14/04/2020
Thứ ba tuần BÁT NHẬT
PHỤC SINH
BÀI ĐỌC I: Cv 2, 36-41
“Anh em hãy ăn năn sám hối và mỗi
người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Kitô”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô nói với những người Do-thái rằng: “Xin toàn
thể nhà Israel hãy nhận biết rằng: Thiên Chúa đã tôn Đức Giêsu mà anh em đã
đóng đinh, lên làm Chúa và làm Đấng Kitô”. Nghe những lời nói trên, họ đau đớn
trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: “Thưa các ông, chúng tôi
phải làm gì?” Phêrô nói với họ: “Anh em hãy ăn năn sắm hối, và mỗi người trong
anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em sẽ
nhận lãnh Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em và mọi
người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến!”
Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ rằng: “Anh
em hãy cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này”. Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng
đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 32, 4-5.
18-19. 20 và 22
Đáp: Địa cầu
đầy ân sủng Chúa (c. 5b).
Hoặc đọc:
Alleluia.
Xướng: 1) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy
tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. –
Đáp.
2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông
ân sủng của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh
cơ hàn. – Đáp.
3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Đấng phù trợ và che chở
chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con
tin cậy ở nơi Ngài. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 14, 8
Alleluia, alleluia!
– Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để ở
cùng các con luôn mãi. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 20, 11-18
“Tôi đã trông thấy và Người đã
phán với tôi những điều ấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ,
bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị
ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: “Tại sao bà khóc?”
Bà trả lời: “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để
Người ở đâu?” Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó,
nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: “Bà kia, sao mà khóc, bà tìm
ai?” Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: “Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người
đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người”.
Chúa Giêsu gọi: “Maria”. Quay mặt lại, bà thưa Người: “Rabboni!” (nghĩa là “Lạy
Thầy!”). Chúa Giêsu bảo bà: “Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng
hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là
Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con”.
Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: “Tôi đã trông thấy Chúa và
Chúa đã phán với tôi những điều ấy”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Niềm tin Phục
Sinh
Trong một đêm tao ngộ do một nhóm thân hữu tổ chức tại Sydney, Australia,
vào một tối Chúa Nhật cuối tháng 4/2001, nhạc sĩ Vũ Thành An, tác giả của những
bài ca không tên bất hủ, đã xuất hiện không như một nhạc sĩ, mà như một nhà
truyền đạo. Ở cao điểm của đêm tao ngộ, nhạc sĩ Vũ Thành An đã giới thiệu và
trình bày những tác phẩm mà ông gọi là Những bài ca nhân bản và thánh ca. Như
ông đã giải thích, những bài ca nhân bản đề cao tình người và những bài thánh
ca ca tụng tình yêu Chúa này nói lên chính cuộc đổi đời của ông. Những dòng tâm
sự và giọng hát của tác giả đã được khán thính giả đón nhận như một bài giảng
thuyết về mầu nhiệm Phục Sinh.
Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Ðấng Phục Sinh thường đến sau những
đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Ðiều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ
của Chúa Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa
lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống,
Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền.
Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình
đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.
Quả thật, Ðấng Phục Sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ
nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường
hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức
khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã
chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay. Ðể
tin nhận Ngài, con người luôn làm một bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc
sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải
trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ
đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những
người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải
xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng
ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ
đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng.
Niềm tin Phục Sinh mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta. Chúng ta
hãy cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta niềm tin ấy và xin Ngài củng cố niềm tin
ấy cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần BNPS
Bài đọc: Acts
2:36-41; Jn 20:11-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tôi đã tìm thấy Chúa.
Đã mang thân phận con
người, ai cũng có lầm lỡ. Thiên Chúa biết điều đó; vì thế, Ngài không chấp tội
con người. Ngài không muốn con người phải chết trong tội, nhưng muốn họ ăn năn
sám hối và được sống. Điều quan trọng là con người phải nhận ra những lầm lỡ của
mình; đồng thời phải biết làm gì để đền bù những tội lỗi đó.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong việc đi tìm và nhận ra Chúa. Trong Bài Đọc I, nhờ sự rao giảng của
Phêrô, 3,000 người Do-thái đã nhận ra tội lỗi của mình và trở về với Thiên Chúa
qua việc lãnh nhận Phép Rửa. Trong Phúc Âm, Bà Mary Magdala, người đã tìm thấy
Chúa khi Ngài còn sống; và đã tìm thấy Chúa sau khi Ngài sống lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng tôi phải làm gì?
1.1/ Thiên Chúa không
chấp tội con người: Giết người vô tội đã là tội nặng, giết Con Thiên Chúa, Đấng
yêu thương và lo lắng cho con người, là tội vô cùng nặng nề. Phêrô mở mắt cho
người Do-thái nhận ra họ đã lầm khi kết án Chúa Giêsu Kitô: “Vậy toàn thể nhà
Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên Thập Giá,
Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.”
Thiên Chúa sẽ đối xử
thế nào với những ai vào hùa giết con của Ngài? Đây là câu hỏi mà chính Chúa
Giêsu đã đặt ra cho họ trong ví dụ các tá điền được cho mướn đất làm vườn nho.
Họ trả lời: “Ông chủ sẽ tru diệt chúng và giao vườn nho cho những ai biết sinh
lợi.” Khi nhận ra tội của mình, người Do-thái đau đớn trong lòng, và hỏi ông
Phêrô cùng các Tông Đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?”
1.2/ Hãy ăn năn sám hối
và tin vào Tin Mừng: Đối với loài người, sẽ không có cơ hội thứ hai cho những
người giết con Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa, Ngài cho họ có cơ hội thứ hai
như Phêrô tuyên bố hôm nay: Họ phải làm hai việc:
(1) Lãnh nhận Phép Rửa:
“Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu Phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để
được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là
điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những
người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.”
(2) Tránh xa thế hệ
gian tà: Ông Phêrô khuyên nhủ họ: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được
cứu độ.” Để bước theo đường lối của Thiên Chúa, con người cần tránh xa những sự
sai lầm, giả trá, và biết sống theo sự thật. Chính sự sai lầm và không sống
theo sự thật, những nhà lãnh đạo Do-thái đã luận tội Con Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Cuộc hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Bà Mary Magdala
2.1/ Mary Magdala tiếp
tục tìm xác Chúa: Trình thuật này tiếp tục trình thuật Bà chạy về báo tin cho
các môn đệ, và Phêrô cùng Gioan đã chạy ra mộ và chạy về. Bà vẫn quanh quẩn bên
mộ Chúa vì thương mến, và có lẽ vì tội nghiệp Chúa đã phải chịu cái chết đau khổ
như thế, mà giờ đây vẫn chưa hết đau khổ, vì con người vẫn chưa tha cho xác chết
của Ngài.
(1) Mary thấy sứ thần
Thiên Chúa, nhưng không nhận ra họ: Bà đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa
khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi
ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân.
Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa
tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!”
(2) Mary nghe tiếng
Chúa và nhìn thấy Chúa, nhưng không nhận ra Chúa: Đức Giêsu nói với bà: “Này
Bà! sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà tưởng Chúa là người làm vườn, và nghĩ có thể
ông đã lấy xác Chúa, liền nói với ông: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì
xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.”
2.2/ Mary Magdala nhận
ra Chúa Giêsu.
(1) Nhận ra Thiên Chúa
không bằng những gì nghe và thấy bên ngoài, vì Bà đã nghe và thấy Chúa như
trình bày ở trên; nhưng bằng sự rung động từ trong trí óc và con tim. Thánh sử
Gioan mô tả phút giây hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Mary Magdala thật ngắn ngủi,
nhưng vô cùng tuyệt vời. Đức Giêsu gọi bà: “Mary!” Bà quay lại và nói bằng tiếng
Do-thái: “Rabbouni!” Chỉ có hai con tim đang yêu mới hiểu được ý nghĩa tuyệt vời
của hai tiếng gọi này. Sự kiện Chúa gọi tên Bà gợi lại cho bà nhiều điều: Chúa
đang sống, Ngài nhận ra Bà, Ngài hiểu sự đau khổ của Bà, và Ngài yêu thương Bà.
Nhận ra tiếng gọi thân thương của người mình yêu mến trong khi đang tuyệt vọng
đi tìm, còn gì xúc động và vui mừng hơn, Bà quay lại để nhìn Chúa. Khi nhận ra
Chúa, bà chạy đến, gieo mình xuống ôm chân Ngài, và sung sướng kêu lên “Thầy của
con.”
(2) Yêu Chúa không phải
giữ chặt Chúa, nhưng làm theo những gì Ngài muốn: Hành động của Mary Magdala
như thầm nói với Chúa: “Con sẽ không để Thầy xa con nữa.” Nhưng Đức Giêsu bảo
bà: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp
anh em Thầy và bảo họ: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên
cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.””
Khác với tình yêu con
người, khi con người yêu ai, họ muốn giữ người họ yêu làm của riêng cho mình;
tình yêu Thiên Chúa đòi con người tiếp tục cho Chúa đi, chứ không giữ Chúa lại
làm của riêng cho mình. Con người tìm thấy niềm vui khi nhìn thấy mọi người yêu
Chúa. Chúa Giêsu muốn bảo Mary: Nếu con thương Thầy, hãy làm cho nhiều người nhận
biết Thầy! Thầy còn nhiều anh, chị, em mà con phải mang tin mừng đến cho họ.
(3) Bà Mary Magdala đi
báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa!” và bà kể lại những điều Người đã nói với
bà. Một khi đã tìm thấy và cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa, con người trở
thành kẻ hát rong, ca ngợi tình yêu Thiên Chúa cho mọi người được biết. Cuộc đời
không còn gì lôi cuốn được người có tình yêu Thiên Chúa; họ sẽ không đánh đổi
tình yêu này cho bất cứ điều gì. Chỉ có tình yêu này mới có sức mạnh đủ để họ làm
chứng cho Chúa giữa bao nghịch cảnh: bắt bớ, roi đòn, tù đày, gươm giáo, và
ngay cả cái chết.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Hãy tìm Chúa! Ngài sẽ
cho gặp; nhưng gặp lúc nào và khi nào là hoàn toàn do ý của Thiên Chúa.
– Thiên Chúa ở ngay
trong tâm hồn con người, như thánh Augustine thú nhận: “Ngài luôn ở bên con, thế
mà con vất vả tìm Ngài khắp nơi.”
– Khi đã tìm được
Chúa, chúng ta không thể ích kỷ giữ Ngài cho mình chúng ta; nhưng phải chia sẻ
cho mọi người để tất cả đều tìm thấy và tin tưởng nơi Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
14/04/2020 – THỨ BA TUẦN BÁT NHẬT PS
Ga 20,11-18
RÁP-BU-NI, LẠY THẦY!
Đức Giê-su gọi bà:
“Ma-ri-a!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri: “Ráp-bu-ni” (nghĩa là : ‘Lạy
Thầy’). (Ga 20,16)
Suy niệm: Không ai phủ nhận tình yêu mà bà Ma-ri-a Mác-đa-la
dành cho Chúa Giê-su. Tình yêu mãnh liệt vượt qua mọi sự sợ hãi. Tình yêu thúc
bách khiến bà hối hả đến mồ từ sáng sớm, mà quên rằng thân liễu yếu như bà làm
sao lăn nổi táng đá lấp cửa mồ để mà hoàn tất việc tẩm liệm theo đúng nghi thức.
Thế nhưng, bấy nhiêu đó vẫn chưa đủ để bà nhận ra rằng vị Thầy yêu dấu mà bà
đang tìm kiếm lại đang sống mang dáng dấp ông làm vườn đứng sau lưng bà. Bà còn
phải làm một cuộc vượt qua nữa: vượt qua từ sự chết đến sự sống. Một lần nữa
chính kinh nghiệm về tình yêu đã giúp bà vượt qua. Thân xác Đức Ki-tô Phục Sinh
đã biến đổi nhưng tình yêu của ngài thì không biến đổi. Lời gọi của Chúa:
“Ma-ri-a” đã giúp bà ngay tức khắc hiểu được điều đó. Và lời đáp “Ráp-bu-ni” của
bà chính là tiếng dội trọn vẹn của tình yêu mãnh liệt nhưng đã được chuyển hướng:
không phải hướng về một Giê-su đã chết mà về một Đức Ki-tô đã sống lại và vẫn
còn đang sống.
Mời Bạn: Nếu bạn tin rằng Đức Giê-su đã sống lại và Ngài còn
đang sống thì ắt là Ngài vẫn đang hiện diện ở giữa chúng ta. Vậy hãy nỗ lực
khám phá ra Đức Ki-tô phục sinh đang hiện diện quanh ta, nơi Lời Chúa, nơi các
bí tích, và nhất là nơi bí tích Thánh Thể.
Chia sẻ: Vì sao nói rằng niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh là
thiết yếu cho đời sống đức tin của ki-tô hữu?
Sống Lời Chúa: Bạn hãy tận dụng những giây phút ở một mình để lắng
nghe Đức Ki-tô Phục Sinh gọi tên bạn và bạn hãy đáp lại bằng lời “Ráp-bu-ni” với
tất cả tâm tình yêu mến.
Cầu nguyện: Hát “Con hãy nhớ rằng”.
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Tôi đã thấy
Chúa
Suy niệm :
Maria Mácđala là con người yêu mến.
Theo Tin Mừng Gioan, bà đã theo Thầy Giêsu đến tận Đồi Sọ,
đã đứng gần thập giá và chứng kiến cái chết của Thầy (Ga 19, 25).
Hầu chắc bà đã tham dự cuộc mai táng Thầy và biết vị trí của ngôi mộ.
Hơn nữa, bà là nguời ra mộ sớm nhất vào ngày thứ nhất trong tuần.
Rồi bà chạy về báo tin cho các môn đệ về chuyện xác Thầy không còn đó
(20, 1-2).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bà lại có mặt ở ngoài mộ lần nữa (c. 11).
Ngôi mộ như có sức giữ chân bà.
Chỉ tình yêu mới giải thích được điều đó.
Maria là con người tìm kiếm.
Đấng phục sinh hỏi bà: “Bà tìm ai?” (c. 15).
Bà chỉ có một mối quan tâm duy nhất, đó là tìm lại được xác Chúa của bà.
Bà đã nói với Phêrô: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ,
và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20, 2).
Bà đã nói với vị thiên thần ngồi trong mộ điệp khúc tương tự:
“Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu”
(c. 13).
Khi gặp Thầy Giêsu, bà tưởng là người làm vườn, nên cũng nói:
“Nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết
ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về (c. 15).
Đối với Maria, mất xác Thầy là mất chính Thầy,
nên bà cứ bị ám ảnh bởi chuyện người ta để Người ở đâu.
Maria là con người đau khổ.
Bà đã khóc nhiều từ khi xác Thầy không còn đó.
Cả thiên thần và Đức Giêsu đều hỏi bà cùng một câu hỏi: “Tại sao bà
khóc?”
Ai sẽ là người lau khô nước mắt của bà Maria Macđala?
Ai sẽ là người giúp bà tìm thấy điều bà tìm kiếm?
Đức Giêsu phục sinh đến gặp bà dưới dạng một người làm vườn.
Thậm chí bà nghi ngờ ông này có dính dáng đến chuyện mất xác Thầy.
“Maria”: Đức Giêsu gọi tên bà với một cung giọng quen thuộc.
Bây giờ bà mới nhận ra Thầy và reo lên: “Rabbouni !”
Có những lời của Đức Giêsu được thực hiện.
“Ai tìm thì sẽ thấy”, “Ai khóc lóc sẽ được vui cười”.
Maria đi tìm xác Thầy, nhưng bà đã gặp được một điều quý hơn nhiều,
đó là chính Thầy đang sống.
Maria đã khóc lóc, nhưng niềm vui bà gặp được lớn hơn nhiều.
Chẳng có giọt nước mắt nào là vô ích trước mặt Thiên Chúa.
Hãy nếm niềm vui bất ngờ của Maria.
Bà được Chúa sai đến với các môn đệ, cũng là anh em của Ngài.
Bà gói ghém kinh nghiệm bà mới trải qua trong một câu đơn giản:
“Tôi đã thấy Chúa !” và Chúa đã nói với tôi (c. 18).
Chúng ta không thể nào làm chứng cho Chúa Giêsu nếu không có kinh nghiệm
này.
Thấy Chúa và nghe được Chúa nói: đó là ước mơ của chúng ta trong cầu nguyện.
Nhưng đừng quên Maria đã yêu cách nồng nhiệt và can đảm
và đã đau khổ tìm kiếm Thầy Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
xin ban cho con sự sống của Chúa,
sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14 THÁNG TƯ
Sự Bình An Chảy Ra
Từ Đôi Bàn Tay Mang Lỗ Đinh
Tin Mừng dẫn chúng ta
đến với căn gác thượng ở Giê-ru-sa-lem – là nơi đầu tiên của lịch sử It-ra-en mới,
nơi đầu tiên của Dân Thiên Chúa trong giao ước mới. Chúng ta đã từng có mặt ở
đây, vào đúng hôm Phục Sinh. Đó là ngày thứ nhất “sau ngày sa-bát”, ngày thứ nhất
của tuần lễ.
Các Tông Đồ đều đã biết
về sự kiện ngôi mộ của Đức Giêsu trống rỗng – bởi vì trước hết là các phụ nữ, rồi
đến Phê-rô và Gio-an, đã đến thăm ngôi mộ đá ấy. Vào buổi chiều cùng ngày hôm ấy,
chính Đức Giêsu đã xuất hiện với họ. Người hiện ra giữa họ, ngay cả dù các cánh
cửa của căn gác thượng đều đóng kín bưng. Người chào các Tông Đồ và nói: “Bình
anh cho anh em!” (Ga 20,19). Người cho họ xem “đôi bàn tay và cạnh sườn Người”
(Ga 20,20): những dấu đinh vẫn còn đó!
Và kìa, dường như từ
những vết thương ấy – từ đôi bàn tay bị xuyên thủng, từ đôi bàn chân, và từ cạnh
sườn – Người đã rút ra những gì mà Người tha thiết nhất để nói với họ trong buổi
gặp gỡ đầu tiên này, sau bi kịch trên đồi Can-vê.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 14/4
Cv 2, 36-41; Ga 20,
11-18.
Lời Suy Niệm: “Hãy đi gặp
anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Chúa Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em,
lên cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em.”
Trong sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, đối với Gioan ông thấy sự ngăn nắp, cẩn thận
trong ngôi mộ trống “Ông đã thấy và đã tin”. Còn đối với Maria Mác-da-la, vì sự
hoảng loạn tâm trí khi thấy ngôi mộ trống thì được chính Chúa Giêsu trực tiếp
hiện ra và căn dặn những điều cần thiết, được trở nên là người loan báo
tin Mừng Phục Sinh của Người.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn vững tin và vui sống với
niềm tin: Chúa Phục sinh.
Mạnh Phương
14 Tháng Tư
Chiếc Tàu Vĩ Ðại
10 giờ đêmngày 14
tháng 4 năm 1912, chiếc tàu du lịch mang tên Titanic của Anh Quốc đã đâm phải một
tảng băng giữa khơi Ðại Tây Dương. Bốn giờ đồng hồ sau, cả chiếc tàu, thủy thủ
đoàn và nhiều hành khách đã bị chôn vùi giữa lòng đại dương…
Cuộc đắm tàu thảm
thương ấy đã là nguồn cảm hứng cho không biết bao nhiêu tác phẩm văn chương. Những
người sống sót đã thuật lại sự can đảm phi thường của viên thuyền trưởng, các
sĩ quan và thủy thủ đoàn. Họ kể lại rằng nhiều người vợ đã khước từ sự cứu vớt
để ở lại và cùng chết với chồng.
Giữa bao nhiêu
gương hy sinh vĩ đại ấy, những người sống sót còn kể lại một câu chuyện vì xem
ra người ta chỉ muốn biết vì óc tò mò hơn là vì thán phục. Ðó là câu chuyện của
một người đàn bà sau khi đã được đưa lên boong tàu để chuẩn bị được cứu vớt, đã
xin được trở lại phòng ngủ lần cuối cùng để thu nhặt một ít đồ vật quý giá. Người
ta chỉ cho bà đúng ba phút để làm công việc đó.
Người đàn bà vội vã
chạy về phòng ngủ của mình. Dọc theo hành lang, bà thấy ngổn ngang không biết
bao nhiêu là nữ trang và đồ vật quý giá. Khi đến phòng ngủ của bà, người đàn bà
đưa mắt nhìn các thứ nữ trang và báu vật, nhưng cuối cùng bà chỉ nhặt đúng ba
quả cam và chạy lên boong tàu.
Trước đó vài tiếng
đồng hồ, giữa các đồ vật trong phòng, có lẽ người đàn bà không bao giờ chú ý đến
ba quả cam. Nhưng trong giây phút nguy ngập nhất của cuộc sống, thì giá trị của
sự vật bỗng bị đảo lộn: ba quả cam trở thành quý giá hơn cả tấn vàng và kim
cương, hột xoàn.
Người Kitô chúng ta
luôn được mời gọi để đánh giá sự vật và các biến cố trong tương quan với sự sống
vĩnh cửu. Chúng ta được mời gọi để nhìn vào sự vật bằng chính ánh sáng vĩnh cửu.
Ðó là cách thế duy nhất để chúng ta tìm ra được ý nghĩa và giá trị đích thực của
sự vật.
Thánh Matthêô và Luca
có ghi lại một mẩu chuyện nho nhỏ cho thấy cái nhìn của chính Thiên Chúa: Ngày
nọ, Chúa Giêsu vào Ðền Thờ. Người quan sát những người đến trước hòm tiền để bố
thí. Ða số là những người giàu có. Chợt có một quả phụ nghèo nàn cũng tiến đến
bên hòm tiền. Bà chỉ bỏ vỏn vẹn có vài xu nhỏ… Vậy mà Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng
bà ta là người dâng cúng nhiều hơn cả, bởi vì đa số đều có của dư thừa, còn người
đàn bà này cho chính những gì mình cần để nuôi sống.
Cái nhìn của Thiên
Chúa không bỏ sót bất cứ một hành động nhỏ nhặt nào của con người. Và trong cái
nhìn ấy, đôi khi chính những hành động nhỏ bé của cuộc sống ngày qua ngày, chính
những nghĩa cử vô danh lại bừng sáng lên và mang một giá trị đặc biệt.
Cái nhìn của Thiên
Chúa phải chăng không phải là một nguồn an ủi lớn lao cho chúng ta là những người
đang âm thầm sống đức tin giữa không biết bao nhiêu thử thách và giới hạn? Ước gì
cái nhìn ấy giúp chúng ta kiên trì trong những công việc vô danh mà chúng ta phải
thi hành mỗi ngày và củng cố chúng ta trong niềm tin vững vào những thực tại
vĩnh cửu.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Gioan 20:11-18
Tuesday 14 April, 2020
Lectio Divina
Thứ Ba trong Tuần Bát
Nhật Phục Sinh
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Thiên Chúa hằng sống
của chúng con,
Chúng con tuyên xưng đức
tin trong Chúa Giêsu
Và nhận biết Người là
Chúa và là Đấng Cứu Độ của chúng con.
Xin hãy cho chúng con
biết lắng nghe Người
Khi Người nói với
chúng con về Tin Mừng của Người
Bởi vì đó là sứ điệp của
sự sống.
Nguyện xin cho chúng
con cũng nghe thấy tiếng Người
Khi Chúa kêu cầu với
chúng con qua những kẻ cần giúp đỡ
Hay chỉ đơn giản là
lúc Người nói với chúng con
Trong những người muốn
bày tỏ với chúng con
Về niềm hân hoan và hy
vọng của họ, tình yêu và đức tin của họ.
Chúng con cầu xin nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con.
2. Bài Đọc
Tin Mừng – Gioan 20:11-18
Khi ấy, bà Maria đang
còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên
thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu,
một vị ngồi phái đàng chân. Hai vị hỏi: “Tại sao bà khóc?” Bà
trả lời: “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã
để Người ở đâu!”
Vừa nói xong, bà quay
mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó. Nhưng bà chưa biết là Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: “Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?” Tưởng
là người giữ vườn, Maria thưa: “Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi,
thì xin cho tôi biết, ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người.”
Chúa Giêsu gọi: “Maria”. Quay mặt lại, bà thưa Người:
“Rabboni,” nghĩa là “Lạy Thầy.” Chúa Giêsu bảo bà: “Đừng động đến
Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay
và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên
Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con.”
Maria Mađalêna đi báo
tin cho các môn đệ rằng: “Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi
những điều ấy.”
3. Suy Niệm
– Bài Tin Mừng hôm nay mô tả việc hiện ra của Chúa
Giêsu với bà Maria Mađalêna. Cái chết của người bạn tuyệt vời của bà khiến
cho Maria mất hết ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng bà vẫn không ngừng việc đi
tìm kiếm. Bà đi ra mộ để gặp lại Đấng mà đã bị cái chết lấy mất. Có
những khoảnh khắc trong đời sống chúng ta mà trong đó mọi việc đều sụp đổ.
Tất cả mọi việc dường như đã kết thúc. Cái chết, thiên tai, nỗi đau đớn
và sự khổ đau, tâm trạng vỡ mộng, sự phản bội! Rất nhiều điều khiến chúng
ta cảm thấy được trong bầu không khí, chới với và có thể dẫn đưa chúng ta vào
cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nhưng những điều khác cũng xảy ra. Ví
dụ, đột nhiên chúng ta gặp lại một người bạn và người này có thể cho chúng ta một
niềm hy vọng mới và có thể khiến cho chúng ta khám phá ra rằng tình yêu thì mạnh
mẽ hơn cái chết và sự thất bại.
– Chương 20 của Tin Mừng Gioan, bên cạnh các lần hiện
ra của Chúa Giêsu với bà Maria Mađalêna, nó cũng cho biết những câu chuyện khác
nhau mặc khải sự phong phú, cho thấy sự dồi dào của kinh nghiệm về sự Phục Sinh:
(a) với người môn đệ Chúa yêu và với ông Phêrô (Ga 20:1-10); với bà
Mađalêna (Ga 20:11-18); (c) với cộng đoàn các môn đệ (Ga 20:19-23) và (d) với
Thánh Tôma Tông Đồ (Ga 20:24-29). Mục đích việc viết sách Tin Mừng là để
hướng dẫn người ta tin tưởng vào Chúa Giêsu, và nhờ tin vào Ngài, mà được sự sống
(Ga 20:30-31)
– Trong cách mô tả việc hiện ra của Chúa Giêsu với
bà Maria Mađalêna, ta cảm nghiệm và nhận thức được các giai đoạn khác nhau của
con đường mà bà đã phải trải qua, đoạn đường kiếm tìm đầy sầu bi cho đến thời
điểm gặp gỡ vào lễ Phục Sinh. Đây cũng là những giai đoạn mà tất cả chúng
ta phải vượt qua, trong suốt cuộc đời mình, tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo
Tin Mừng.
– Ga 20:11-13: Bà Maria Mađalêna than khóc,
nhưng bà đang tìm kiếm. Có một tình yêu rất mãnh liệt giữa Chúa Giêsu và
bà Maria Mađalêna. Bà là một trong số ít người có can đảm đã ở lại với
Chúa cho đến giờ Người sinh thì trên Thập Giá. Sau khi bị buộc phải nghỉ
ngơi vào ngày thứ Bảy, bà trở lại mồ để được ở tại nơi mà bà đã trông thấy người
Thầy Yêu Dấu lần cuối cùng. Nhưng, lạ thay, ngôi mộ trống! Các
thiên thần hỏi bà: “Này bà, tại sao bà khóc?” Và câu trả lời của bà
là: “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để
Người ở đâu!” Bà Maria Mađalêna đã đi tìm Chúa Giêsu; Chúa Giêsu mà bà đã
quen biết trong ba năm.
– Ga 20:14-15: Bà Maria Mađalêna nói chuyện với
Chúa Giêsu mà không biết đó là Người. Các môn đệ trên đường Emmau đã
trông thấy Chúa Giêsu mà các ông đã không nhận ra Người. Bà nghĩ rằng đó
là người làm vườn. Và cũng giống như các thiên thần đã làm, Chúa Giêsu
cũng hỏi: “Tại sao bà khóc?” và Người hỏi thêm: “Bà tìm ai?”
Câu trả lời là: “Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi
biết, ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người.” Bà vẫn còn đang
tìm kiếm Chúa Giêsu trong quá khứ, Đấng của ba ngày trước đó. Và vì chính
hình ảnh Chúa Giêsu trong quá khứ ấy đã ngăn cản bà không nhận ra được Chúa
Giêsu hằng sống, Đấng đang hiện diện trước mặt bà.
– Ga 20:16: Bà Maria Mađalêna nhận ra Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu gọi tên bà: “Maria!” Đây là dấu hiệu để nhận
ra Người: cùng một giọng nói, cùng một cách gọi tên. Bà thưa lại:
“Lạy Thầy!” Chúa Giêsu đã trở lại với hình hài cũ, giống như lúc Người đã
chết trên cây thập giá. Ấn tượng đầu tiên là cái chết chỉ là một sự việc
đau đớn trên cuộc hành trình, nhưng giờ đây tất cả đã trở lại như cũ. Bà
Maria ôm lấy chân Chúa Giêsu. Người chính là Chúa Giêsu mà bà đã biết và
yêu mến. Và vì thế, đã ứng nghiệm những gì mà dụ ngôn Vị Mục Tử Tốt Lành
đã được nói đến: “Anh ta gọi tên từng con và chúng nhận biết tiếng anh ấy.”
“Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta” (Ga 10:3, 4, 14).
– Ga 20:17-18: Bà Maria Mađalêna nhận lãnh sứ
mạng đi loan báo sự phục sinh cho các Tông Đồ. Trong thực tế, giống như
Chúa Giêsu, cách mà được ở cùng với bà không còn giống như trước nữa.
Chúa Giêsu bảo bà: “Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta!”
Người về cùng Chúa Cha. Bà Maria Mađalêna phải để cho Chúa Giêsu đi và bà
lãnh nhận sứ vụ của mình: đi loan báo với các anh em biết rằng Người,
Chúa Giêsu, đã về cùng với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã mở ra con đường cho
chúng ta và do đó, một lần nữa, Thiên Chúa ở gần kề chúng ta.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Bạn đã bao giờ có kinh nghiệm với ấn tượng về sự mất
mát và cái chết chưa? Nó như thế nào? Ấn tượng mà đã cho bạn cuộc sống
mới, cho bạn hy vọng và niềm vui của cuộc sống là gì?
– Sự thay đổi đã xảy ra trong lòng bà Maria Mađalêna
trong suốt cuộc đối thoại là gì? Bà Maria Mađalêna đã đi tìm kiếm Chúa
Giêsu theo một cách và đã tìm thấy người trong một cách khác. Điều này xảy
ra trong đời sống của chúng ta như thế nào?
5. Lời nguyện
kết
Tâm hồn chúng tôi đợi
trông CHÚA,
Bởi Người luôn che chở
phù trì.
Vâng, có Người, chúng
tôi mừng rỡ,
Vì hằng tin tưởng ở
Thánh Danh.
Xin đổ tình thương xuống
chúng con, lạy CHÚA,
Như chúng con hằng
trông cậy nơi Ngài.
(Tv 33:20-22)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét