúa, nhưng sa lầy trong
tội.
Ðối với Người, chúng ta không có con đường thứ ba.
Giảng Lễ
"Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống thế, không phải để lên án thế
gian, nhưng để thế gian nhờ Người mà được cứu rỗi".
Ðó là nội dung Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay. Tin Mừng đó đã được chuẩn
bị từ thời Cựu Ước, nhưng chỉ được thực hiện từ thời Ðức Kitô.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng nhiều người, nhiều cách để loan
báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện ở nơi Con Một là Ðức Yêsu Kitô. Người đã tỏ
rõ ý chí của Người thương yêu nhân loại, không muốn thấy nhân loại chết đi như
trong vụ đại hồng thủy nữa, nên đã ký kết một giao ước tình thương với gia tộc
Noe, như ta đã nghe đọc trong Chúa nhật thứ nhất mùa Chay. Nhưng con cháu Noe
đã không trung thành sống theo giao ước. Thiên Chúa không vì vậy mà bỏ kế hoạch
tình thương. Người chọn một ngành trong gia tộc Noe để thực thi ý định. Abraham
đã được chọn như Chúa nhật II mùa Chay còn nhắc lại. Và đến khi con cái Abraham
đã trở nên đông đúc, Thiên Chúa quy tụ họ lại thành dân tộc, gọi là Dân riêng của
Chúa. Và Chúa nhật III mùa Chay cho ta thấy Người ban hiến pháp giao ước cho
dân tộc ấy. Tình thương của Người cứ bị họ lạm dụng. Ngay cả hàng tư tế trong
dân cũng làm đủ điều ghê tởm, khiến chính đền thờ Yêrusalem đã trở nên ô uế. Nếp
sống đồi trụy ấy dĩ nhiên đã mở đường cho địch quân xông vào tàn phá vườn nho của
Chúa. Nhưng Chúa vẫn không quên lời giao ước. Bài đọc I hôm nay cho ta thấy Người
dùng Cyrus khôi phục lại thánh đường Yêrusalem và dựng lại nước Israel. Cyrus,
Môsê, Abraham, Noe chẳng qua chỉ là những hình ảnh báo trước việc chính Con Một
Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc nhân loại. Và lần này phải dứt khoát và vĩnh
viễn. Thế nên trong bữa tiệc ly chúng ta cử hành bây giờ qua thánh lễ, Ðức Kitô
Cứu thế đã tuyên bố: Chén Máu Ngài cầm trong tay là chén Tân Ước vĩnh cửu, là
Giao ước mới mẻ và vĩnh viễn. Chúng ta cử hành thánh lễ, là kỷ niệm và đúc kết
lại tất cả con đường lịch sử cứu chuộc mà Thiên Chúa đã đi để cứu vớt loài người,
hầu đưa họ vào tình thân mật thánh thiện, làm nên hạnh phúc cho chính họ. Ý thức
nội dung của thánh lễ như vậy, chúng ta phải cố gắng để cử hành cho thật trang
trọng và sâu xa. Và chỉ có một cách cử hành tốt, là đón nhận Ðức Kitô và kết hợp
hoàn toàn với Người trong mầu nhiệm cứu thế.
Thế mà như lời Phúc Âm hôm nay viết: có nhiều người không đón nhận Ðức
Kitô là Cứu thế, vì họ sợ ánh sáng, sợ công việc tối tăm của họ bị lộ tẩy khi
tiếp xúc với ánh sáng. Họ muốn trốn ánh sáng, nhưng không thể trốn nổi, vì ánh
sáng đã đến trong thế gian. Chúa đã đem lời Phúc Âm từ trời xuống; và lời Phúc
Âm đã được rao giảng đến tai họ. Họ càng nhắm mắt lại, ánh sáng của Lời Chúa
càng chiếu soi trong lòng họ, khiến họ phải nhận ra mình đang còn nhiều nết xấu,
còn nhiều điều lệch lạc và phải canh tân sửa mình. Nhiều người sợ ánh sáng của
Chúa chiếu soi lương tâm, nên tìm cách lo nghĩ những công việc thế tục hầu để
lương tâm mình nằm yên trong tối tăm. Những người ấy không đón nhận ánh sáng,
không đón nhận Chúa Yêsu. Họ dự lễ, rước lễ như để Chúa ở bên ngoài tâm hồn và
đời sống. Ra khỏi nhà thờ, họ quên ngay những lời Thánh Kinh đã nghe và không
còn nhớ Chúa ở trong tâm hồn mình nữa. Họ sẽ chạy theo hết mọi tiêu chuẩn của
thế gian, khiến họ có đạo cũng dường như không có. Nhưng ai đón nhận ánh sáng
thì khác hẳn. Họ sẽ đưa lời Kinh Thánh vừa nghe đọc vào trong mình; họ sẽ nhờ
Chúa Thánh Thể đã ngự vào lòng họ. Sự hiện diện của Lời Chúa và của Thánh Thể sẽ
soi sáng lương tâm. Tối tăm sẽ dần dần dẹp đi và tâm hồn sẽ trong sáng, đời sống
họ sẽ trong sạch. Ðàng rằng ánh sáng của Chúa luôn cho ta thấy mình còn tội lỗi
và khuyết điểm. Nhưng đó là thứ ánh sáng chữa lành mọi vết thương, giống như những
người Dothái ngày trước nhìn vào con rắn đồng, đều được cứu sống. Bởi vì khi
ánh sáng của Chúa soi cho lương tâm biết tội lỗi của mình, thì đồng thời nó
cũng cho ta thấy những tội lỗi ấy có thể được đóng đinh trên thập giá Chúa
Kitô. Và như vậy tự nhiên ta sẽ cầu xin Ðức Kitô ở trên thập giá tiêu diệt giúp
tội lỗi cho ta và ta sẽ cảm thấy được lành mạnh.
Mùa Chay đang đi dần vào tuần Thương khó. Phụng vụ muốn ta chiêm ngưỡng
thập giá Chúa Kitô. Như Môsê đã treo con rắn đồng lên để người Dothái nhìn vào
hầu được cứu sống; thánh giá ngày này là nguồn ơn cứu độ mọi người, miễn là người
ta thấy cần và muốn được cứu rỗi. Chúng ta không thể hưởng nhờ mọi ân phúc của
mùa Chay, nếu không nhìn lên thánh giá như những người đang đau đớn vì tội lỗi.
Việc xưng tội trong mùa Chay cần là vì thế. Việc kiểm điểm đời sống để chừa bỏ
nết xấu là cùng chết với Ðức Kitô trong mầu nhiệm thương khó, hầu được sống lại
với Người. Chúng ta đừng làm công việc thống hối, ăn năn với sức lực của mình.
Bài thơ Phaolô đã nói rõ. Ơn cứu độ không đến với chúng ta qua sự nghiệp của ta
đâu, nhưng qua niềm tin, tin vào lòng lân tuất của Chúa đã cứu ta qua mầu nhiệm
tử nạn của Con Ngài. Chính đường lối cứu chuộc này khiến việc xét tội, ăn năn của
ta không còn phải chỉ là một công việc nặng nề và tiêu cực. Nhưng khi xét tội
ăn năn mà nhớ tới lòng Chúa đã rộng rãi với ta qua sự chết của Con Ngài, sẽ khiến
công việc diệt tội của ta đã được nâng đỡ bằng mầu nhiệm Phục sinh rồi. Nói như
vậy không phải để chúng ta làm công việc xét tội, ăn năn, dốc lòng một cách hời
hợt. Ngược lại, nhìn vào thánh giá Ðức Kitô như nơi phải đóng đinh tội lỗi,
chúng ta biết phải ăn năn thống hối thế nào mới được kết quả. Người muốn được
ơn tha thứ và trở nên thánh thiện, phải đặt tất cả niềm tin vào thập giá Ðức
Kitô và như vậy phải muốn tiêu diệt tội lỗi như Người. Người chấp nhận đóng
đinh trong tình yêu mến Chúa Cha và thương xót loài người. Chúng ta cũng phải
tiêu diệt tội lỗi với ý hướng mến Chúa và thương yêu đồng loại hơn. Nỗ lực canh
tân đời sống, có nằm trong chiều hướng cứu thế, mới đóng góp, tham dự vào mầu
nhiệm thánh giá và mới đưa tới việc tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh.
Thế nên ta phải gia tăng lòng mến để đi vào các tuần thương khó. Ta phải
chia sẻ lòng Chúa Cha thương yêu muốn cho loài người được hạnh phúc, để bằng
lòng kết hợp với Ðức Kitô trong mầu nhiệm chết cho tội lỗi.
Mầu nhiệm này ta sắp cử hành nơi bàn thờ. Thánh lễ hôm nay cũng như mọi
thánh lễ, kêu gọi ta nhìn vào mầu nhiệm thánh giá như bằng chứng Chúa thương
yêu loài người nên chịu chết cho loài người, để ta tham dự vào tình yêu ấy mà
muốn canh tân đời sống để thế giới được hạnh phúc và thánh thiện hơn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật IV Mùa Chay,
Năm B
Bài đọc: II
Chro 36:14-17, 19-23; Eph 2:4-10; Jn 3:14-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình
thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại
sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc
như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào
Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng
thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc
I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục
con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra
lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc
II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến
cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn
Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án
thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh
cáo con người:
- Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng
quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm
bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức
Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
- Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật,
họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận
các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả
của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người.
Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu
các ngôn sứ của Người.”
1.2/ Ngài sửa phạt dân
như lời Ngài đã cảnh cáo:
- Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố
chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt
dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các
thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh
niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào
tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem,
phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai
còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ
của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”
- Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó,
chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa
phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ
nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót
thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn
ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
1.3/ Thiên Chúa sửa phạt
rồi lại xót thương:
- Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực
lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu.
Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải
hư mất. Ngài hòan lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ,
và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
- Thiên Chúa có tòan quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ
qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng
xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua
Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái,
cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo
trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là
chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô
Giêsu.
2.1/ Thiên Chúa tỏ tình
yêu cho con người qua Đức Kitô:
- Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi
làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người
quay về với tình yêu Thiên Chúa.
- Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu
thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người
con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ
ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
- Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat
con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình
thương Thiên Chúa.
- Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức
Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa
cho con người.
2.2/ Chúng ta được cứu độ
là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
- Hòan tòan là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt
Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết.
Nhưng tại sao con người không phải chết là hòan tòan do lòng thương xót của
Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều
Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này,
con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà
anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên
Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
- Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô
Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng
ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người
và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này,
họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là
muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy
sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/ Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ
hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa
Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước
về Cuộc Khổ Nạn của Người:
- Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết
(Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng
sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
- Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng
trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải
tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương
Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính
Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
3.2/ Thiên Chúa không kết
án thế gian, con người lên án chính mình:
- Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai
Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai
Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế
gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
- Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào
Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin,
thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
3.3/ Bản án của con người:
“Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian,
nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
- Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên
Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin
vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
- Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong
bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người
phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn
bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng
ngoan cố ở trong bóng tối.
- Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình.
Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở
trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology,
“phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hòan tòan tùy thuộc vào
phán xét hiện tại.
- Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các
tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội
ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả
thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc
họ làm khỏi bị chê trách.”
- Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi
nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh
sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên
Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của
Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình
giáo dục.
- Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu
không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
- Cần nhìn tòan thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể
phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất
niềm tin nơi Ngài.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
11/03/2018
CHÚA NHẬT TUẦN 4 MC – B
Ga 3,14-21
Ga 3,14-21
ÁNH SÁNG ĐẨY LÙI BÓNG TỐI
“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối
hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa… Những kẻ sống theo sự thật thì đến
cùng ánh sáng.” (Ga 3,19-21)
Suy niệm: Ánh sáng và bóng tối không bao giờ song hành hay thỏa hiệp với nhau.
Có ánh sáng thì bóng tối bị đẩy lui; khi ánh sáng vụt tắt thì bóng tối xuất hiện.
Theo Thánh Kinh, bóng tối là nơi quyền lực sự dữ tung hoành, nơi người ta phạm
tội. Khi mô tả Giu-đa đang âm mưu bán Chúa, Thánh Kinh nói rằng ông đã ra khỏi
phòng và lao vào trong đêm tối. Để phạm tội, người ta cần bóng tối che đậy và đồng
lõa. Có những người thích bóng tối, “vì các việc họ làm đều xấu xa.” Ngược
lại, những người muốn sống thánh thiện, họ thích đến cùng ánh sáng. Ánh sáng
này là ánh sáng phát xuất từ Đấng đã giới thiệu “Ta là ánh sáng thế
gian” (Ga 8,12). Ánh sáng vật lý không thể chiếu xuyên tâm hồn con người,
còn ánh sáng Chúa Ki-tô có khả năng xuyên thấu: xuyên thấu tâm hồn Phê-rô, giúp
ông thống hối trở lại với Chúa; ánh sáng đó có khả năng biến đổi: làm cho
Sao-lê, từ một người hung hăng bắt đạo trở nên vị tông đồ trung thành của Chúa
Giê-su và nhiệt thành trong công cuộc truyền giáo.
Mời Bạn: Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI nói: ngay cả trong đêm tối nhất, Chúa
Giê-su vẫn là ánh sáng không bao giờ tắt. Ánh sáng của Ngài là lời của Ngài (Tv
119) và là chính Ngài (Ga 8,12). Vậy, đón nhận ánh sáng là đón nhận Lời Chúa và
rước Chúa.
Sống Lời Chúa: Đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, chuyên chăm tham dự thánh lễ và rước
Chúa cách xứng đáng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh
sáng chỉ đường con đi (Tv 119,105).
(5 phút Lời Chúa)
CHUỘNG TỐI HƠN SÁNG (11.3.2018 – Chúa nhật 4 Mùa Chay, Năm B)
Thập giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau, nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu. Kitô hữu không phải là người tôn thờ đau khổ, nhưng là người say mê tình yêu:
Suy niệm:
Cúp điện bất ngờ là điều
gây khó chịu.
Trong bóng tối, người ta
đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng
để thắp lên một ngọn nến,
một cái đèn dầu.
Nói chung chẳng ai thích
bóng tối,
vì bóng tối là dấu hiệu
của lạc hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế mà cũng có những
người mê bóng tối.
Bóng tối của quán bia ôm,
của karaokê, của sàn nhảy...
Phải bỏ tiền ra để mua
được bóng tối.
Bóng tối đồng lõa, che
đậy, lấp liếm, làm mặt nạ.
Bóng tối trong tâm hồn
cần có bóng tối ở ngoài.
Nó sợ ánh sáng làm lộ
chân tướng.
“Ánh sáng đã đến thế
gian,
nhưng người ta đã chuộng
bóng tối hơn ánh sáng,
vì các việc họ làm đều
xấu xa”.
Ghét ánh sáng, chuộng
bóng tối:
đó là thảm kịch nơi lòng
con người,
bởi lẽ con người được
sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm khi người ta từ chối
tin vào Ðức Kitô,
từ chối đến với ánh sáng
và sự thật,
chỉ vì đời họ chìm trong
bóng tối và giả trá.
Những lý do biện minh cho
sự từ chối này
thường đến sau khi đã
chọn lựa.
Cần thay đổi cuộc sống để
tin hơn vào Thiên Chúa,
nhưng cũng cần can đảm
đến với ánh sáng
dù biết mình đang chìm
trong bóng tối;
hay đúng hơn, vì biết
mình nô lệ cho bóng tối
mà ta khao khát vươn tới
ánh sáng.
Ðừng trốn chạy ánh sáng
như Ađam, Evà.
Hãy để cho ánh sáng vén
mở chính mình,
bắt ta đối diện với sự
thật trần trụi về mình,
để rồi ta được rực rỡ
trong niềm vui.
Chỉ có một cách ra khỏi
bóng tối
đó là trở lại với ánh
sáng,
bằng cách ngước nhìn
lên...
Dân Do Thái xưa trong sa
mạc đã được chữa lành
nhờ tin tưởng nhìn lên
con rắn đồng treo trên cây gỗ.
Ngày nay, chúng ta được
cứu độ, được sự sống đời đời
nhờ tin tưởng nhìn lên
Ðức Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập giá là tột cùng của
nhục nhã đớn đau,
nhưng cũng là biểu hiện
tuyệt vời của một tình yêu.
Kitô hữu không phải là
người tôn thờ đau khổ,
nhưng là người say mê
tình yêu:
tình yêu của Cha khi trao
ban người Con yêu dấu,
tình yêu của Con khi hiến
tặng mạng sống mình.
Nhiều nơi đã đặt tượng
Chúa phục sinh trên thập giá,
nhờ đó bầu khí nhà thờ
tươi vui hơn.
Nhưng ta vẫn không được
quên nhìn lên
thân xác bầm tím nát tan
của Ðức Giêsu trên Núi Sọ.
Ước gì tôi biết nhìn lên
tình yêu bị treo
và trở lại với ánh sáng
để ánh sáng đưa tôi vào
sâu hơn trong tình yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu
tạ ơn Chúa đã cho chúng con
ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa
vì Chúa đã gọi chúng con
là ánh sáng.
Đó là vinh dự
và cũng là một trách
nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối
của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất
vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong
lòng chúng con,
và biết vâng theo những
soi sáng của Chúa
qua từng phút giây của
cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và
bóng tối
vẫn còn tiếp diễn
trên thế giới và trong
lòng chúng con.
Ước gì chúng con
đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG BA
Nước Hằng Sống Phát
Xuất
Từ Trái Tim Đức
Kitô
“Nguơi hãy gõ vào tảng
đá, và nước sẽ chảy ra từ đó” (Xhh 17,6). Thiên Chúa Gia- vê đã bảo Mô-sê trong
sa mạc như thế. Từ tảng đá ấy, con cái It-ra-en nhận được nguồn nước giúp họ sống
trong suốt hành trình tiến về Đất Hứa. Cũng vậy, từ trái tim của Đức Kitô, Đấng
chết khát trên Thập Giá, chúng ta nhận được nguồn nước hằng sống nuôi dưỡng
chúng ta trên hành trình đức tin.
Và cũng như trong thời
Xuất Hành, con người hôm nay khao khát nguồn nước cứu độ đến từ Đức Kitô. Giáo
Hội loan báo chân lý này cho những ai lắng nghe. Giáo Hội hiện diện trong thế
giới để giúp người ta tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, để nhờ đức tin, người
ta nhận được sự sống nhân danh Người. Những ai lắng nghe Giáo Hội, Giáo Hội hướng
dẫn họ sống trong sự sống này và, qua đó, xây dựng Thân Mình Chúa Kitô. Giáo Hội
sẽ không ngừng nỗ lực hết sức mình cho mục tiêu cao nhất này: làm cho mọi người
nhận biết Đức Kitô – một sự nhận biết có sức cứu độ.
Hạnh Các Thánh
Ngày 11 Tháng 3
Thánh Gioan Ogilvie
(1579 - 1615)
Thánh Gioan Ogilvie
sinh trong một gia đình Tô Cách Lan mà nửa Công Giáo, nửa Tin Lành
Presbyterian. Cha ngài theo phái Calvin (*) và cũng muốn Gioan trở thành người
của giáo phái ấy nên đã gửi ngài vào đất liền để đi học. Ở đây Gioan thích thú
theo dõi những cuộc tranh luận giữa các học giả Công Giáo và Calvin. Bị hoang
mang về những tranh luận của các học giả Công Giáo, ngài tìm đến Kinh Thánh.
Hai câu sau đây đã thức tỉnh ngài: "Thiên Chúa muốn mọi người được cứu
chuộc, và nhận biết chân lý," và "Hãy đến cùng Ta những ai mệt
mỏi và ê chề, Ta sẽ thêm sức cho ngươi."
Dần dà, Gioan hiểu rằng
Giáo Hội Công Giáo yêu quý tất cả mọi người. Trong những người ấy, ngài nhận thấy
có nhiều vị tử đạo. Ngài quyết định trở thành người Công Giáo và được đón nhận
vào Giáo Hội tại Louvain, nước Bỉ, năm 1596 khi 17 tuổi.
Gioan tiếp tục việc học,
đầu tiên với các cha dòng Biển Ðức, sau đó là một sinh viên của học viện Dòng
Tên ở Olmutz. Ngài gia nhập dòng Tên và trong 10 năm kế tiếp, ngài chăm chỉ rèn
luyện tâm linh cũng như kiến thức. Ðược thụ phong linh mục ở Pháp năm 1610,
ngài gặp hai linh mục dòng Tên vừa mới từ Tô Cách Lan trở về, sau khi bị bắt và
bị cầm tù. Các ngài thấy ít có hy vọng thành công trong việc rao giảng Tin Mừng
dưới sự khắt khe của chính quyền nước ấy. Nhưng một ngọn lửa đã nhen nhúm trong
lòng Cha Gioan. Trong hơn hai năm kế đó, ngài đã khẩn khoản xin đi truyền giáo ở
Tô Cách Lan.
Ðược bề trên cho phép,
ngài bí mật vào Tô Cách Lan giả dạng người buôn ngựa hoặc một quân nhân trở về
từ cuộc chiến Âu Châu. Thấy không thể thi hành được việc gì đáng kể cho thiểu số
Công Giáo ở Tô Cách Lan, Cha Gioan trở về Balê để hội ý bề trên. Bị khiển trách
vì đã tự ý bỏ nhiệm vụ ở Tô Cách Lan, ngài được sai trở lại đó. Lần này, ngài
hăng say hơn và có một vài thành công trong việc hoán cải cũng như kín đáo phục
vụ người Công Giáo Tô Cách Lan. Nhưng không bao lâu, ngài bị phản bội, bị bắt
và bị đưa ra toà.
Phiên xử ngài kéo dài
đến 26 giờ đồng hồ mà ngài không được ăn uống gì. Ngài bị cầm tù và không cho
ngủ. Trong tám ngày và đêm, ngài bị lôi đi như một con vật, bị đâm bằng cây vót
nhọn, và tóc bị giật ra từng mảng. Tuy nhiên, ngài vẫn không chịu tiết lộ tên
các người Công Giáo hoặc chấp nhận luật lệ của vua về vấn đề tôn giáo. Ngài trải
qua phiên tòa lần thứ hai và thứ ba nhưng vẫn cương quyết giữ vững lập trường.
Trong phiên tòa cuối cùng, ngài quả quyết với các quan tòa: "Trong tất
cả những gì liên hệ đến vua, tôi sẽ vâng lời một cách mù quáng; nếu quyền lực
trần thế của vua bị tấn công, tôi sẽ đổ giọt máu cuối cùng vì vua. Nhưng trong
những luật lệ tôn giáo mà vua đã áp đặt cách bất công, tôi không thể và cũng
không phải vâng theo."
Bị kết án tử hình về tội
phản quốc, ngài đã trung tín cho đến cùng, ngay cả khi đứng trên đoạn đầu đài
và được hứa sẽ trao trả tự do nếu từ chối đức tin. Ngài bị treo cổ ở Glasgow
năm 1615 lúc ba mươi sáu tuổi.
Cha Gioan Ogilvie được
phong thánh năm 1976, là vị thánh Tô Cách Lan đầu tiên kể từ năm 1250.
* Phái Calvin là một
phương thức giải thích Phúc Âm theo John Calvin. Calvin sống ở Pháp trong thập
niên 1500 đồng thời với Martin Luther, người phát động phong trào Cải Cách Tin
Lành.
Phương thức Calvin bám
vào các điểm cực đoan của phúc âm và tìm cách đưa ra các công thức thần học chỉ
dựa trên lời Chúa. Họ nhắm đến sự tối thượng của Thiên Chúa, khẳng định rằng
Thiên Chúa thì có thể và sẵn sàng thể hiện bất cứ điều gì Ngài muốn đối với tạo
vật, vì Ngài thông suốt mọi sự, ở khắp mọi nơi và toàn năng. Họ cũng cho rằng
trong Phúc Âm có các dạy dỗ sau: Thiên Chúa, qua ơn sủng tối cao, Ngài tiền định
cho con người được ơn cứu độ; Ðức Giêsu chỉ chết cho những ai đã được tiền định;
Thiên Chúa tái sinh những ai mà Ngài thấy họ có thể và muốn chọn theo Thiên
Chúa; và những người đã được cứu độ không thể nào mất ơn ấy.
Trích từ
NguoiTinHuu.com
11 Tháng Ba
Cái Tách Thân Thương
Thánh Phanxico
Assisi, nhân vật chính trong quyển tiểu thuyết: "Người nghèo của
Chúa" do văn sĩ Hy Lạp Nikos Kazantakis biên soạn, đã kể cho huynh Lêô
nghe câu chuyện như sau:
"Có một vị ẩn
sĩ nọ được nhìn thấy Chúa, nhưng không bao giờ đạt được ước nguyện. Vẫn còn một
cái gì vướng mắc trong cái nhìn khiến ông không thể nào nhìn thấy Chúa được.
Càng cố gắng đọc kinh cầu nguyện bao nhiêu, càng ăn chay hãm mình bao nhiêu,
ông càng thất vọng bấy nhiêu. Ông vẫn không hiểu đâu là chướng ngại khiến ông
không thể trông thấy Chúa được.
Thế rồi, một buổi
sáng nọ, khi vừa ra khỏi giường, ông bỗng reo hò sung sướng, thì ra ông đã tìm
ra lý do. Ðó là một cái tách uống nước nhỏ, nhưng rất đẹp mà gia đình đã tặng
cho ông. Ðây là kỉ niệm duy nhất của gia đình mà ông cố gắng gìn giữ như một
báu vật. Và dĩ nhiên, đây cũng là của cải trần thế duy nhất mà ông còn bám víu
vào.
Không một chút do dự
luyến tiếc, vị ẩn sĩ cầm lấy chiếc tách thân yêu ném xuống nền nhà: Từng mảnh vụn
vỡ ra, từng luyến tiếc tan vỡ...
Vị ẩn sĩ ngước nhìn
lên, và sáng hôm sau ông đã nhìn thấy Chúa".
Sách xuất hành đoạn 33
từ câu 18 đến câu 23 thuật lại rằng: một hôm Môisen thưa với Chúa rằng ông ước
ao được nhìn thấy Dung Nhan Ngài. Lúc bấy giờ Chúa mới trả lời cho Môisen:
"Không ai có thể nhìn thấy Ta mà vẫn còn sống". Liền sau đó, Thiên
Chúa bảo Môisen nấp sau một tảng đá lớn để chỉ nhìn thấy sau lưng của Ngài mà
thôi.
Khao khát được nhìn thấy
Chúa: đó cũng phải là ước mơ duy nhất của người tín hữu Kitô. Chúng ta được tạo
thành cho Chúa, chúng ta chỉ được yên nghỉ khi được ngắm dung nhan Ngài mà
thôi! Nhưng không ai có thể nhìn thấy nhan Chúa mà vẫn còn sống. Ðiều đó có
nghĩa là nỗi khao khát được thấy Chúa chỉ lớn lên trong chúng takhi chúng ta biết
dẹp bỏ những vướng bận và vướng ngại trong chúng ta... Chúa Giêsu nói với chúng
ta rằng: của cải chúng ta ở đâu thì tâm trí chúng ta cũng ở đó. Nếu chúng chạy
theo tiền của, danh vọng, lạc thú thì lòng trí chúng ta sẽ không muốn tưởng
nghĩ đến Chúa.
Có chết đi cho bản
thân, chúng ta mới khao khát gặp gỡ Chúa... Thiên Chúa cho chúng ta thấy được đằng
sau lưng của Ngài, phải chăng đó không phải là sự hiện diện và tác động của
Chúa trong các biến cố và những gặp gỡ của chúng ta với tha nhân?... Có ra khỏi
chúng ta, chúng ta mới có thể nhìn thấy bóng dáng của Chúa trong các biến cố của
cuộc sống chúng ta. Có ra khỏi chúng ta, chúng ta mới thấy được sự hiện diện của
Chúa trong người anh em của chúng ta.
Trích sách Lẽ Sống






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét