11/03/2018
Chúa Nhật tuần 4 Mùa Chay năm B
(Phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật IV Mùa Chay,
năm B
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY NĂM B
2Sb 36,14-16.19-23; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21
TIN CẬY VÀO TÌNH YÊU CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình,
để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống
đời đời”
(Ga 3,16)
Chúa Nhật hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Hồng giữa Mùa Tím”.
Mùa Chay là mùa của màu tím. Tím của sám hối, hãm mình, nên tím mang nét buồn
bã u sầu. Tuy nhiên, Công Giáo không phải là đạo của bi quan, u sầu buồn bã.
Màu tím còn là màu của hy vọng. Hy vọng được ơn cứu thoát, hướng đến ngày Chúa
cứu chuộc chúng ta. Ngày đó sắp đến gần. Vì thế, Chúa Nhật hôm nay trong Mùa
Tím nhưng mang màu hồng của niềm vui: Niềm vui đón nhận tình thương cứu độ của
Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1: 2Sb 36,14-16.19-23
Sách Sử Biên Niên được xem là cuốn sách ghi lại lịch sử
thánh của dân Chúa. Bài đọc I trích 2Sb 36,14-16.19-23 thuộc chương cuối của
Sách Sử Biên Niên cuốn 2. Đoạn sách này nằm trong phần nói về lịch sử của vương
quốc Giuđa, từ thời Salômon băng hà đến thời bắt lưu đày ở Babylon (chương
10-36), đặc biệt nằm trong phần nói về cuộc canh tân toàn diện đời sống dân
Giuđa (chương 28-36). Đoạn này được xem là bản tóm lược lịch sử dân Chúa ở
vương quốc phía Nam/Giuđa, vì bất tín và sa đọa nên dân bị trừng phạt bằng cuộc
xâm chiếm của dân ngoại và phải đi lưu đày ở Babylon, nhưng kết thúc trong viễn
ảnh được phục hồi.
Vào cuối thời quân chủ, trong vương quốc Giuđa, tất cả những
đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các
dân ngoại và làm dơ bẩn Đền Thờ Chúa (x. c. 14). Dù dân bất trung, nhưng Thiên
Chúa vẫn không bỏ mặc họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người,
nên Người không ngừng gửi các sứ giả đến cảnh tỉnh họ (x. c. 15). Thế nhưng,
dân Chúa không chịu hoán cải mà trở về với Người. Họ còn nhạo báng các sứ giả
và tiên tri, coi thường lời Chúa, nên Người đã giáng cơn thịnh nộ lên dân Người
(x. c.16). Thiên Chúa đã để họ rơi vào tay quân ngoại bang, khiến Đền Thờ,
thành Giêrusalem, và các lâu đài dinh thự bị thiêu hủy (x. c. 19). Ai còn sống
sót lại bị đưa đi lưu đày, sống kiếp nô lệ ở Babylon (x. c. 20). Đó như một liều
thuốc cực mạnh Thiên Chúa dùng để chữa trị căn bệnh “bất trung” trầm kha của
dân, khiến họ biết lỗi mà quay trở về hầu được cứu.
Thiên Chúa đã tỏ lòng xót thương dân Người khi họ biết lỗi
mình và ăn năn. Người đã tác động vào tâm hồn vua Cyrô (nước Batư) để vua này
cho dân Israel được hồi hương. Họ trở về trong hân hoan để tái thiết Đền Thờ,
phục hồi đời sống tôn giáo và tái lập tương quan mật thiết với Thiên Chúa.
Thiên Chúa dìu dắt nâng niu dân, nhưng có khi đánh phạt rồi lại xót thương.
Thiên Chúa làm mọi cách miễn sao dân thay đổi đời sống để hưởng ơn cứu độ Người
ban, vì Người không muốn một ai phải hư mất.
2. Bài đọc 2: Ep 2,4-10
Bài đọc II trích thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu
Êphêsô, tiếp nối tư tưởng của Bài đọc I, và đó cũng là các điểm chính yếu trong
cứu độ học theo tư tưởng Thần Học Phaolô:
Trước hết, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi (xót thương):
Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi ngay cả khi tội lỗi làm cho chúng ta phải
chết, thì Người đã làm cho chúng ta cùng sống lại trong Ðức Kitô và cùng ngự trị
trên Nước Trời với Đức Giêsu Kitô (x. cc. 5-6). Kế đến, Thiên Chúa tỏ lòng nhân
hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giêsu Kitô (x. c. 7). Thêm vào đó,
chúng ta được cứu độ nhờ ân sủng của Thiên Chúa và nhờ đức tin của chúng ta, chứ
không phải do việc chúng ta làm.
Đây là giáo lý về cứu độ học của Phaolô: được cứu độ, được
công chính hóa là ân sủng Thiên Chúa ban cách nhưng không cho chúng ta trong Đức
Giêsu Kitô. Chúng ta đón nhận ân sủng bằng việc tin Đức Giêsu là Đấng Kitô, Cứu
Chúa của chúng ta (x. Gl 2,16), và đáp lại ân sủng đó bằng việc thực thi bác
ái, vì “đức tin hành động bằng đức ái” (Gl 5,6).
3. Bài Tin Mừng: Ga 3,14-21
Đoạn Tin Mừng hôm nay trích từ phần cuối của cuộc đối thoại
giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô (Ga 3,1-21). Trong cuộc đối thoại đó, Đức Giêsu
đã khẳng định: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một
lần nữa bởi ơn trên” (c. 4) và “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không
sinh ra bởi nước và Thần Khí” (c. 5). Khi nghe như thế, ông Nicôđêmô thắc mắc:
“Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được” (c. 9). Theo cách nhìn của loài
người thì không thể xảy ra, nhưng dựa vào Tình thương cứu độ của Thiên Chúa thì
có thể, điều căn bản là con người cần phải “sinh lại” để đổi mới đời sống hầu xứng
đáng đón nhận ơn cứu độ Chúa ban.
Về phía Thiên Chúa, “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng
được sống đời đời” (c. 16). Tình yêu vượt qua hận thù để tha thứ, vượt lên trên
cái chết để phục hồi sự sống và cho sống muôn đời. Cách thế cứu độ của Thiên
Chúa cũng khác với cách suy nghĩ của loài người: “Như Môsê đã treo con rắn lên ở
sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai
tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời” (cc. 14-15).
Trong sa mạc Sinai, dân bất trung, bất tín với Đức Chúa nên
đã kêu trách và xúc phạm đến Người. Do đó, Đức Chúa đã để cho rắn độc hại dân.
Nhờ đó, họ đã biết tội lỗi mình mà ăn năn, xin tha thứ. Đức Chúa đã cứu họ, bằng
cách truyền cho ông Môsê làm một con rắn đồng và treo lên cây cột, để những
ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống (x. Ds 21, 5-9).
Con rắn là thứ gây ra chết chóc, nhưng Đức Chúa đã dùng biểu
tượng của sự chết chóc đó để cứu sống. Sự cứu thoát không đến từ con rắn, nhưng
đến từ Đấng đã truyền treo con rắn lên, và nhờ vào lòng tin của con người vào Đấng
có quyền cho dân được sống. Thập giá cũng thế. Thập giá là biểu tượng của sự chết,
là biểu tượng mà người Do-thái coi là ô nhục và dân Hy-lạp coi là điên rồ,
nhưng ơn cứu độ lại đến từ Đấng trao ban Người Con, và nhờ Người Con là “Con
Người” (một trong các tước hiệu của Đấng Cứu Thế) được treo lên đó để chết thay
mọi người. Hễ ai tin vào Con Người, tin Người có quyền năng cứu thoát và tin
vào tình thương của Thiên Chúa thì sẽ được cứu độ.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Thiên Chúa đã luôn sai sứ giả đến với họ, vì Người thương
xót dân Người và đền thờ của Người,... sau hết, cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên
dân Người. Thiên Chúa tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ngay cả khi dùng đau khổ hoạn
nạn để cảnh tỉnh chúng ta, nhưng Người đánh phạt rồi lại xót thương, với mục
đích giúp chúng ta nhận biết tội lỗi mình, ăn năn trở về với Chúa để được cứu.
Chúa không muốn ai trong chúng ta hư mất, nhưng muốn mọi người được sống đời đời.
Có khi nào tôi luôn kêu trách Chúa mà không than trách bản thân vì tội lỗi của
mình?
2. Bởi ân sủng Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Chúng
ta được cứu độ là nhờ ân sủng vô biên của Thiên Chúa, và chúng ta đáp lại bằng
đức tin của chúng ta vào Đức Giêsu Kitô. Để đáp lại ân sủng nhưng không của
Chúa, chúng ta phải thể hiện đức tin đó ra bằng hành động bác ái, như Thánh
Phao lô nói: “đức tin hành động bằng đức ái” (Gl 5,6) và thánh Giacôbê nhấn mạnh:
“đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Trong Sứ Điệp
Mùa Chay 2018, ĐGH Phanxicô nhắc chúng ta: “Vì sự ác lan tràn, nên tình yêu của
nhiều người bị nguội lạnh” và “Điều dập tắt tình bác ái trước tiên là sự ham hố
tiền bạc, ‘là căn cội của mọi sự ác’”. Ngài cũng nhắc nhở rằng trong các cộng
đoàn, có những dấu chỉ rõ ràng nói lên sự thiếu bác ái như thế, đó là thái độ
ích kỷ lười biếng, bi quan vô bổ, cám dỗ muốn cô lập mình và dấn thân trong những
cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn liên tục, là não trạng trần tục chỉ bận tâm
tới những gì bề ngoài và như thế là làm giảm bớt nhiệt huyết truyền giáo. Tôi
có muốn đẩy lui sự ác để gieo trồng mầm bác ái bằng cách trách xa những điều
trên?
3. Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt
thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Thiên Chúa không luận
phạt khi con người biết sám hối ăn năn mà xin tha thứ. Sứ Điệp Mùa Chay 2018 viết:
Hội Thánh đem đến cho chúng ta trong Mùa Chay này những phương thuốc chữa lành
trong lời cầu nguyện, bố thí và chay tịnh. Nhất là bằng cách dành nhiều thời
gian hơn để cầu nguyện, chúng ta có thể nhổ tận gốc khỏi con tim mình những lời
dối trá bí ẩn và những hình thức tự lừa dối, và rồi tìm thấy niềm an ủi mà Chúa
mang đến cho chúng ta. Ngài là Cha của chúng ta và Ngài muốn chúng ta sống tốt
đẹp. Để đón nhận điều đó, Hội Thánh ấn định dịp cuối tuần này (vào thứ Sáu ngày
mồng 9 và thứ Bảy ngày mồng 10 tháng 3) là cơ hội thuận tiện trong năm khi thực
hiện là sáng kiến “24 giờ cho Chúa”, qua việc cử hành bí tích Hòa Giải trong giờ
Chầu Thánh Thể. Tôi có sẵn sàng tham dự các cuộc cử hành này không?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của
Người là Đức Giêsu Kitô đến trần gian để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa và
ban cho chúng ta sự sống đời đời. Trong tâm tình cảm tạ và tín thác, cộng đoàn
chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:
1. Hội Thánh có sứ mạng gìn giữ, bảo vệ và phát triển kho
tàng đức tin chân thật. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội
Thánh biết ý thức chu toàn sứ mạng cao cả của mình, luôn trung thành với đức
tin tinh tuyền khi đối thoại với những người không tin nhận Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa đã sai Con của Người giáng trần không phải để
luận phạt nhưng để cứu độ thế gian. Chúng ta cùng cầu xin cho con người thời đại
biết tin nhận Đức Giêsu Kitô “là đường, là sự thật và là sự sống”, để khi hết
lòng thờ phượng và bước đi trong ánh sáng của Người, họ sẽ thực sự được biến đổi.
3. Thánh Phaolô khẳng định: “Chính do ân sủng và nhờ lòng
tin mà anh em được cứu độ.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi kitô hữu, cách
riêng những ai đang lầm đường lạc lối, biết nhận ra lòng bao dung nhân hậu của
Thiên Chúa mà hoán cải trở về với Người trong mùa chay thánh này.
4. “Ai hành động theo sự thật thì đến cùng ánh sáng.” Chúng
ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết tôn trọng và
bênh vực sự thật, để qua đời sống quảng đại tha thứ và nhiệt tình phục vụ, mỗi
người trở nên gương sáng trong môi trường và hoàn cảnh sống của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ! Xin nhận lời chúng con
cầu nguyện và thương ban muôn ơn lành cùng một niềm tin kiên vững, để chúng con
luôn can đảm dõi theo ánh sáng và làm chứng cho tình yêu của Chúa trong cuộc sống
hằng ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
www.tgpsaigon.net
SCĐ CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY B
CHỦ ĐỀ :
KHUYẾN KHÍCH SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC CỨU
Các bài đọc hôm nay minh họa cho sơ đồ thường gặp trong
Thánh Kinh : Tội phạt hối cứu, nghĩa là vì phạm tội nên con người bị phạt –
nhưng nếu biết sám hối thì được cứu.
- Bài đọc I (2 Sb 36,14-16.19-23) : Trong cảnh khổ của thời
lưu đày, dân do thái đã ăn năn nên Thiên Chúa cho vua Kyrô ra chiếu chỉ cho họ
hồi hương.
- Bài Tin Mừng (Ga 3,14-21) : Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện
con rắn đồng. Ai phạm tội mà nhìn lên nó thì được cứu.
- Bài đọc II (Êp 2,4-10) : Tội lỗi khiến con người phải chết,
nhưng nhờ Đức Giêsu nên con người lại được sống.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Trong cuộc hành trình Mùa Chay, chúng ta đã đi được nửa đường.
Bây giờ là lúc chúng ta phải sám hối và đổi mới cuộc sống. Khi chúng ta phạm tội,
chúng ta xứng đáng bị phạt. Nhưng nếu chúng ta sám hối thì Thiên Chúa sẵn sàng
thứ tha ngay.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Tội lỗi khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa.
- Tội lỗi khiến chúng ta xa cách anh chị em.
- Tội lỗi làm mất bình an ngay trong bản thân chúng ta.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I : 2 Sb 36,14-16.19-23
Tác giả điểm lại những giai đoạn lịch sử trước, trong và cuối
thời lưu đày : vì dân do thái bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất
nước và phải bị lưu đày. Nhưng dù sao Thiên Chúa vẫn còn thương họ nên Ngài đã
soi sáng lòng vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép họ hồi hương.
2. Đáp ca : Tv 136
Đây là bài ca của những người đang sống cảnh lưu đày : buồn
nhớ quê hương và đền thờ Giêrusalem, buồn đến nỗi không muốn đàn hát gì nữa, chỉ
mong được trở về quê hương yêu dấu.
3. Tin Mừng : Ga 3,14-21
Một phần trong cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với ông
Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất
hành. Từ đó Ngài mặc khải về tình thương của Thiên Chúa "Thiên Chúa đã yêu
thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai
tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời". Khi đề
cập đến tội lỗi của loài người, Đức Giêsu còn khẳng định : Thiên Chúa sai Con
mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của
Ngài mà được cứu độ".
4. Bài đọc II : Êp 2,4-10
Thánh Phaolô nói "Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương
xót". Do lòng thương xót ấy, khi con người vì phạm tội mà phải chết, thì
Ngài đã cho họ được sống lại nhờ Đức Giêsu Kitô.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi…"
Để giúp Nicôđêmô hiểu tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhắc
lại câu nguyện ngày xưa về con rắn đồng.
Ngày xưa, trong thời xuất hành, Thiên Chúa đã hết lần này tới
lần khác tỏ cho dân do thái thấy tình yêu của Ngài :
- Vì yêu thương, Ngài đã cứu họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai
cập, dẫn họ xuất hành về Đất hứa.
- Họ đã chẳng nhớ ơn Ngài, lại còn đòi quay lại Ai cập để có
hành tỏi thịt thà. Thiên Chúa ban cho họ manna.
- Ăn manna một thời gian, họ lại đòi ăn thịt. Thiên Chúa ban
cho họ chim cút từ trời rơi xuống.
- Họ lại đòi nước. Ngài cho nước từ tảng đá vọt ra.
- Họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Môsê. Chúa để cho rắn
lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Khi đó họ mới biết sợ và năn nỉ Môsê
xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai
nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.
Con rắn đồng ở sẵn đó như một con tim yêu thương và tha thứ
luôn mở rộng. Dù con người hết cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa, nhưng
chỉ cần họ sám hối và nhìn lên đó thì lại được tha.
Sau khi kể chuyện con rắn đồng, Đức Giêsu kết luận :
"Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian,
nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, được cứu độ". Nghĩa là Thiên Chúa
chỉ biết thương, chỉ muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai
cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình, do thái độ ngoan cố của họ.
Như ngày xưa chỉ có những ai quá sức ngoan cố không chịu nhìn lên con rắn đồng
thì mới phải chết.
Thiên Chúa luôn chờ đợi. Chỉ cần con người sám hối và nhìn
lên Ngài.
* 2. Giận mà thương
Nếu ta đã thực sự yêu thương ai thì dẫu khi người đó làm gì
sai quấy khiến ta giận nhưng ta vẫn thương, như lời của một bài hát "giận
thì giận mà thương thì thương". Điều này càng đúng với Thiên Chúa.
- Việc nguyên tổ phạm tội đã khiến Thiên Chúa rất "giận"
(có thể tạm nói vậy, theo kiểu diễn tả "như nhân"). Ngài đã tuyên án
cho các nguyên tổ. Dù vậy, liền ngay sau đó Ngài đã hứa sẽ ban Đấng Cứu thế
sinh bởi người nữ (St 3,15). Và, như sách Sáng thế diễn tả, khi Thiên Chúa thấy
hai ông bà xấu hổ lấy lá che thân thì Ngài thương lấy da thú may áo cho họ mặc
(St 3,21).
- Cain đã giết chết em ruột của mình, Thiên Chúa cũng rất
"giận" nên phạt hắn phải lang thang vất vưỡng. Nhưng vì thương hắn,
Thiên Chúa đã "ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp anh khỏi giết anh"
(St 4,15).
- Loài người dù đã bao lần chứng kiến tình thương của Thiên
Chúa nhưng vẫn phạm tội và phạm tội ngày càng nhiều hơn, đến nỗi Thiên Chúa phải
cho cơn Hồng thuỷ huỷ diệt họ. Dù vậy, Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Noê.
Ngài dạy ông đóng tàu. Khi gia đình ông đã vào tàu hết, chính Thiên Chúa tự tay
đóng cửa tàu lại (St 7,16).
Thiên Chúa luôn luôn là như vậy : luôn luôn yêu thương, dù
giận nhưng vẫn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói : "Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả
những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời"
; "Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người
nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
* 3. Lên án hay cứu độ
Bài Tin Mừng hôm nay có một câu rất đáng chú ý : "Thiên
Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để
thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ"
Từ trước tới nay chúng ta cứ bị ám ảnh bởi nỗi sợ "bị
Chúa phạt". Cho nên đọc câu này, chúng ta không còn sợ như thế nữa.
Nhưng để vững lòng hơn, chúng ta hãy kiểm chứng qua những
cách đối xử của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng. Chúng ta thấy có nhiều người
rất đáng bị lên án, và quả thực họ đã bị người do thái lên án, nhưng phần Đức
Giêsu thì không bao giờ lên án họ, như : người phụ nữ tội lỗi trong bữa tiệc tại
nhà một người biệt phái (xem Lc 7,36-50 "Tội của chị đã được tha rồi"),
ông Dakêu (x. Lc 19,1-10), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,1-11), tên gian phi
bị đóng đinh bên cạnh Ngài (x. Lc 23,43) v.v.
Đức Giêsu đến chỉ để cứu chúng ta. Ngài ban cho chúng ta rất
nhiều cơ hội để được cứu. Ngài không phạt ai cả, chỉ những ai không chịu cho
Ngài cứu là tự phạt mình mà thôi.
4. Nicôđêmô
Trong Tin Mừng Gioan, Nicôđêmô xuất hiện 3 lần :
- Lần thứ nhất là trong bài tường thuật Tin Mừng hôm nay.
Ông đến với Đức Giêsu "ban đêm" để thảo luận với Ngài về tình yêu
Thiên Chúa và ơn cứu độ. Sau đó ông ra đi.
- Lần thứ hai là khi các thủ lãnh tôn giáo do thái muốn giết
Đức Giêsu. Là thành viên của Thượng Hội đồng Do thái giáo, Nicôđêmô phản đối
quyết định ấy. Ông nói : "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước
khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không ?" (Ga 7,51)
- Lần thứ ba là lúc táng xác Đức Giêsu. Nicôđêmô đến để tẩn
liệm thi hài Đức Giêsu một cách sang trọng như người ta tẩn liệm một vị vua.
Thánh Gioan thuật : "Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm
hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn,
theo tục lệ chôn cất của người do thái" (Ga 19,39-40)
Lần thứ nhất Nicôđêmô đến với Đức Giêsu để thưa chuyện với
Ngài, lần thứ hai ông lên tiếng bênh vực Ngài, và lần thứ ba ông tôn kính thi
hài của Ngài.
Nicôđêmô là hình ảnh minh họa cho hành trình của người tìm đến
với ánh sáng như Tin Mừng hôm nay viết : "Ai sống theo sự thật thì đến với
ánh sáng"
5. Nỗi buồn thánh
"Bên bờ sông Babylon, ta ngồi ta khóc ta nhớ
Sion". Một bài ca buồn, diễn tả tâm tình chung của suốt Mùa Chay này.
Nhưng có nhiều thứ buồn khác nhau, phát xuất từ nhiều nguyên
nhân khác nhau, dẫn đến nhiều kết quả khác nhau :
- Buồn bực là thứ buồn do tức giận, dẫn tới ý muốn đập phá.
Như Cain buồn vì tức giận ganh ghét Abilê rồi lập mưu giết chết em mình.
- Buồn chán là thứ buồn do thất vọng, khiến người ta buông
xuôi. Như Giuđa buông xuôi đến nỗi tự tử.
- Buồn nhớ là buồn vì xa cách một điều gì hay một người nào
mình thương. Thứ buồn này thôi thúc mình tìm về với điều hoặc người thương mà
mình phải xa cách đó. Như dân do thái ngồi buồn trên bờ sông Babylon mà lòng nhớ
về Sion yêu quý.
- Buồn thương là thứ buồn phát xuất từ tình thương, buồn vì
tình thương đang bị đổ vỡ, buồn vì người mình thương đang phải khổ sầu. Thứ buồn
này thúc đẩy người ta hàn gắn lại đổ vỡ, xây đắp cho tình thương thêm mặn nồng.
Như Phêrô buồn sau khi chối Chúa. Ông đã khóc lóc ăn năn và tìm cách quay về với
Ngài.
Cái buồn của Mùa Chay là thứ buồn nào ? Nó xuất phát từ nhận
thức Chúa rất thương yêu mình, thế mà mình đã không xứng đáng với tình thương
đó. Nó khiến mình tỉnh ngộ dừng chân suy nghĩ về cách sống hiện tại. Nó thôi
thúc mình tìm về với Chúa, sửa chữa những lỗi lầm đã qua và tìm cách làm cho
lòng mình thương Chúa càng nồng nàn thắm thiết hơn.
Đó không phải là buồn bực, buồn chán, mà là buồn nhớ, buồn
thương. Đó là thứ buồn rất nên buồn, vì là nỗi buồn thánh.
6. Ánh sáng và bóng tối
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason,
một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau :
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh
từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày… mà còn
giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm
cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông
có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên
hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói :
"Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người".
Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm : "Không có gì giả
tạo nơi Sam".
Trước sự giao tế niềm
nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi
xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát
tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường
ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu
7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp
đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như
thế nào…
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của
Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ
biệt ông đã nói : "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh
bóng".
*
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô :
"Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được
sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của
người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và
nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên
này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa
ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người
con Chúa. "Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống,
vì hành động của họ xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ
hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời,
vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục,
không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai
từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối ? Có lối nào để trở về với
ánh sáng ? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất : "Thiên Chúa đã yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì
không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do
thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả
những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là
minh chứng tuyệt vời của một tình yêu : Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một,
tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa
lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói :"Đức tin của con đã
chữa con" (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành
phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức
tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh
phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao
thăm thẳm.
Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực
người tín hữu.
*
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và
bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp
lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Mùa Chay là thời gian giúp
chúng ta khám phá lại tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương thế
gian đến nỗi ban Con Một của Người để tất cả những ai tin vào Con Người thì được
sống hạnh phúc. Với tâm tình biết ơn, chúng ta dâng lời nguyện xin :
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn cũng như
đàn chiên là Hội thánh Chúa / luôn trở nên dấu chỉ của niềm vui và niềm hy vọng
/ để có thể loan báo cho muôn dân biết tình thương của Thiên Chúa.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế
giới / có dịp khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của
Chúa / để họ tin tưởng và cộng tác với Chúa trong việc cứu độ thế giới.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người nghèo khổ, bệnh
tật, thất nghiệp, bị tù đầy và biệt xứ / có dịp khám phá ra tình thương cứu độ
của Đức Giêsu qua những hoạt động bác bái của các Kitô hữu.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi người trong họ đạo
chúng ta / đều cảm nhận được tình thương cứu độ của Chúa / để quyết tâm chết đi
cho tội lỗi và sống lại trong tình thương và ân sủng của Người.
Chủ tế : Lạy Chúa xin
cho mỗi người chúng con biết dùng thời gian thuận lợi của Mùa Chay này, để nhìn
nhận hồng ân cứu độ mà Đức Giêsu đã mang đến cho tất cả mọi người / và tin tưởng
vào Người để được sống đời đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật IV Mùa Chay (B)
Chủ Nhật 11 Tháng Ba, 2018
Chúa Giêsu, Sự Sáng của Thế Gian
Ga 3:14-21
Lời nguyện mở đầu
Lạy Đấng Tối Cao, Thiên Chúa Toàn Năng,
Chúa đã biến đời sống mỏng manh của chúng con thành đá tảng
đền thờ Chúa ngự.
Xin Chúa hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết đập vỡ những
phiến đá trong sa mạc,
để cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng
con.
Nguyện xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con
che phủ chúng con như tấm áo choàng trong bóng tối của đêm
đen.
Và xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể
nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông,
Xin hãy mang đến cho chúng con,
Với than hồng từ lửa của những người chăn chiên của Đấng Tuyệt
Đối
những người đã canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí
Thánh,
hương vị của kỷ niệm thánh.
a) Tin Mừng:
14 Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Như Môisen đã
treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy,
15 để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.
16 Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những
ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, 17 vì Thiên
Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian
nhờ Con Ngài mà được cứu độ. 18 Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai
không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa; 19
và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự
sáng, vì hành động của họ xấu xa. 20 Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự
sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; 21
nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được
sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa”.
b) Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.
2.
SUY GẪM
a) Một vài câu hỏi gợi ý:
– Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…: có bao nhiêu lời chỉ
trích và định kiến về một Thiên Chúa xa vời và vô cảm? Điều này không thể đúng,
có lẽ, bởi vì chúng ta quy cho Chúa điều đó thay vì chúng ta nhận lấy trách nhiệm
của mình chăng?
– Ánh sáng đã đi vào thế gian, nhưng loài người lại ưa chuộng
bóng tối hơn: bất cứ ai tự lừa dối mình không phải là con người thụ tạo và sống
xa lìa Thiên Chúa, thì không thể chọn sự sáng bởi vì ảo ảnh sẽ tan biến đi. Có
bao nhiêu sự tối tăm vây quanh những ngày tháng của tôi vậy?
– Bất cứ ai làm cho chân lý lộ ra vào trong ánh sáng. Người ấy
sẽ không sợ để cho người ta thấy mình là ai. Loài người không bị đòi hỏi phải
là bất khả ngộ, mà đơn giản chỉ làm người. Chúng ta, những ai giống như chúng
ta cần phải làm việc một cách trung thành trong không gian và thời gian của
mình, có khả năng sống với những yếu kém của chúng ta như là nơi của sự gặp gỡ
và mở lòng ra với Thiên Chúa và với người khác không?
b) Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng:
Các câu 14-15: “Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế
nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người,
sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.”
Đối với con cái Israel, những người bị rắn độc cắn trong sa
mạc, ông Môisen đã ban khả năng được cứu sống bằng cách nhìn vào con rắn đồng.
Nếu loài người sau đó ngẩng đầu lên và nhìn lên cao, Thiên Chúa đã chuẩn bị sẵn
một sự chọn lựa cho họ. Người không bắt buộc, Người ở đó, sẵn sàng. Mầu nhiệm của
quyền tự do loài người, của sự tự quyết là điều đáng yêu nhất mà Thiên Chúa có
thể phát minh ra! Việc lựa chọn một cái nhìn, một cuộc gặp gỡ, một cơ hội mới…
Con Người trong sa mạc của thế gian sẽ bị treo lên trên thập giá như một dấu chỉ
của ơn cứu chuộc cho tất cả những ai cảm thấy có nhu cầu phải tiếp tục sống và
sẽ không để cho họ bị cắn bởi những chọn lựa sai lầm độc hại. Đức Kitô đã ở đó:
đáng nguyền rủa cho kẻ không có niềm tin, phúc thay cho người có lòng tin. Đây
là hoa trái sẽ được gặt hái, gắn liền với cây gỗ của sự sống. Chúng ta cũng vậy,
giống như dân Israel, trong sa mạc đã bị “cắn” bởi con rắn trong vườn Địa Đàng,
và chúng ta cần phải nhìn vào con rắn đồng được treo trên cây trượng gỗ để
không bị chết: “Tất cả những ai tin ở Người sẽ được sống đời đời”.
Câu 16: Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời
đời.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta với một tình yêu ưu đãi, một
tình yêu hiển nhiên, một tình yêu lên tiếng… Chúa Cha có thể nào đến một cách
trực tiếp không? Có, nhưng tình yêu của Chúa Cha, Đấng ban Con Một của Người,
không lớn lao hơn sao? Mọi người mẹ, nếu bà ấy có sự chọn lựa, thì sẽ chọn để
chính mình chết hơn là nhìn thấy con của bà bị chết. Thiên Chúa đã yêu thương
chúng ta quá đỗi, đến mức mà chịu nhìn thấy Con của Người bị chết!
Câu 17: Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận
phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ.
Một Thiên Chúa có khả năng luận phạt công minh lại sai Con của
Ngài giáng trần không để luận phạt mà là để cứu rỗi. Quả vậy, thật là cần thiết
để xóa đi mọi ý nghĩ và đặt mình trước một tình yêu cao cả như thế. Chỉ có
Thiên Chúa yêu thương mới có thể biến “luận phạt” thành “cứu rỗi”. Ngài biết sự
mong manh của tâm hồn loài người và biết rằng hình ảnh của Ngài, đã bị làm cho
tối tăm, có khả năng quay trở lại để trở nên trong sáng, không cần thiết phải
làm nó mới lại. Luận lý của sự sống không biết đến cái chết: Thiên Chúa là sự sống
không thể phá hủy những gì chính Ngài đã muốn tạo ra, đó là, trong một cách nào
đó, sẽ phá hủy chính Ngài.
Câu 18: Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không
tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa.
Đức tin là yếu tố phân biệt trong mỗi cuộc sống. Không tin
vào Danh Con Một Thiên Chúa: đây đã là một sự lên án, bởi vì kẻ không chấp nhận
tình yêu là kẻ tự loại trừ mình khỏi tình yêu!
Các câu 19-20: Và đây là án phạt: mặc dù sự sáng đã đến thế
gian, nhưng người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu
xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng,
sợ những việc làm của mình bị khiển trách.
Bản án duy nhất mà nhân loại được truyền cho là lời kêu gọi
sống trong sự sáng. Khi mặt trời mọc, không có vật gì có thể thoát khỏi tia
sáng của nó… và điều tương tự cho loài người. Khi Đức Kitô được sinh ra, không
ai có thể thoát khỏi sự sáng này tràn ngập trên tất cả mọi thứ. Nhưng loài người
đã xây nhà để họ có thể trốn chạy khỏi ánh sáng của Tình Yêu mà tự nó đã lan tỏa
khắp nơi, những căn nhà của vị kỷ, những căn nhà của cơ hội. Chúng đã bện vào
nhau qua những ngõ ngách và nơi ẩn trốn để tự do tiếp tục thực hiện hành vi của
chúng. Và có thể nào mà một việc làm thiếu ánh sáng lại sinh hoa kết trái được?
Sự sáng của cuộc sống chỉ có một nguồn duy nhất: Thiên Chúa. Ai tránh xa khỏi sự
sáng thì chết.
Câu 21: Nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự
sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa.
Tất cả mọi việc được ở dưới những tia sáng của tình yêu đời
đời, được tràn ngập sự sáng, như nó đã xảy ra trong thiên nhiên. Có vẻ như tất
cả mọi thứ mỉm cười khi mặt trời chiếu rọi. Và mọi vật vào ban ngày thì quen
thuộc và đẹp đẽ, vào ban đêm chúng tạo dạng gây ra sợ hãi bởi vì chúng không thấy
được. Mặt trời không thay đổi hình dạng của chúng, mà mặt trời nâng cao vẻ đẹp
của chúng. Bất cứ ai sống thật với chính mình và chấp nhận sự mong manh của
mình như là một vật trang trí của bản thể loài người, thì sẽ không sợ sự sáng bởi
vì người ấy không có gì để che dấu. Người ấy biết rằng như một tạo vật, anh ta
hành động theo lý lẽ của sự giới hạn, nhưng điều này không làm giảm đi sự vĩ đại
của công việc mình làm bởi vì đời sống của anh ta thì cùng với chân lý đời đời.
c) Suy niệm:
Khu vườn trở thành sa mạc đối với một người sống xa lìa
Thiên Chúa. Và trong sa mạc của những giới hạn của mình như một tạo vật, người ấy
một lần nữa lại thấy các vết cắn đầy nọc độc của con rắn. Nhưng Thiên Chúa
không bỏ rơi con cái Ngài, và khi họ lìa xa Ngài, Người đi theo họ, sẵn sàng để
can thiệp khi cần thiết. Con rắn, biểu tượng cho sự chữa lành, được treo lên mỗi
khi nọc độc làm suy yếu đời sống con người, đó là Đức Kitô Chúa chúng ta. Nếu
con người ưa chuộng nhìn xuống đất hơn và ở lại trong sa mạc của “Tôi tự làm điều
đó”, Thiên Chúa, cũng làm như thế, Người tự hiến thân về ánh mắt nhìn của người
ấy: như một con rắn, là cách duy nhất mà loài người có thể nhận ra Chúa. Đức
Kitô đã trở thành tội nhân, bị kết án tử, để cứu lấy hình ảnh của Người, không
để cho loài người phải hư mất. Sự lên án không thuộc về Thiên Chúa, đó là sự chọn
lựa của loài người. Tôi có hoàn toàn tự do quyết định không sống gần hơi nóng.
Nhưng điều đó có nghĩa rằng tôi sẽ phải đi tìm một nguồn nhiệt khác, nếu tôi muốn
được ấm áp. Nếu không, tôi có nguy cơ bị cảm lạnh, mỏi mệt, và đau ốm. Sự tự do
của Thiên Chúa có cái giá của sự lên án. Chỉ có những người không thông minh đủ
mới không hưởng lợi từ món quà được trao ban cho họ, chỉ có sự ngu ngốc mới
không chấp nhận những gì là lợi ích nhất mà không cảm thấy như người bị mắc nợ.
Trong lĩnh vực của tình yêu, chữ “nợ” không hiện hữu, bởi vì sự cho không là chữ
duy nhất mà có thể được nghĩ đến. Và với chữ cho không sự sáng phát tỏa: tất cả
mọi việc trở thành có thể, tất cả mọi thứ trở nên một cơ hội. Các việc làm
trong bóng tối hay việc làm trong Thiên Chúa: hình ảnh trần gian về những lấp
lánh mờ nhạt của các viên đá giả dối là những trò chơi nguy hiểm cho tất cả mọi
người; tốt hơn là nên thường xuyên đi đến những căn phòng đầy ánh nắng của thời
gian học nghề không bao giờ kết thúc! Ít ra là có cuộc sống phát triển và niềm
vui tràn đầy tất cả mọi thứ với vẻ đẹp…
3.
CẦU NGUYỆN – Thánh Vịnh 35 (36)
Tội ác thì thào trong thâm tâm kẻ dữ;
hắn không thấy cần phải kính sợ Chúa Trời.
Hắn tự cao tự đại, nên chẳng thấy tội mình mà chê ghét.
Lời nói toàn xảo quyệt dối gian,
hết lẽ khôn ngoan, hết điều lương thiện!
Nằm trên giường, hắn bày ra chước độc mưu thâm,
hắn đứng lỳ trên nẻo đường bất hảo,
không còn chê ghét việc gian tà.
Lạy CHÚA, tình thương Ngài cao ngất trời xanh,
lòng thành tín vượt ngàn mây biếc.
Công lý của Ngài như đỉnh núi Thái Sơn,
quyết định của Ngài tựa vực sâu thăm thẳm.
Lạy CHÚA, Ngài tế độ con người và súc vật.
Lạy Thiên Chúa, tình thương Ngài quý trọng biết bao!
Phàm nhân tìm bóng Ngài trú ẩn.
Họ được no say yến tiệc nhà Ngài,
nơi suối hoan lạc, Ngài cho uống thoả thuê.
Ngài quả là nguồn sống,
nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng.
Xin hằng thương những kẻ biết Ngài,
và hằng xử công minh với những ai có lòng ngay thẳng.
Đừng để quân ngạo mạn giày xéo thân này
và phường độc dữ đánh đuổi con đi.
Kìa bọn làm điều ác đã nhào xuống cả,
ngã quỵ rồi, không chỗi dậy nổi đâu.
4. CHIÊM NIỆM
Ôi lạy Chúa, khi niềm kính sợ Thiên Chúa bỏ rơi con, con cảm
thấy tội lỗi lên tiếng trong lòng con: đây là những khoảnh khắc của ảo ảnh, những
khoảnh khắc mà con đi tìm kiếm các thất bại của con. Con trải nghiệm cảm giác tội
lỗi không bao giờ nguôi, và tất cả những điều này là vô ích bởi vì con đã không
hiểu rằng chỉ có làm những điều tốt lành, thì những lời trái với đạo lý và lừa
dối của ma quỷ sẽ bị dập tắt. Cố chấp với tội lỗi là điểm thu hút, tưởng chừng
như là điều này sẽ cho con danh dự và hãnh diện hơn, có giá trị hơn. Khi con có
thể nhận thức được rằng những gì Chúa ban cho con và cho phép con được sống,
thì thật là bao la và rồi con cảm nhận được vực sâu thăm thẳm lòng trung thành
của Chúa và con nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa không có bất kỳ giới hạn nào; thì
tất cả mọi thứ tràn ngập và lôi cuốn con đi, con đang ở trong hình ảnh của Chúa
và tất cả những gì Chúa đã tạo dựng cho con và con đã đặt tên cho chúng. Thật vậy,
ân sủng của Chúa thật là quý giá. Trong nhà Chúa, sự bảo vệ phong phú hiện hữu,
niềm vui mừng và sự hân hoan chảy như nước. Lạy Chúa, nếu con nhìn vào đôi mắt
của Ngài, thì tất cả mọi thứ là sự sáng. Và bây giờ không có gì là khó khăn, bởi
vì trái tim của con, được thanh tẩy từ sự cám dỗ trở thành Thiên Chúa trong vị
trí của Chúa, cho con biết rằng con sẽ ở cùng Thiên Chúa với Ngài. Sự ganh đua,
cạnh tranh, thù địch… biến mất trong khi đối mặt với đề nghị của Chúa tham dự
vào trong đời sống thần thánh của Chúa. Thiên Chúa ở cùng Ngài. Chúa là nguồn mạch
của hình ảnh và con là một phản ảnh của hình ảnh đó! Tình yêu của Chúa giống
như nhựa sống chảy qua con tim, qua chiều sâu của con người con cho đến khi con
tìm thấy nguồn gốc của mình: trong Danh Thánh Chúa.
www.dongcatminh.org




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét