Trang

Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2018

30-09-2018 :(phần II) CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN năm B


30/09/2018
Chúa Nhật tuần 26 Thường Niên năm B
(phần II)

Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 26 thường niên- năm B
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN - B
(Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48)


TINH THẦN ĐẠI ĐỒNG VÀ LIÊN ĐỚI
“Ai không chống lại chúng ta
là ủng hộ chúng ta”
 (Mc 9,40)

I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Ds 11,25-29)
Môsê đã dành trọn đời mình để phục vụ dân Chúa, nhưng trong những năm cuối đời, ông chỉ gặp toàn những chuyện sầu muộn. Những khó khăn và vấn nạn ngày càng gia tăng khi dân Do Thái trong sa mạc tiếp tục ca thán và trách móc.
Một ngày nọ ông thổ lộ với Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con” (Ds 11,10-15). Và Đức Chúa đã đề nghị với ông: “Hãy tập họp lại cho Ta bảy mươi người trong số kỳ mục Israel, Ta sẽ lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ngươi mà đặt trên chúng, chúng sẽ cùng với ngươi gánh vác dân này, và ngươi sẽ không còn phải vác một mình nữa” (x. Ds 11,16-18).
Như thế bắt đầu bài đọc mà chúng ta có hôm nay.
Vào ngày được ấn định, bảy mươi kỳ mục tụ họp tại Lều, Thần Khí đậu trên các ông và các ông được bắt đầu phát ngôn.
Có hai người, ông Enđát và Mêđát, mặc dầu đã được ghi danh, nhưng không vào trong Lều tham gia sự kiện, nhưng các ông vẫn nhận Thần Khí và phát ngôn như những người khác. Đây là một sự kiện quá đỗi ngạc nhiên với mọi người, tại sao những người không thuộc trong nhóm các ông lại có thể cùng nhận Thần Khí và phát ngôn như các ông? Giôsuê, dù là một nhân vật lỗi lạc trong số những người Israel, cũng lên tiếng phản đối sự việc và yêu cầu ngăn họ lại.
Nhưng Môsê trả lời thẳng thắng: “Anh ganh tị à? Chớ chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ”(Ds11,29).
Nội dung bài đọc này có thể là một sứ điệp cho mọi cộng đoàn Kitô hữu: Thần Khí Đức Chúa không thể bị đóng khung trong phạm vi của một nhóm nào đó; trái lại, nơi đâu có tình yêu, niềm vui, an bình và những điều tốt đẹp, nơi đó chắc chắn Thần Khí của Chúa đang hiện diện và hoạt động.
2. Bài đọc II (Gc 5,1-6)
Các ngôn sứ cũng thường đưa ra những công kích đối với những người giàu có, thế nhưng, công kích họ một cách mạnh mẽ thì rất hiếm như trong trường hợp bài đọc hai của chúng ta hôm nay.
Sự công kích này của thánh Giacôbê không nhắm vào chính sự giàu có, vốn luôn được xem là một sự thiện và không được bị chê bỏ; thế nhưng, cũng như các ngôn sứ và Chúa Giêsu, thánh Giacôbê nhắm vào việc sử dụng xấu xa và nguy cơ xem nó như là thần tượng. Người giàu có rất dễ quên rằng “họ sẽ qua đi như hoa cỏ”, và “mặt trời mọc lên toả ra sức nóng làm cho cỏ khô, khiến hoa rụng xuống, vẻ đẹp tiêu tan. Người giàu có cũng sẽ héo tàn như vậy trong các việc họ làm” (Gc 1,10-11). Lòng tham là nguồn gốc mọi tội lỗi (x. Gc 1,14-15) và là nguyên cớ cho những mâu thuẫn bất đồng (x. Gc 4,1-4).
Đối nghịch với kẻ giàu có là những người bần cùng; họ là những người không có khả năng chống đỡ bởi vì kẻ giàu có thường nắm giữ trong tay mình hầu hết luật pháp và sức mạnh. Vì thế, việc tích trữ của cải trở nên giàu có qua các hành xử bất công với người nghèo được xem là không phù hợp với các giá trị Tin Mừng. Của cải thế gian này được phú ban cho mọi người, và vì thế phải được sẻ chia, nhất là với những người nghèo đói.
Bài đọc gợi lên cho chúng ta tầm quan trọng của những nhân đức Kitô giáo, đó là lòng bác ái yêu thương, là sự công bình, là sẻ chia và liên đới với người khác.
3. Bài Tin Mừng (Mc 9,38-43.45.47-48)
“Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta” (c.38). Câu hỏi đặt ra: làm sao một người không theo chúng ta mà lại có thể như chúng ta được?
Tiếp nối bài đọc I, bài Tin Mừng cũng đặt ra vấn đề này. Ở đây Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc căn bản, đó là: “ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (c. 40). Và vì thế, “đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy” (c.39).
Nguyên lý của Chúa Giêsu đưa ra, có thể nói, rất hữu ích cho phong trào đại kết mà Giáo hội đang nỗ lực thực hiện hôm nay, và giúp chúng ta biết phân định: khi nào thì cần dứt khoát, không nhân nhượng, khi nào cần mềm dẻo và linh hoạt. Thay vì đóng kín, khép mình, độc tôn, thì có lẽ một thái độ linh hoạt, cởi mở, tôn trọng và đối thoại rất cần với mỗi người chúng ta hôm nay.
Mấu chốt của mọi tương quan, có lẽ là đức ái. Vì thế Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (c.41).
Đức ái hướng con người đến sự sống. Ngược với đức ái, đó là những hành động hướng con người tới chỗ diệt vong. Vì thế, cuối đoạn Tin Mừng là những lời cảnh báo nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với những cớ vấp phạm (cc. 43.45.47-48). Dĩ nhiên ở đây ngôn ngữ chỉ mang tính biểu trưng qua hình ảnh cụ thể của tay, chân và mắt. Thật ra, không phải tay, chân hay mắt là duyên cớ dẫn đưa con người tới tội lỗi, mà chính là những ý tưởng không ngay lành. Tuy vậy, sứ điệp của Chúa Giêsu ở đây là rất rõ ràng: cần từ bỏ dứt khoát với mọi bối cảnh dẫn đưa đến tội chết.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Qua lời khẩn xin của Môsê, Đức Chúa đã rộng ban Thần Khí của Người xuống trên số các kỳ mục để cộng tác với ông lo việc Chúa và chăm sóc dân Người. Thế nhưng một số người trong dân đã tỏ thái độ phản đối khi Thần Khí của Chúa đã rộng ban cách hào phóng, và cho cả những người không thuộc nhóm của mình. Kinh nghiệm này giúp tôi nhận ra điều gì và có thái độ nào đối với những người được xem là không cùng nhóm với tôi mà vẫn đang ngày ngày cộng tác đắc lực vào việc xây dựng cuộc sống này?
2. Thánh Giacôbê trong phần trích thư của ngài đã mạnh mẽ cảnh báo những người giàu có về một thái độ sống quy tiền của, nhất là tiền của bất chính, là cái chẳng mang lại sự bảo đảm nào cho cuộc sống con người; trái lại, nó khiến họ có nguy cơ phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, vì đã chà đạp lên những người công chính. Lời cảnh báo của thánh nhân có ý nghĩa gì với tôi?
3. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã ca ngợi một tinh thần đại đồng và liên đới, cụ thể qua những nghĩa cử cao đẹp và bác ái đối với anh chị em mình, dù là những việc nhỏ nhất, vì nó phục vụ cho sự sống. Và với những ai làm điều ngược lại, Người gay gắt chỉ trích phê bình. Nhìn lại đời mình, tôi thường mang lại những giá trị nào cho những người sống quanh tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót muốn cho tất cả mọi người được lãnh nhận dồi dào ân huệ của Chúa Thánh Thần và được cứu độ. Với niềm xác tín và tâm tình tri ân, chúng ta thành tâm cảm tạ Chúa và tha thiết cầu nguyện.
1. Hội Thánh có sứ mạng loan báo và đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ chăn và mọi thành phần Dân Chúa, được ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn, luôn ý thức và nhiệt tâm chu toàn sứ vụ ngôn sứ đã lãnh nhận.
2. Ghen tương tranh chấp là nguồn gốc những xáo trộn và xung đột xã hội. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các dân tộc trên thế giới biết tôn trọng lẫn nhau, và nỗ lực hợp tác nhằm góp phần xây dựng một thế giới hoà bình, văn minh và thịnh vượng.
3. Chúa Giêsu đã mạnh mẽ lên án những kẻ gây gương mù gương xấu cho người khác. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu, đặc biệt là các bậc phụ huynh, biết sống đạo hạnh thánh thiện, hầu trở nên mẫu gương cho con cái và những người chung quanh.
4. “Ai không chống đối các con, là ủng hộ các con.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết vượt qua những khác biệt ngăn cách, sống hòa thuận và trách nhiệm, để cộng đoàn ngày càng trở nên dấu chỉ của hợp nhất và yêu thương.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa luôn yêu thương và sẵn sàng xuống ơn cho những ai tin tưởng cậy trông Chúa. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và khứng ban muôn ơn lành giúp chúng con trung thành phụng sự Chúa trong mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.


SCĐ CHÚA NHỰT 26 TN.B
Chủ đề : Óc bè phái, cục bộ


“Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”
(Mc 9,40)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Ds 11,25-29) : Giôsuê khó chịu khi thấy hai người kỳ mục không đến Lều Thánh mà lại nói tiên tri. Ông bảo Môsê ngăn cấm hai người ấy. Nhưng ông Môsê chẳng những không ngăn cấm mà còn nói : “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ”.
– Tin Mừng (Mc 9,37-42.44.46-47) : Gioan thấy có người ngoài nhóm môn đệ mà cũng nhân danh Đức Giêsu để trừ quỷ. Gioan yêu cầu Đức Giêsu ngăn cấm họ. Nhưng Đức Giêsu đáp : “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.
I.Dẫn vào Thánh  lễ
Anh chị em thân mến
Chúa nhật vừa qua, Lời Chúa đã dạy chúng ta đừng ganh ghét đố kỵ. Hôm nay, Lời Chúa lại dạy chúng ta đừng có óc bè phái cục bộ, chỉ biết đến nhóm mình, phe mình và loại trừ những người không thuộc phe nhóm của mình.
Đoàn kết trong nội bộ là tốt, nhưng kỳ thị và loại trừ những người khác thì là xấu.
Chúng ta hãy chăm chỉ nghe giáo huấn của Chúa và cố gắng thi hành.
II. Gợi ý sám hối
– Chúng con có lỗi vì đã không thích những người không cùng tín ngưỡng với chúng con.
– Chúng con có lỗi vì tạo phe nhóm chống đối nhau.
– Vì họ đạo chúng con chia bè chia cánh, nên đã không là tấm gương tốt cho những người lương.
III. Lời Chúa
  1. Bài đọc I (Ds 11,25-29)
Giôsuê khó chịu khi thấy hai người kỳ mục không đến Lều Thánh mà lại nói tiên tri. Ông bảo Môsê ngăn cấm hai người ấy. Nhưng ông Môsê chẳng những không ngăn cấm mà còn nói : “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ”.
2.                  Đáp ca (Tv 118)
Tác giả Thánh Vịnh 18 suy nghĩ  “Nào ai thấy rõ các lỗi lầm của mình ?” Từ đó ông khiêm tốn nhìn nhận có những tội mình phạm mà chẳng hay, trong đó có tội kiêu ngạo.
Phối hợp với bài đọc I và bài Tin Mừng, ta có thể thấy cái thứ tội kiêu ngạo ta phạm mà chẳng hay chính là sự đố kỵ với những người không cùng ở trong tập thể của mình : mình ghét họ, mình chống họ nhưng cứ tưởng làm như thế là tốt cho tập thể mình.
3.                  Tin Mừng (Mc 9,37-42.44.46-47)
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu dạy hai bài học :
a/ Bài học bao dung và hợp tác : Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Đức Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Đức Giêsu chẳng những không cấm họ mà còn sửa dạy các môn đệ mình.
– Người đời thường có óc bè phái : ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là “Ai không theo ta tức là nghịch với ta”
– Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, và sẵn sàng hợp tác với tất cả môi người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là “Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta”.
b/ Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho “những kẻ bé mọn”.
– “Những kẻ bé mọn” không hẳn là trẻ con, mà còn là những người mà đức tin còn non yếu. Ai gây cớ vấp phạm cho họ thì thà buộc cối đá vào cổ nó rồi xô nó xuống biển còn hơn.
– Ngay cả bản thân mình mà gây cớ vấp phạm cho mình thì mình cũng phải tự khắt khe với mình để diệt trừ nguy hiểm tận gốc : “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi…”
4.                  Bài đọc II (Gc 5,1-6) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê nặng lời phê phán những người giàu có mà không giúp đỡ những người nghèo : (1) Những tiền bạc của cải mà họ tích trữ không xài tới chính là bằng chứng buộc tội họ ; (2) Tài sản của họ là do gian lận, bất công mà có ; (3) Họ dùng tài sản để thỏa mãn khát vọng khoái lạc và làm hại người công chính.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Óc ganh tị bè phái… vì danh Chúa !
Những bài Sách Thánh mà phụng vụ tuyển đọc trong Thánh Lễ hôm nay đề cập tới một tính xấu, đó là Óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Tính xấu đó như thế nào, chút nữa chúng ta sẽ phân tích. Bây giờ trước hết chúng ta hãy xem lại những bài đọc nói gì.
– Bài đọc I kể một câu chuyện xảy ra từ thời ông Môsê đang dẫn dân Chúa đi lang thang trong sa mạc, nghĩa là lâu lắm rồi, khoảng năm 1250 trước Chúa Giáng sinh, nghĩa là cách nay đến hơn 3000 năm. Khi ấy Chúa bảo Môsê chọn trong dân ra 72 người để Chúa đổ ơn Chúa Thánh Thần xuống trên họ và nhờ đó họ được ơn nói tiên tri. Môsê đã chọn 72 người, Chúa đã ban cho họ ơn nói tiên tri. Nhưng mà có 2 người khác không ở trong danh sách 72 người kia cũng nói tiên tri. Một đứa bé thấy vậy chạy về báo cáo cho Môsê và người phụ tá của ông là Giôsuê hay sự việc. Giôsuê liền đề nghị ông Môsê ra lệnh ngăn cấm 2 người đó, lý do là vì họ không thuộc danh sách 72 người được chọn. Xin nhắc lại rằng câu chuyện này xảy ra từ thời Cựu Ước, cách đây khoảng 3000 năm lận. Nghĩa là từ thuở rất xa xưa, mà người ta đã có tính ganh tị rồi.
– Cái tính xấu này vẫn còn cho tới thời Tân ước. Bài Tin Mừng kể : Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Đức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Đức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Đức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm như vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải là tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Đức Giêsu còn nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói “Ai không chống lại ta thì thuộc về ta”.
Qua hai câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là : cái óc ganh tị đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa, như Ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Đất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương nhất. Đó là óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Nói “Óc ganh tị Bè Phái vì danh Chúa” bởi vì ganh tị có tới 3 cấp bực :
. Cấp thứ nhất là Ganh tị : đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.
. Cấp thứ hai là Ganh tị bè phái : là Ganh tị với người không thuộc phe nhóm của mình.
. Cấp thứ ba là Ganh tị bè phái vì danh Chúa : nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tị với những người không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.
Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Đó là một thí dụ về cái óc ganh tị bè phái vì danh Chúa.
Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc “Ai không chống lại ta thì phải kể như là thuộc về ta”. Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ “Ai không theo ta tức là kẻ chống ta”, hoặc “Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta”, hay hơn nữa “Ai làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta”. Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc tôn : chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không thuộc phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Đức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác : tất cả mọi người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta ; cũng phải hợp tác với họ.
Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Đức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hoà với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.
Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Điều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được làm.
Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa : đừng ganh tị, đừng giữ đầu óc bè phái… nhưng cố gắng sống chan hoà với mọi người, cùng với mọi người thực hiện những việc tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.
2.                  Dịp tội
Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng những lời rất mạnh mẽ của Đức Giêsu :
. Nếu tay con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 tay mà phải vào hoả ngục.
. Nếu chân con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 chân mà phải vào hoả ngục.
. Và nếu mắt con nên dịp tội cho con thì hãy móc nó đi. Thà con còn một mắt mà được vào Nước TC còn hơn có đủ 2 mắt mà phải ném xuống hoả ngục.
Dĩ nhiên đây là kiểu nói cường điệu theo thói quen của người Á Đông. Không ai hiểu những câu đó sát nghĩa đến cả. Ta chưa thấy ai tự chặt tay chặt chân móc mắt để khỏi phạm tội cả. Ngay cả các thánh cũng vậy, các Ngài đã chống trả các cơn cám dỗ rất là quyết liệt, nhưng không bằng cách chặt tay chặt chân móc mắt mình. Có một trường hợp đặc biệt sau đây : Ông Origène, một Linh mục rất thánh thiện và cũng rất thông thái, uyên bác. Các tác phẩm của ông được xếp ngang hàng với tác phẩm của các thánh giáo phụ và tiến sĩ của Giáo Hội. Ông thường bị cám dỗ mạnh về xác thịt, cho nên một hôm ông quyết định tự thiến mình đi để khỏi bị cám dỗ nữa. Hành động này của ông chẳng những không được Giáo Hội khen mà còn bị chê trách nữa, do hành động ấy mặc dù ông rất thánh thiện và thông thái nhưng ông đã không được phong thánh và cũng không được coi là giáo phụ, hay tiến sĩ Giáo Hội, vì ông bị coi là một người bất bình thường.
Vậy, chúng ta không nên hiểu những lời Tin Mừng trên theo sát nghĩa đen. Mà phải hiểu theo tinh thần. CG muốn căn dặn chúng ta phải hết sức triệt để xa lánh các dịp tội.
Nhưng, dịp tội là gì ? Thưa là tất cả những gì có thể khiến ta phạm tội.
. Đó có thể là một sự vật. Td một chiếc xe đạp để ở chỗ vắng vẻ mà không có khoá.
. Đó có thể là một người. Td một cô gái đẹp lả lơi ăn mặc hở hang.
. Đó có thể là một hoàn cảnh, một môi trường. Td một xóm bình khang, một ổ điếm.
Để cho rõ hơn nữa, các nhà luân lý phân ra nhiều loại dịp tội :
. Dịp tội gần : là những dịp mà nếu gặp thì hầu như chắc chắn ta sẽ phạm tội. Td người ghiền xì ke khi tới cơn ghiền, không có tiền, hễ gặp đồ đạc ai để hớ hênh thì hầu như chắc chắn sẽ “chôm” liền. Gặp 10 lần thì phạm tội khoảng 7,8 lần.
. Dịp tội xa là những dịp mà có gặp thì cũng ít khi phạm tội. Td một người bình thường gặp một món đồ để hớ hênh. Có thể là anh ta sẽ ăn cắp, mà cũng có thể không ăn cắp.
Dịp tội gần lại được phân làm 2 loại nữa :
. Dịp bó buộc là tuỳ hoàn cảnh đó có nguy hiểm khiến mình phạm tội, nhưng mình bó buộc phải vào, nếu không vào thì bị thiệt hại nặng. Td một cô gái làm việc cho ông chủ có máu dê xồm và thường phải gặp mặt ông ta. Đây là một dịp nguy hiểm, nhưng nếu cô không gặp thì cô phải mất việc làm, phải thất nghiệp, phải túng thiếu.
. Dịp tự do : là dịp tội cũng nguy hiểm nhưng ta không bó buộc phải gặp. Td không ai bó buộc một cô gái phải đến gặp một người đàn ông không đứng đắn vào buổi tối tại một nơi hẹn vắng vẻ.
Sau khi đã phân biệt nhiều thứ tội khác nhau. Bây giờ chúng ta nghĩ xem mình phải tránh loại dịp tội nào ? Xin nhớ 3 nguyên tắc sau :
. Buộc phải tránh dịp tội gần, vì đó là dịp mà nếu ta gặp thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ bị phạm tội. Td.
. Khi gặp dịp tội tự do, ta phải xa tránh : vì đó cũng là một dịp tội gần nguy hiểm hầu chắc sẽ phạm tội nhưng ta không bị bó buộc phải vào dịp đó cho nên phải tránh đi.
. Còn nếu là dịp bó buộc thì ta đành phải gặp, tuy nhiên phải khôn khéo làm cho dịp tội gần và bó buộc đó tành ra dịp tội xa. Td một cô gái phải cặp mắt một ông chủ không đứng đắn, đó là một dịp tội gần và bó buộc. Nhưng nếu cô cùng đến với một người bạn khác nữa, hoặc đến gặp ở chỗ có đông người thì cô không còn nguy hiểm nữa, dịp đó đã trở thành dịp tội xa rồi.
Con người chúng ta có lương tri và có ý muốn hướng thượng, không ai cố tình muốn làm tội. Tuy nhiên con người chúng ta cũng rất yếu đuối và dễ bị lôi cuốn cho nên dễ bị sa ngã nếu gặp dịp tội. Bảng phân loại các dịp tội ở trên tuy hơi tỉ mỉ và có tính cách giáo điều, nhưng rất rõ ràng và hữu ích. Chúng ta hãy cố gắng xa lánh các dịp tội gần, vì Chúa đã dạy : “Nếu tay con nên dịp tội cho con…”

3.                  Giải phẫu.
Người ta đồn thổi rằng : Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên họ tìm cách đánh bẫy khỉ.
Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.
Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam và lôi ra.
Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái cam ra để bàn tay được tự do. Đã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.
*
Thế giới chúng ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến chúng ta lỗi luật Chúa. “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay nó đi” (Mc.9,43). Kiểu nói “chặt tay, chặt chân, móc mắt”chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng, để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình. Hội thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen, nếu cứ áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ, thì khó mà tìm được một người Kitô hữu lành lặn.
Đức Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội, các cơm cám dỗ, chớ coi thường chúng.
Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều người dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh mạng của mình. “Từ bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá hơn”, đó là lẽ khôn ngoan ở đời. Cuộc sống vĩnh cửu không là điều quý giá đáng cho chúng ta từ bỏ một phần thân thể đã trở nên xấu xa để đổi lấy sao ? Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì cũng cần nhiều cuộc cắt bỏ để cứu lấy linh hồn. Chúng ta có thể “cắt bỏ” một thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính… Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn “móc con mắt, chặt cánh tay”. Đau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic Giraud có viết : “Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất màu mở, cũng như việc cắt tỉa cây cối : làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao”.
Có những người mơ ước hy sinh cuộc đời, nhưng lại không dám hy sinh những tật xấu của mình. Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ phận hư hỏng. Chúng ta có thể thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền yêu thương. Chúng ta có thể thay bộ óc định kiến hẹp hòi bằng bộ óc thoáng đạt hồn nhiên.
*
Lạy Chúa, sống cho Chúa thật không dễ chút nào : Phải cắt bỏ những gì mình gắn bó, thiết thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng : chỉ khi cắt tỉa những cành lá rườm rà thì cây đời chúng con mới trổ sinh hoa trái tốt tươi. Xin cho chúng con dám ra khỏi chính mình, để được lớn lên trong ân tình của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
4.                  Mảnh suy tư
a/ Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta :
– Chúng ta có quyền nhân danh Đức Giêsu mà làm việc này việc nọ, nhưng đó không phải là độc quyền của chúng ta.
– Nếu biết suy nghĩ kỹ, ta sẽ hiểu rằng những tài năng và thành công của những người khác không hề làm cho chúng ta bị nghèo đi, trái lại còn làm giàu thêm cho chúng ta.
– Cũng thế, một người khác với chúng ta không hề làm chúng ta nghèo đi nhưng còn làm cho chúng ta giàu thêm.
– Thiên Chúa ban nhiều ơn cho nhiều người. Bổn phận của chúng ta là đón tiếp những ơn ban đó ở bất cứ nơi nào mà chúng ta phát hiện.
b/ Ai cho anh em một chén nước lả thì người đó không mất phần thưởng đâu :
– Chén nước lả là tượng trưng cho việc tốt nho nhỏ. Chúng ta ít có dịp làm những việc tốt lớn lao, nhưng có rất nhiều dịp làm những việc tốt nho nhỏ.
– Một việc làm có khả năng an ủi không nhất thiết phải là một việc lớn, mà chỉ cần là một việc sưởi ấm cõi lòng.
c/ Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn :
– Cái làm cho trẻ con dễ thương nhất là tâm hồn rộng mở của chúng. Do tâm hồn rộng mở, trẻ con đón nhận một cách ngây thơ tất cả những gì người ta dạy chúng.
– Nhưng cũng do tâm hồn rộng mở mà trẻ con dễ bị tổn thương nhất vì bất cứ điều xấu nào cũng có thể xâm nhập vào đấy.
– Tội làm gương xấu cho trẻ con đáng bị buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển vì tội đó biến cái dễ thương nhất thành cái tổn thương nhất.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy : “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”, và “Ai làm cớ cho tín hữu bé nhỏ sa ngã thì thà buộc cội đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúng ta hãy sốt sắng cầu xin Chúa :
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh biết cố gắng tránh mọi gương xấu / mà nêu gương tốt cho mọi người.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo kẻ khác / dù chưa biết Chúa để tin theo Chúa / vẫn luôn sống lương thiện và không bao giờ chống đối Chúa.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những nạn nhân của các gương xấu, nhất là các trẻ nhỏ / gặp được những bạn bè và những nhà giáo dục biết đem chúng trở về đời sống lương thiện.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em trong xứ đạo chúng ta / biết khoan dung với những người làm gương xấu nhưng không chống đối Chúa / và biết luôn cố gắng để không làm gương xấu cho ai.
Chủ tế  : Lạy Chúa, chung quanh chúng con còn nhiều người làm gương xấu và nhiều người là nạn nhân của gương xấu, xin cho chúng con biết rõ những hậu quả ghê tởm của gương xấu, để không bao giờ làm gương xấu cho ai. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. Trong Thánh lễ
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi óc bè phái, cục bộ…”
VII. Giải tán
Trong tuần này, chúng ta hãy ghi nhớ và sống một câu Tin Mừng này : “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

***
Bài đọc thêm
THƯ DO THÁI
  1. Văn thể
Tác phẩm này không mang hình thức một bức thư, nghĩa là không ghi tên người gởi và người nhận ở đầu. Mãi đến khi kết thúc (13,22-24) mới có những nét của một bức thư (“Tôi chỉ viết cho anh em vắn tắt thôi”). Mặc dù ở 1 vài bản chép có câu “gởi tín hữu do thái” ở đầu tác phẩm, nhưng người ta nghiên cứu thấy câu này được thêm vào về sau chứ không có từ đầu.
Giọng điệu trong tác phẩm giống như một bài diễn văn hay một bài khảo luận : trang trọng, uyên bác.
Vì thế có nhiều giả thuyết về tác phẩm này : nó là một bức thư (lettre) ? hay một bức tông thư (épitre) ? một bài diễn thuyết ? hay một thiên khảo luận ? Mỗi giả thuyết đều có những lý lẽ ủng hộ nhưng cũng có những lý lẽ nghịch lại.
Ý kiến được nhiều người chấp nhận hiện nay là : đó là một bức tông thư được viết bởi một người vừa học thức uyên bác vừa sẵn tài hùng biện. Vì thế nó mang đủ các tính chất của thư, bài giảng và khảo luận.
  1. Tác giả
Ban đầu ai cũng tưởng tác giả là Phaolô. Nhưng dần dần người ta khám phá thêm nhiều lý do không cho phép tưởng như thế nữa :
– 13 thư kia đều ghi tên tác giả là Phaolô, còn thư này không.
– Lời văn và giọng điệu hoàn toàn khác với Phaolô. Cách trích dẫn Cựu Ước cũng khác. Cách bố cục cũng khác : Phaolô thường chia bức thư thành 2 phần : phần I giáo thuyết, phần II khuyên dạy. Trong thư này, giáo thuyết và lời khuyên xen lẫn nhau.
– Chủ đề trung tâm của thư này là Chức Tư Tế của Đức Kitô, chủ đề này rất xa lạ trong các thư của Phaolô. Trái lại, một ý tưởng luôn có trong các thư  của Phaolô là “công chính hóa bởi đức tin” thì không có trong tác phẩm này.
Vì thế người ta thiên về kết luận tác giả là một người khác. Người đó là ai ? Người ta đã đưa ra một số “ứng cử viên” như Luca, Barnnabê, thánh Clêmentê thành Rôma và Apollo.
Trong số đó Apollo được ủng hộ nhiều nhất (giả thuyết này được khởi xướng đầu tiên do Luther, thế kỷ 17), vì những lý do sau :
– Sách Cv mô tả Apollo là một người do thái ở Alexandria, một trung tâm văn hóa lớn, có tài hùng biện, am hiểu Thánh Kinh, nhiệt thành sốt sắng, thường trưng dẫn Thánh Kinh để chứng minh Giêsu là Đức Kitô (x. Cv 18,24-28). Tác giả thư này cũng có những nét đó.
– Nếu đi sâu vào nội dung thì ta thấy tác giả chịu ảnh hưởng của Phaolô, tông đồ Gioan và triết gia Philon. Mà Apollo chính là một người như thế : thấm nhuần triết lý Philon, quen biết nhiều với Phaolô và Gioan.
  1. Người nhận
Chúng ta đừng quan tâm tới những chữ “gởi tín hữu do thái” của một số bản chép, vì, như đã nói, chúng được thêm vào sau.
Có giả thuyết rằng người nhận là những tín hữu gốc do thái sống ở Palestina và nói tiếng híp-ri. Nếu giả thuyết này đúng thì thư này ban đầu phải viết bằng chữ híp-ri rồi sau dịch ra chữ hy lạp. Nhưng lối văn hy lạp của thư này rõ ràng không phải là văn dịch. Vậy thuyết này không vững.
Giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất là  thư nầy được viết cho những cộng đoàn tín hữu gồm những người do thái tòng giáo đang có nhiều sa sút về đức tin và đang nản lòng trước những khó khăn.
  1. Địa điểm và thời điểm viết
Cũng không có gì chắc chắn mà chỉ toàn giả thuyết. Giả thuyết dễ chấp nhận hơn cả là thư này được viết trước năm 70 (vì thư nói nhiều về Đền thờ Giêrusalem và những lễ nghi ở đó. Nếu như nó được viết sau khi Đền thờ bị phá huỷ năm 70 thì hẳn là tác giả có nói đến sự phá huỷ ấy. Đàng nay tác giả luôn nói về Đền thờ và các lễ nghi như thể đang còn hoạt động).
Còn nơi viết là đâu ? Câu cuối thư (13,24) có mấy chữ “Anh em Ý gởi lời thăm anh em”khiến nhiều người cho rằng thư này được viết tại nước Ý. Tuy nhiên mấy chữ đó có thể hiểu nhiều cách : “những người ý”, “những người từ Ý tới”… Tóm lại, khó xác định nơi viết.
  1. Hoàn cảnh
Thư này được viết cho những người do thái đã từ bỏ đạo của tổ tiên với những luật lệ và nghi thức do Môsê đặt ra để theo đạo của Đức Kitô.
Nhưng việc thay đổi này khiến họ gặp nhiều khó khăn : khó khăn chủ quan là do chính họ suy nghĩ ra. Họ đã quá quen với những lễ nghi do thái rực rỡ huy hoàng, bây giờ tham dự những lễ nghi kitô giáo được tổ chức đơn sơ trong các cộng đoàn nhỏ bé, nên họ không tránh khỏi so sánh và tự nhủ họ bị thua thiệt (gần như “bỏ mồi bắt bóng”) ; khó khăn khách quan là bị những người đồng đạo cũ xem là những kẻ bội giáo, thù ghét họ, bách hại họ, tước đoạt tài sản họ và có khi còn bỏ tù họ nữa (Dt 10,32-36). Với tâm thức còn mang nặng ảnh hưởng do thái giáo, những kitô hữu tội nghiệp ấy nghĩ rằng họ bị như vậy vì họ đã bỏ Yavê nên nay bị trừng phạt (6,10). Từ đó họ hoang mang đặt lại vấn đề : phải chăng họ đã lầm ? Rồi họ đâm ra trễ nãi (6,12), chậm hiểu (5,11), bị cám dỗ (2,18) và chán nản (12,12)…
Tác giả đã cố gắng an ủi và khuyến khích độc giả của mình. Ông kêu họ hãy bám chắc vào Lời Chúa để khỏi lạc xa chân lý (2,1), kiên trì như những lực sĩ (12,1), đừng rơi vào lầm lạc (13,9), đừng buông trôi theo khuynh hướng mệt mỏi sờn lòng (12,3). Ông còn khuyên họ luôn dán mắt vào ơn cứu độ (10,35) và kiên vững trong hy vọng (10,39). Tóm lại, nguồn nâng đỡ họ trong mọi hoàn cảnh phải là Đức tin (pistis) hiểu theo cả 3 nghĩa : vừa ngoan ngoãn đón nhận lời Chúa mặc khải, vừa cậy dựa vào sự quan phòng của Chúa, vừa kiên trì trung thành thực hiện ý Chúa (3,7  4,13  11)
  1. Spicq nhận xét : “Cũng như thư Rm là một tài liệu về ơn cứu độ, thư Gl về sự tự do, thư 1 Cr về tình bác ái huynh đệ, thì thư do thái là một tài liệu về  Đức tin phó thác can đảm, gắn bó với Chúa Cứu Thế bằng cả tâm hồn và con người mình”.
  2. Nội dung
  3. Luận đề 1 : Đức Kitô là vua vũ trụ  (1,5–2,18)
  4. Luận đề 2 : ĐK là vị Thượng Tế trung tín và hay thương xót  : 3,1-5,10
  5. Luận đề 3 : Chức Thượng Tế của Đức Kitô  : 5,11-10,18
  6. Nhận định
Ngày xưa, những tín hữu gốc do thái đã hoang mang vì những cái giá phải trả cho việc họ chọn theo kitô giáo : a/ Không còn được hưởng những đặc miễn mà chính quyền Rôma dành cho các tín đồ Do thái giáo ; b/ trái lại còn bị Rôma đàn áp, bách hại ; c/ ngoài ra lại còn bị chính đồng bào do thái bách hại nữa… Họ tự nghĩ “Phải chăng mình đã sai ?”, và họ muốn xét lại quyết định của mình.
Ngày nay vấn đề tương tự cũng có thể đặt ra cho chúng ta : theo đạo, chúng ta chẳng những không được thêm gì cho cuộc sống vật chất, ngược lại còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều người sau một thời gian theo đạo mà “chẳng được ích lợi gì” đã thôi không theo đạo nữa ; một số khác hoang mang muốn đặt lại vấn đề.
Nếu đã hoang mang thì cuộc sống sẽ chao đảo và không thể tiến lên. Do đó tác giả đã khuyến khích tín hữu kiên vững trong đức tin của mình : hãy xác tín mình đã chọn rất đúng, hãy nghĩ rằng không nên đảo ngược lại sự chọn lựa cơ bản ấy nữa, và hãy nhìn thằng vào Đức Kitô mà tiến lên phía trước.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Chúa Nhật XXVI Thường Niên (B)
Chủ Nhật 30 Tháng Chín, 2018
Đón nhận những kẻ bé mọn và bị khinh thường
Không ai sở hữu Chúa Giêsu
Mc 9:38-43, 47-48


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc
a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Văn bản Tin Mừng của Chúa Nhật XXVI Thường Niên thuật lại một phần của bài chỉ dẫn dài mà Chúa Giêsu nói với các môn đệ (Mc 8:22-10:52).  (Xem bài bình luận về Tin Mừng ngày Chúa Nhật XXIV).  Bài Tin Mừng này đặc biệt đặt ra ba điều kiện cần thiết cho việc hoán cải một người muốn đi theo Chúa: (i)  Khắc phục ý tưởng sai lầm của những ai nghĩ rằng họ sở hữu Chúa Giêsu (Mc 9:38-40);  (ii)  Khẳng định về việc niềm nở chào đón những kẻ bé mọn (Mc 9:41-42) và (iii) Đòi hỏi một sự dấn thân triệt để vào Tin Mừng (Mc 9:43-48).

b)  Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Mc 9:38-40:   Đức Giêsu chỉnh sửa tâm lý khép kín của thánh Gioan Tông Đồ.
Mc 9:41:  Bất cứ ai cho các môn đệ của Đấng Kitô uống một chén nước thì sẽ được thưởng.
Mc 9:42:  Tránh xúc phạm đến những kẻ bé mọn.
Mc 9:43-48:  Tận tụy triệt để với Tin Mừng.

c)  Tin Mừng:
38 Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y”. 39 Nhưng Chúa Giêsu phán: “Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. 40 Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con.
41 Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
42 Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.
43 “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. 44 Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi; 45 thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. 46 Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, 47 thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, 48 nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”. 49 Quả thật, ai nấy sẽ được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối. 50 Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em, và sống hoà thuận với nhau.”

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a)  Lời nào trong văn bản này làm bạn hài lòng nhất hay đánh động bạn nhất?  Tại sao?
b)  Lời giáo huấn của Chúa Giêsu:  “Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con” có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay?
c)  “Một ly nước” được Chúa Giêsu nhắc đến có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay?
d)  “Những kẻ bé mọn” là ai?  Câu “kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn” có nghĩa là gì (câu 42)?
e)  “Buộc thớt cối xay vào cổ”, “Chặt tay, chặt chân”, “Móc mắt”:  Có thể nào những câu này được hiểu theo nghĩa đen không?  Chúa Giêsu nói gì qua những câu này?
f)  Trong cộng đoàn và xã hội chúng ta, những kẻ bé mọn và bị khinh thường là những ai?  Chúng ta đón tiếp họ như thế nào và phẩm chất sự đón tiếp của chúng ta ra sao?

5.  Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
 a)  Bối cảnh xưa và nay:
  • Như đã nói ở trên, Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này trình bày ba điều kiện cho việc hoán cải của bất cứ ai muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu:  (i) Không có một tâm lý khép kín như môn đệ Gioan nghĩ rằng mình sở hữu Chúa Giêsu, mà phải cởi mở và đại kết, có thể nhận ra sự tốt lành ở những người khác, dù rằng họ có thể thuộc về một tôn giáo khác.  (ii) Khắc phục não trạng của những kẻ tự coi mình cao quý hơn những người khác và do đó, khinh thường những kẻ bé mọn, nghèo hèn và bị tách rời ra khỏi cộng đoàn.  Theo lời Chúa Giêsu, những kẻ như thế thì đáng bị cột thớt cối xay vào cổ và quẳng xuống biển sâu.  (iii) Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không nên để cho thói quen nhập vào đời sống Tin Mừng của chúng ta, mà chúng ta nên có khả năng phá vỡ những mối quan hệ ngăn trở chúng ta không sống đời ấy cách trọn vẹn.
  • Ba điểm này rất thực tế cho chúng ta ngày nay.  Nhiều giáo dân của Giáo Hội Công Giáo thường có xu hướng chống lại đại kết và có tâm lý khép chặt như thể những Kitô hữu chúng ta tốt lành hơn những người khác.  Thế giới ngày nay, bị chi phối bởi hệ thống tân tự do, nhiều người coi thường những kẻ bé mọn và bần hàn ở khắp mọi nơi, đói rách, người tị nạn và những kẻ bị bỏ rơi đang gia tăng.  Người Kitô hữu chúng ta thường không sống hết lòng với Tin Mừng.  Nếu chúng ta, hàng triệu người Kitô hữu, thực sự sống theo lời Tin Mừng, thế giới này hẳn sẽ là một nơi khác.

b)  Lời bình luận về văn bản:
Mc 9:38-40:  Trạng thái tâm lý khép kín.
Có người không thuộc về cộng đoàn mà nhân danh Đức Giêsu để trừ quỷ.  Môn đệ Gioan thấy vậy và đã ngăn cấm anh ta:  Bởi vì người ấy không phải là người của chúng ta nên chúng con cố gắng ngăn cấm y.  Ông Gioan nhân danh cộng đoàn, ngăn cản người khác làm việc tốt lành!  Ông nghĩ rằng là một người môn đệ tốt, ông phải độc quyền chiếm hữu Chúa Giêsu và do đó, đã muốn ngăn chặn những kẻ khác không được nhân danh Chúa Giêsu để làm việc tốt lành.  Đây là trường hợp não trạng cổ hủ và khép kín của “Dân Riêng, Dân Được Chọn!”  Chúa Giêsu đáp lại:  Đừng ngăn cản người ta!  Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta!(Mc 9:40).  Điều quan trọng đối với Chúa Giêsu không phải là người ấy có thuộc về cộng đoàn hay không, mà là người ấy có làm những việc tốt lành mà cộng đoàn cần phải làm hay không.  Đức Giêsu có một tâm lý đại kết.
Mc 9:41:  Ai cho một ly nước thì sẽ được phần thưởng.
Một trong những câu nói của Chúa Giêsu được đưa vào ở đây:  Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.  Hai tư tưởng để nhận xét về lời nói này:  i) “Nếu bất cứ ai cho anh em một ly nước”:  Chúa Giêsu đang trên đường đi về Giêrusalem để hy sinh mạng sống mình.  Cử chỉ của món quà cao quý!  Nhưng Người không xem thường những quà tặng nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày:  một ly nước, một câu chào hỏi, một cử chỉ bác ái, rất nhiều cử chỉ khác cho thấy tình yêu của chúng ta.  Bất cứ ai khinh thường viên gạch thì sẽ không bao giờ xây nổi một ngôi nhà!  ii) Vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô:  Chúa Giêsu tự nhận mình với chúng ta là những kẻ muốn thuộc về Người.  Điều này có nghĩa là đối với Chúa, chúng ta có giá trị tuyệt vời.  Do đó, chúng ta phải luôn luôn tự hỏi:  “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?” và chúng ta cũng hỏi mình:  “Tôi là ai đối với Chúa Giêsu?”  Câu Tin Mừng này cho chúng ta câu trả lời khích lệ và tràn đầy hy vọng.
Mc 9:42:  Xúc phạm đến những kẻ bé mọn.
Việc xúc phạm là điều gì đó khiến cho một người đi trệch đường.  Xúc phạm đến những kẻ bé mọn là làm cớ cho những kẻ ấy vấp phạm và mất niềm tin vào Thiên Chúa.  Bất cứ kẻ nào làm như vậy, thì bị lên án:  “đáng bị buộc thớt cối xay vào cổ và quăng xuống biển!”  Tại sao lại có lời gay gắt như thế?  Bởi vì Chúa Giêsu tự nhận mình với những kẻ nhỏ bé (Mt 25:40-45).  Bất cứ ai làm tổn thương họ, thì làm tổn thương đến Chúa Giêsu!  Ngày nay, ở nhiều nơi, những kẻ nhỏ bé, nghèo hèn, lìa bỏ Hội Thánh Công Giáo và đi sang các giáo hội khác.  Họ không còn có thể tin vào Giáo Hội!  Tại sao vậy?  Trước khi chúng ta đổ lỗi cho các giáo hội khác, tốt hơn là chúng ta hãy tự vấn:  Tại sao họ rời bỏ nhà chúng ta?  Nếu họ bỏ đi bởi vì họ không cảm thấy như ở cùng nhà với chúng ta thì chúng ta phải có sự thiếu sót gì đó.  Chúng ta sẽ đổ lỗi như thế nào đây?  Chúng ta có đáng bị buộc cối đá vào cổ không?
Mc 9:43-48:   Chặt chân và tay.
Chúa Giêsu bảo chúng ta chặt tay hoặc chân, móc mắt, nếu chúng là cớ cho việc phạm tội.  Người nói:  “Thà các con là người tàn tật (cụt tay, cụt chân, chột mắt), mà được vào cõi sống, còn hơn là có đầy đủ hai tay (chân, mắt) mà bị ném vào hỏa ngục”.  Những lời này không thể được hiểu theo nghĩa đen.  Chúng có nghĩa rằng chúng ta phải triệt để trong sự chọn lựa của chúng ta cho Thiên Chúa và cho Tin Mừng.  Danh từ Địa Ngục (Gehenna)nơi mà dòi bọ rúc rỉa của nó không hề chết và lửa của nó không hề tắt”, là một hình ảnh mô tả tình trạng của người không có Thiên Chúa.  Gehenna là tên một thung lũng gần thành Giêrusalem, nơi đó rác của thành phố được thải ra và nơi có ngọn lửa cháy liên tục để đốt rác.  Nơi hôi hám này đã được người ta dùng để chỉ tình trạng của một người không có phần trong Nước Thiên Chúa.

c)  Phần phụ lục:
Chúa Giêsu đón tiếp và bênh vực những kẻ bé nhỏ
Đã nhiều lần, Chúa Giêsu khẳng định về việc đón tiếp những kẻ bé mọn.  “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy” (Mc 9:37).  “Nếu ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật các con, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42).  Chúa yêu cầu chúng ta đừng kinh khi những kẻ bé mọn (Mt 18:10).  Vào ngày phán xét chung, công lý sẽ được chào đón bởi vì họ đã chia thức ăn cho “kẻ bé mọn nhất trong những anh em của Ta” (Mt 25:40).
Nếu Chúa Giêsu nhấn mạnh nhiều vào việc tiếp đón những kẻ bé mọn, vì lẽ có nhiều kẻ bé mọn đã không được đón tiếp!  Thật ra, phụ nữ và trẻ em đã không được đếm xỉa tới (Mt 14:21; 15:38), họ bị khinh thường (Mt 18:10) và buộc phải im lặng (Mt 21:15-16).  Ngay cả các tông đồ cũng đã cấm họ đến gần Chúa Giêsu (Mt 19:13; Mc 10:13-14).  Nhân danh lề luật của Thiên Chúa, bị giải thích cách sai lạc bởi các kẻ có giáo quyền, cho nên nhiều người tốt lành đã bị loại trừ.  Thay vì đón tiếp những kẻ bị loại trừ, lề luật đã được dùng để hợp pháp hóa việc loại trừ.
Trong Tin Mừng, thành ngữ “những kẻ bé mọn” (theo tiếng Hy Lạp, elachistoi, mikroi hay nepioi), đôi khi có nghĩa là “trẻ nhỏ”, những lúc khác, nó có nghĩa là những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội.  Không dễ dàng mà phân biệt.  Thỉnh thoảng chữ “bé nhỏ” trong Tin Mừng có nghĩa gì, có nghĩa là “trẻ em” bởi vì trẻ em bị xếp vào loại “những kẻ bé mọn”, những kẻ bị loại trừ. Cũng thế, chẳng dễ mà có thể phân biệt giữa những gì phát xuất từ thời Chúa Giêsu và những gì từ thời các cộng đoàn mà những sách Tin Mừng được viết cho họ.  Dù sao chăng nữa, điều rõ ràng là bối cảnh của việc loại trừ thì có thật vào thời ấy, và hình ảnh mà các cộng đoàn tiên khởi có về Chúa Giêsu là:  Chúa Giêsu đứng về phía những kẻ bé mọn và bênh vực họ.  Những gì mà Chúa Giêsu làm để bênh vực đời sống của các trẻ nhỏ, những kẻ bé mọn, thì nổi bật:
 Đón tiếp và nghiêm cấm việc xúc phạm đến họ.  Một trong những câu nói gay gắt nhất của Chúa Giêsu là đối với những ai tạo cớ vấp phạm cho những kẻ bé mọn, đó là những kẻ bằng vào thái độ của họ đã tước đoạt khỏi các trẻ nhỏ đức tin của chúng vào Thiên Chúa.  Đối với những kẻ như thế thì tốt hơn là buộc thớt cối đá vào cổ họ và xô xuống biển (Mc 9:42; Lc 17:2; Mt 18:6).
 Chào đón và giao tiếp.  Khi các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu để nhận phép lành của Người, các môn đệ đã lấy làm khó chịu và muốn đuổi chúng đi.  Theo phong tục của thời đó, trên phương diện pháp lý, các bà mẹ và các con nhỏ thực sự sống trong một tình trạng luôn không tinh tuyền.  Giao tiếp với chúng có nghĩa là bị nhơ bẩn lây!  Nhưng Chúa Giêsu chỉnh sửa các môn đệ và chào đón các bà mẹ và trẻ em.  Người ôm lấy các em.  “Hãy để cho các trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng! (Mc 10-13-16; Mt 19:13-15).
*  Đồng cảm với những kẻ bé mọn.  Chúa Giêsu ôm lấy các trẻ nhỏ và đồng cảm với chúng.  Ai đón tiếp chúng tức là “đón tiếp chính mình Thầy” (Mc 9:37).  “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40).
*  Đòi hỏi các môn đệ trở nên như trẻ nhỏ.  Chúa Giêsu muốn các môn đệ trở nên như trẻ nhỏ vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng.  Nếu không thì chẳng thể nào vào được Nước Trời (Mc 10:15; Mt 18:3; Lc 9:46-48). Chúa nói rằng các trẻ nhỏ là những thày dạy của người lớn!  Điều này không bình thường.  Chúng ta muốn làm ngược lại.
*  Bênh vực quyền được reo hò của chúng.  Khi Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem, chính các trẻ nhỏ đã reo hò vang dội:  “Hoan hô con vua Đavít!” (Mt 21:15).  Các trẻ nhỏ đã bị khiển trách bởi các thượng tế và Kinh sư, nhưng Chúa Giêsu đã bênh vực chúng và thậm chí còn trích lời Kinh Thánh để bênh vực (Mt 21:16).
*  Thật là vinh phúc cho Nước Trời hiện diện trong những kẻ bé mọn.  Chúa Giêsu rất vui mừng khi nhận ra rằng những kẻ nhỏ bé hiểu được các vấn đề liên quan đến Nước Trời mà Người đã công bố cho người ta.  “Lạy Cha, Con xin tạ ơn Cha!” (Mt 11:25-26).  Chúa Giêsu thấy rằng những kẻ bé mọn hiểu được những việc liên quan đến Nước Trời hơn là những luật sĩ!
*   Đón tiếp và chữa lành.  Chúa Giêsu đón tiếp, chữa lành hoặc khiến nhiều trẻ em hoặc người chết trẻ tuổi sống lại:  cô con gái mười hai tuổi của ông Giairu (Mc 5:41-42), đứa con gái của người phụ nữ Canaan (Mc 7:29-30), con trai của góa phụ thành Naim (Lc 7:14-15), đứa bé mắc bệnh động kinh (Mc 9:25-26); con trai vị đại đội trưởng (Lc 7:9-10), con trai viên sĩ quan cận vệ nhà vua (Ga 4:50), đứa bé với năm chiếc bánh và hai con cá (Ga 6:9).

6.  Thánh Vịnh 34 (33)
Người nghèo chia sẻ đức tin của anh ta với chúng ta
Tôi sẽ không ngừng chúc tụng CHÚA,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.
Linh hồn tôi hãnh diện vì CHÚA
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.
Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA,
ta đồng thanh tán tụng danh Người.
Tôi đã tìm kiếm CHÚA, và Người đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.
Ai nhìn lên CHÚA sẽ vui tươi hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.
Kẻ nghèo này kêu lên và CHÚA đã nhận lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.
Sứ thần của CHÚA đóng trại chung quanh
để giải thoát những ai kính sợ Người.
Hãy nghiệm xem CHÚA tốt lành biết mấy:
hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!
Kính sợ CHÚA đi, đoàn dân thánh hỡi,
vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi.
Kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ,
còn ai tìm kiếm CHÚA chẳng thiếu của gì.
Các con ơi, hãy đến mà nghe,
ta sẽ dạy cho biết đường kính sợ CHÚA.
Ai là người thiết tha được sống,
ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc chứa chan?
Phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa;
hãy làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà.
CHÚA đối đầu với quân gian ác,
xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời,
nhưng để mắt nhìn người chính trực
và lắng tai nghe tiếng họ kêu.
Họ kêu xin, và CHÚA đã nhận lời,
giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.
CHÚA gần gũi những tấm lòng tan vỡ,
cứu những tâm thần thất vọng ê chề.
Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân,
nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát khỏi.
Xương cốt họ đều được CHÚA giữ gìn,
dầu một khúc cũng không giập gãy.
Quân gian ác chết vì tội ác,
kẻ ghét người lành chuốc án phạt vào thân.
CHÚA cứu mạng các người tôi tớ,
ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ.

7.  Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét