26/04/2020
Chúa Nhật tuần 3 PHỤC
SINH năm A
(phần I)
Bài Ðọc I: Cv 2, 14. 22-28
"Không thể nào để cho Người
bị cầm giữ trong cõi chết".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô
cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Hỡi các người
Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng nghe lời
tôi! Hỡi những người Israel, hãy nghe những lời này: Ðức Giêsu Nadarét là người
đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ
diệu và những phép lạ mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh em, như
chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Người đã bị nộp,
và anh em đã dùng tay những kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Sau khi bẻ gãy xiềng
xích tử thần, Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết mà
cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó. Vì
chưng Ðavít đã nói về Người rằng: 'Tôi hằng chiêm ngưỡng Chúa trước mặt tôi, vì
Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Vì thế, lòng tôi hân hoan, miệng lưỡi
tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ trong niềm cậy trông: vì Chúa không để linh hồn
tôi trong cõi chết, và không để Ðấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho
tôi biết con đường sự sống và cho tôi đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh
Chúa'".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10.
11
Ðáp: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh (c. 11a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy
Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: "Ngài là chúa tể con,
Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của
con". - Ðáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban
cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con
luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao
núng. - Ðáp.
3) Bởi thế lòng con vui mừng và
linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì
Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài
thấy sự hư nát. - Ðáp.
4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường
lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu
Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 1, 17-21
"Anh em được cứu độ bằng
Máu châu báu của Ðức Kitô, Con Chiên tinh tuyền".
Trích thư thứ nhất của Thánh
Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, nếu anh em gọi
Người là Cha, Ðấng không thiên vị ai khi xét đoán mỗi người theo việc họ làm,
thì anh em hãy sống trong sự kính sợ suốt thời anh em còn lưu trên đất khách.
Anh em biết rằng không phải bằng vàng bạc hay hư nát mà anh em đã được cứu chuộc
khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền, nhưng bằng máu châu báu của Ðức Kitô, Con
Chiên tinh tuyền, không tì ố. Người đã được tiền định trước khi tác thành vũ trụ
và được tỏ bày trong thời sau hết vì anh em. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên
Chúa, Ðấng làm cho Người sống lại từ cõi chết, và ban vinh quang cho Người để
anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng nơi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: x. Lc 24, 32
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa
Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh; xin làm cho tâm hồn
chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 24, 13-35
"Hai ông đã nhận ra Người
lúc bẻ bánh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Cùng ngày thứ nhất trong tuần,
có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc
đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và
trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt
họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa
đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời:
"Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những
sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?"
Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là
một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa
và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp
Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn
hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi.
Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến
mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện
ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy
mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ
khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu
đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến
tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về
Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời
đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Ðang khi cùng các ông ngồi bàn,
Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và
nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta
đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh
Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp
mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa
đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã
xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Loan báo Nước Trời và đổi mới con
người
Như Ðức Kitô đã dùng Thánh Kinh
để giải thích cho hai môn đệ tin vào mầu nhiệm Người sống lại mà hồi sinh, Phụng
vụ hôm nay cũng muốn dùng các bài chúng ta vừa nghe đọc để khai sáng tâm trí ta
hiểu hơn về việc Chúa phục sinh hầu được tinh thần mới và nếp sống mới.
A. Bài Sách Công Vụ
Trước hết chúng ta hãy để tai
nghe lời thánh Phêrô. Nói đúng hơn chúng ta hãy khảo sát bài đọc I, vì diễn từ
chúng ta vừa nghe là của tác giả sách Công vụ hơn là của chính thánh Phêrô.
Hôm ấy là ngày lễ Ngũ Tuần. Các
môn đệ vừa được đầy Thánh Thần. Thiên hạ chen nhau tuốn đến nhà các ngài vì
nghe tiếng động từ trời vang xuống nơi đó. Phêrô đứng lên cùng với 11 Tông đồ
và cất tiếng nói với dân. Ông phải giải thích cho mọi người hiểu: Chính Ðức
Kitô phục sinh vừa gửi Thần trí của Người xuống trên các môn đệ. Ðiều quan trọng
là phải làm chứng việc Người đã sống lại vì ơn để Thánh Thần xuống chỉ là điều
tất yếu phải theo sau. Việc làm đó thật tế nhị và cũng khó; vì Phêrô phải nói với
những người mà đa số cũng đã nghe đầu mục Dothái xúi giục đòi đóng đanh Ðức
Yêsu. Nhưng tác giả bản văn đã rất tài tình. Ông vắn tắt phác lại hình ảnh Ðức
Yêsu, một Ðấng đã được Thiên Chúa chứng nhận bằng bao việc kỳ diệu, tức là như
một tiên tri, nói đúng hơn như một Môsê; "Thế mà anh em đã giết Người",
lẽ ra ông chỉ cần nói như thế. Nhưng không! Ông đã khéo léo chữa lỗi cho họ.
Chính theo ý định đã vạch sẵn và sự dự tri của Thiên Chúa mà Người đã bị nộp, rồi
họ mới dùng tay kẻ vô đạo mà giết Người. Nhưng đây mới là điều quan trọng:
Thiên Chúa đã phục sinh Người từ kẻ chết để ứng nghiệm lời tiên tri Ðavít. Quả
thật, Thánh vịnh 16 có câu: Người không để Ðấng Thánh của Người phải thấy mục
nát.
Rõ ràng Phêrô không nại đến sự
kiện mồ trống. Ông cũng không nói đến những lần Chúa sống lại hiện ra. Có thể
những chuyện đó đã được đồn đãi nhiều nhưng không gây được sự nhất trí. Ðó chỉ
là những dấu hiệu cần được giải thích. Cũng như việc Thánh Thần hiện xuống hôm
nay cũng chỉ là một dấu hiệu. Ðối với Phêrô chẳng lời giải thích nào đáng tin
như lời Thánh Kinh. Ông dẫn giải Thánh Kinh để soi sáng hiện tượng, để kêu gọi
lòng tin. Và hôm đó ông đã thu phục được "lối ba ngàn linh hồn".
Chúng ta tưởng chính thánh Phêrô
đã sáng nghĩ ra đường lối ấy sao? Ðó chỉ là phương pháp Ðức Yêsu đã làm khi còn
tại thế và lúc đã sống lại. Cuộc đàm đạo của Người với hai môn đệ trên đường
Emmau sẽ làm chứng điều đó.
B. Bài Tin Mừng Luca
Tác giả sách Công vụ và sách Tin
Mừng Luca chỉ là một, nên bài Tin Mừng hôm nay có nhiều nét giống với bài Công
vụ mà chúng ta vừa khảo sát.
Câu chuyện được kể bắt đầu xảy
ra vào buổi sáng ngày Chúa Nhật Phục sinh và kết thúc vào buổi tối. Hai môn đệ
chứ không phải hai Tông đồ đi đường đến Emmau. Họ trở về nhà sau khi đã chứng
kiến những sự việc xảy ra tuần rồi ở Yêrusalem? Luca kể họ đang nói với nhau những
chuyện đó và buồn rầu vì thất vọng. Họ đã tưởng Ðức Yêsu sẽ cứu chuộc Israel;
nhưng này Người đã bị giết được ba ngày rồi. Sáng nay cũng có mấy bà ra thăm mộ
đấy. Họ thấy trống trơn. Các thiên thần nói với họ rằng Người đã sống lại,
nhưng mấy môn đệ ra coi thì chẳng thấy gì cả.
Người khách lạ vừa đến nói ngay
với họ: Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi điều các tiên tri đã
nói. Ông ta là ai mà dám nói thẳng như thế? Lời kia không giống lời Ðức Yêsu
nói hôm nào khi môn đệ ở trên thuyền đánh thức Người dậy lúc sóng nước làm thuyền
sắp chìm sao? Hai môn đệ kia chưa nhận ra Người. Nhưng Người dẫn giải Thánh
Kinh đến đâu, lòng họ nóng lên đến đó và cuối cùng họ đã nhận ra Người khi bẻ
bánh.
Câu kết của câu chuyện rất quan
trọng. Hai môn đệ trở về Yêrusalem tức khắc. Họ chưa kịp kể chuyện của mình thì
các Tông đồ đã cho họ biết: "Thực thế, Chúa đã sống lại và đã hiện ra cho
Simon". Người ta có thể đoán sau đó câu chuyện họ kể không còn hào hứng
nhiều nữa vì không còn hi hữu và mới mẻ gì.
Chúng ta tiếc vì Luca đã kết
thúc câu chuyện như vậy sao? Nhưng dường như đó là chủ ý cuối cùng với câu kết
lại làm cho người nghe hết hào hứng. Là vì đối với ông, việc Chúa hiện ra với
hai môn đệ, dù có thật và phấn khởi, vẫn chỉ là phụ thuộc. Ðức tin của chúng ta
về việc Chúa sống lại chỉ căn cứ vào nhân chứng của các Tông đồ mà đứng đầu là
Phêrô. Câu "Chúa đã sống lại và hiện ra với Phêrô", tuy vắn tắt, khô
khan, nhưng chính là đá tảng vững vàng xây lên Hội Thánh. Mọi câu chuyện khác về
việc ấy chỉ là trang trí.
Và quả thật Luca đã có ý trang
hoàng câu chuyện của ông hơn là ghi lại trung thực một sự kiện y như đã xảy ra.
Rõ ràng ông đã có ý muốn cho có nhiều chuyện xảy ra trong ngày thứ nhất trong
tuần để tô điểm ngày ấy nên ngày Phục sinh. Ông là "y sĩ" ưa nói đến
lòng thương xót của Chúa, nên câu chuyện ông kể có vẻ tâm tình và khiến lòng bốc
cháy. Ông chỉ là một môn đệ và mất ý thức về vai trò của các Tông đồ, nên muốn
cho các chuyện của môn đồ đứng hàng thứ sánh với sự nghiệp của các Tông đồ. Nhất
là ông muốn viết một tác phẩm sau khi đã sưu tra và xếp đặt cho có đầu có ngọn;
do đấy câu chuyện của ông có nhiều nét chắc chắn , tức là diễn tả nhiều điểm đức
tin vững vàng: nào là hình ảnh Ðức Yêsu được phác họa như một tiên tri hứa hẹn
nhiều hy vọng, nào là sự kiện mồ trống với lời thuật của các phụ nữ được trình
bày một cách khách quan và chưa có lời giải thích. Nhất là Luca muốn nhấn mạnh:
các môn đệ chậm tin lời tiên tri, chẳng hiểu gì về mầu nhiệm Thập giá và phải đọc
lại Lời Thánh Kinh để thấy ánh sáng cứu độ. Khi nhắc lại lời Chúa nói ở trên biển
bão táp. Luca ngầm ví việc Người chịu chết như khi Người ngủ trên thuyền; môn đồ
hốt hoảng, nhưng tỉnh dậy Người đưa họ vào bến bình an. Cũng vậy, việc Người sống
lại kéo họ ra khỏi vực sâu sự chết. Họ phải nhờ Thánh Kinh để nhận ra mầu nhiệm
này và đức tin của họ sẽ đạt tới cao điểm trong việc bẻ bánh.
Ở đây ta cũng nên hỏi: có thật Ðức
Kitô đã làm lễ nghi bẻ bánh với hai môn đệ không? Suy nghĩ kỹ, ta nên kết luận:
có lẽ không, vì Người đang hiện diện ở đó, không cần đến bí tích làm gì, bởi lẽ
bí tích là để thay thế hiện diện. Ðó có thể chỉ là bữa ăn thường, nhưng Luca đã
hữu ý dùng những từ ngữ của việc bẻ bánh để mô tả (như khi kể việc Chúa làm
phép lạ hóa bánh ra nhiều: 9,16), để đề ra một ẩn ý thần học: niềm tin vào việc
Chúa sống lại đạt tới cao điểm trong việc bẻ bánh, tức là nơi bí tích Thánh Thể
và bữa ăn này thực hiện lời hứa sẽ cho môn đệ vào dự bàn tiệc Nước Trời khi Người
lên nơi vinh hiển.
Như vậy, câu chuyện hai môn đệ
trên đường Emmau hôm nay không những hấp dẫn, nhưng nhất là sâu sắc. Nó diễn tả
quan niệm của Luca về việc Chúa sống lại. Có những sự kiện dẫn tới niềm tin ấy
như sự kiện mồ trống và việc Chúa hiện ra. Nhưng đức tin thật sự của ta phải căn
cứ vào chứng tá của các Tông đồ mà đứng đầu là Phêrô và vào sự tìm hiểu Kinh
Thánh. Ðức tin ấy đạt tới mức độ đầy đủ trong việc cử hành bàn tiệc Thánh Thể
loan báo Nước Trời và đổi mới con người, làm cho họ mến Chúa nồng nàn và nhiệt
thành truyền giáo.
Ðó cũng là những tư tưởng mà bài
sách Công vụ đã thoáng thấy. Nói đúng hơn vì viết sau bài Tin Mừng, diễn từ của
Phêrô là một bản văn súc tích, gồm đủ các yếu tố mà Luca đã trình bày trong bài
Tin Mừng.
Phụng vụ hôm nay đọc lại cho
chúng ta nghe những lời Kinh Thánh ấy để làm gì?
C. Bài Thư Phêrô
Tất nhiên đã có nhiều điều chúng
ta có thể đem ra ứng dụng và thi hành sau khi hiểu biết các bài đọc trên. Chúng
ta đã hiểu rõ hơn về niềm tin của chúng ta đối với việc Chúa sống lại. Và muốn
hun đúc niềm tin ấy để đổi mới con người và cuộc đời, chúng ta cũng phải bắt
chước hai môn đệ, để Thần Trí Chúa phục sinh hướng dẫn mình đọc lại Kinh Thánh
và tham dự các buổi phụng vụ Thánh Thể.
Nhưng để giúp chúng ta có một
thái độ cụ thể, Phụng vụ đã trích một đoạn thư Phêrô. Tác giả không nói gì mới
lạ, chỉ xinh chúng ta đánh giá đúng ân sủng đã nhận được. Nhờ Ðức Kitô chúng ta
đã tin vào Thiên Chúa (c.21), xưng tụng Người là Cha (c.17), nhìn nhận Người là
Thẩm phán chí công, thì hãy sống trong lòng kính sợ Người. Lý do là vì niềm tin
của chúng ta thật là đắt giá. Nó đã được trả bằng Máu châu báu của Ðức Kitô và
chỉ có Máu Người mới trả được. Thế nên chúng ta phải bảo toàn niềm tin ấy, tức
là hy vọng của chúng ta luôn phải hướng về Thiên Chúa (c.21), là sống trong
lòng kính sợ (kẻo mất) Người.
Giờ đây chúng ta sẽ cử hành mầu
nhiệm Thánh Thể, nhắc nhở việc Chúa chịu chết và sống lại, nhận thức đức tin của
chúng ta đã được trả bằng Máu châu báu của Người, chúng ta hãy mở mắt tinh thần
ra như hai môn đệ Emmau và như những người đã nghe bài diễn từ của Phêrô. Và
lòng chúng ta hãy nồng nàn lên khi thấy Chúa hiện diện nơi Thánh Thể. Chúng ta
hãy quyết tâm đổi đời như lối "ba ngàn người" nghe Phêrô nói ngày trước;
và chúng ta hãy ra về trở lại với đồng bào như hai môn đệ Emmau. Chúng ta sẽ
làm như họ, tin tưởng tuyệt đối vào mầu nhiệm Phục sinh, khai triển lời Kinh
Thánh trong đời sống, làm chứng Ðức Kitô đã sống lại đang kêu gọi mọi người hiểu
biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà phấn chấn trong cuộc sống, nhiệt tình
xây dựng hạnh phúc, vì này, sức mạnh của Chúa đi kèm công việc của những người
đã tin Ðức Yêsu Kitô sống lại từ kẻ chết.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật III Phục Sinh, Năm A
Bài đọc: Acts 2:14, 22-28; 1 Pet
1:17-21; Lk 24:13-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được phác họa ngay từ đầu, khi
trái đất và con người chưa được tạo dựng.
Có những sự khác biệt to lớn giữa
Thiên Chúa và con người: Ngài không bị lệ thuộc vào thời gian như con người; tư
tưởng và ý định của Ngài bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành, trong khi kiến
thức con người quá giới hạn đến độ không thể lãnh nhận những mặc khải của Thiên
Chúa một lúc. Thiên Chúa đã có kế hoạch cứu độ con người ngay từ đầu, khi trời
đất và con người chưa được tạo thành, và dĩ nhiên, chưa phạm tội trong vườn Địa
Đàng. Trọng tâm của kế hoạch cứu độ là Đức Kitô, Ngài là Đấng sẽ mang lại ơn cứu
độ cho con người qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Kế hoạch cứu
độ có hai phần chính: phần đầu Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái để chuẩn bị cho
việc nhập thể của Đức Kitô; phần hai khi Đức Kitô đến, Ngài mở rộng ơn cứu độ của
Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Vì thế, Đức Kitô là giao điểm của Cựu Ước và
Tân Ước. Tất cả những gì Đức Kitô sẽ làm đã được tiên báo cách ẩn tàng trong Cựu
Ước. Khi Đức Kitô đến, Ngài thực thi tất cả những gì đã được tiên báo trong Cựu
Ước. Thánh Augustinô nhận định rất chính xác: Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước và
Tân Ước làm trọn những gì Cựu Ước chuẩn bị. Thánh Phaolô diễn tả cách tương tự:
nếu chỉ đọc Cựu Ước thôi, một người sẽ chỉ hiểu lờ mờ kế hoạch cứu độ của Thiên
Chúa như đang bị một bức màn che mắt; nhưng nếu đọc Cựu Ước với ánh sáng của
Tân Ước, một người sẽ hiểu rõ tất cả chi tiết của kế hoạch cứu độ (2 Cor
3:13-17).
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta
thấy lợi ích của việc giải thích những biến cố xảy ra cho Đức Kitô trong ánh
sáng của Cựu Ước. Trong bài đọc I, thánh Phêrô chứng minh cho người Do-thái biết
Đức Giêsu thành Nazareth chính là Đấng Thiên Chúa sai đến, để thực thi kế hoạch
cứu độ của Thiên Chúa và mang lại cuộc sống trường sinh cho con người, như đã
được loan báo trong Kinh Thánh. Trong bài đọc II, tác giả Thư Phêrô thứ nhất
cũng lặp lại tư tưởng của bài đọc I, Đức Kitô là Đấng mà Thiên Chúa đã biết trước
khi vũ trụ được dựng nên. Ngài xuất hiện trong thời cuối cùng để làm trọn kế hoạch
cứu độ của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, chính Đức Kitô thân hành hiện đến và cùng
đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus, để giải thích cho họ về những lời
Kinh Thánh được làm trọn qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Hai ông đã nhận
ra chính là Ngài khi Ngài cùng bẻ bánh với hai ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Giêsu đã bị nộp và giết chết theo kế hoạch Thiên Chúa đã định
và biết trước.
Bài giảng của Phêrô sau biến cố
Chúa Thánh Thần hiện xuống gồm hai phần chính:
1.1/ Phêrô làm chứng cho những gì Đức
Kitô đã thực hiện: Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một
lớn tiếng nói với họ rằng: "Thưa anh em miền Judah và tất cả những người
đang cư ngụ tại Jerusalem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi
nói đây... Thưa đồng bào Israel, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu
Nazareth, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ
mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu
lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó.” Phêrô không cần phải dẫn chứng nhiều,
vì tất cả những gì Đức Kitô đã làm và những gì xảy ra cho Ngài vẫn còn sống động
trong tâm hồn khán giả của ông.
1.2/ Phêrô nối kết những biến cố
này với những gì đã được đề cập tới trong Kinh Thánh: Vì người Do-thái tin vào Kinh Thánh, Phêrô làm chứng cho Đức
Kitô bằng cách liên kết những biến cố mới xảy ra với những gì đã được đề cập
trong Kinh Thánh. Mục đích của Phêrô là để khơi niềm tin nơi khán giả vào Thiên
Chúa và vào Đức Kitô. Kinh Thánh đã nói trước về mục đích của cái chết và sự sống
lại của Đức Kitô. Ngài phải chết và phục sinh theo kế hoạch cứu độ của Thiên
Chúa. Mục đích là để tha thứ tội lỗi và mang lại cuộc sống trường sinh vĩnh cửu
cho con người: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã
bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết
đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau
khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi.”
Phêrô trưng dẫn những lời của
Thánh Vịnh 16:8-11, để minh chứng điều này. Câu 27 của trình thuật mang một ý
nghĩa quan trọng về cuộc sống trường sinh: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn
con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát.” Ai là “Vị
Thánh của Ngài” mà Thánh Vịnh 16 nói tới? Chắc chắn không phải là vua David, vì
David đã chết, và mộ của vua vẫn còn ở Hebron cho tới ngày nay. Truyền thống
Do-thái thời đó vẫn tin người nào đã vào trong cõi âm ty (Sheol, Hades), sẽ
không bao giờ có ngày trở về trên cõi dương gian. Quan niệm về cuộc sống đời
sau, được hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa, là một quan niệm rất xa lạ với
người Do-thái thời đó. Vì thế, câu “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và
cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan” phải là một lời tiên
tri nói về Đấng Cứu Thế, và được áp dụng cho sự chết và phục sinh của Đức Kitô.
2/ Bài đọc II: Người là Đấng Thiên Chúa đã biết trước khi vũ trụ chưa được dựng
nên.
(1) Chúng ta được cứu độ là do bởi
máu vô giá của Đức Kitô: Tác giả Thư Phêrô I nhắc nhở cho các tín hữu biết:
“không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu
thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại; nhưng anh em đã được
cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô.” Theo
kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa có từ muôn thuở, “Người là Đấng Thiên Chúa đã biết
từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong
thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi
dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy
vọng vào Thiên Chúa.” Ai tin vào Ngài, người ấy sẽ nhận được ơn cứu độ là được
sống muôn đời.
(2) Hãy biết sống làm sao ở đời
này cho xứng với tình yêu Thiên Chúa: Con người không thể nhận lãnh ơn cứu độ bằng
sức riêng của mình hay bằng việc giữ cẩn thận Lề Luật; vì mọi người đều phạm tội.
Họ chỉ có thể được cứu độ bằng việc tin tưởng vào Đức Kitô và cố gắng giữ những
gì Ngài truyền. Để đáp trả tình yêu của Thiên Chúa và của Đức Kitô đã hy sinh mạng
sống cho con người, tác giả răn dạy các tín hữu: “Vậy nếu anh em gọi Người là
Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này.”
3/ Phúc Âm: Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất
cả Sách Thánh.
3.1/ Lòng trí các anh thật là chậm
tin vào lời các ngôn sứ: Khi phải đương đầu với những biến
cố đau buồn trong cuộc sống, nhiều người đã không còn nhận ra Thiên Chúa và sự
quan phòng của Ngài. Thái độ này dễ đưa con người đến chỗ thất vọng và không nhận
ra Thiên Chúa, dù Ngài có hiện ra và đồng hành với họ. Hai môn đệ của Chúa
Giêsu rời Jerusalem để về Emmaus là một ví dụ sống động của thái độ này. Họ buồn
và rời Jerusalem vì bao nhiêu hy vọng của họ đặt nơi Chúa Giêsu giờ đã tan
thành mây khói. Họ tưởng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai uy quyền, Ngài sẽ dùng
quyền năng để đánh đuổi đế quốc Rôma và giải phóng dân tộc Do-thái khỏi ngoại
bang; nhưng nay Ngài đã chết rồi. Vài tia hy vọng mong manh của việc Chúa sống
lại không đủ để trợ giúp niềm tin bị thử thách của họ.
Điều này chứng minh cho chúng ta
thấy chúng ta cần có những giây phút cầu nguyện và thinh lặng để suy niệm và để
nối kết những biến cố xảy ra trong cuộc đời. Chỉ có sự soi sáng của Thiên Chúa
mới có thể giúp chúng ta nhận ra những lý do của sự việc xảy ra, và giúp chúng
ta vững tin nơi quyền năng của Ngài.
3.2/ "Mời ông ở lại với chúng
tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Hai môn đệ nhận ra sự tăm tối của
tâm hồn và mời Ngài ở lại. Chính lời mời gọi này đã giúp cho hai ông nhận ra Đức
Kitô và thêm tin tưởng nơi Ngài. Ba điều quan trọng chúng ta cần học là:
(1) Đức tin được kiên cố qua việc
học hỏi Lời Chúa để nhìn ra kế hoạch cứu độ trong các biến cố xảy ra hàng ngày
và các biến cố đặc biệt. Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: "Các anh
chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng
Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người
sao? Rồi bắt đầu từ ông Moses và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai
ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ
muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng:
"Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn."
Bấy giờ Người mới vào và ở lại với
họ.
(2) Tham dự Lễ Bẻ Bánh giúp tăng
tình yêu của con người vào Thiên Chúa: “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy
bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra
Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người
nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng
cháy lên sao?"
(3) Đức tin cần được sự nâng đỡ
của cộng đoàn: “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Jerusalem, gặp Nhóm Mười
Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: "Chúa
trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon." Còn hai ông thì thuật lại
những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ
bánh.” Người nào có khuynh hướng xé lẻ để tự giải quyết lấy thường dễ rơi vào cạm
bẫy của ma quỉ, Judah Iscariot là một trường hợp điển hình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học Cựu Ước để
hiểu rõ Tân Ước, và phải học Tân Ước để hiểu rõ Cựu Ước. Cả hai chỉ là hai phần
khác nhau của một kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
- Tham dự Thánh Lễ cách trọn vẹn,
vừa lắng nghe Lời Chúa vừa lãnh nhận Mình Thánh Chúa, thắp lên trong chúng ta
ngọn lửa tình yêu cho Thiên Chúa, giữ vững niềm hy vọng, và nhiệt thành làm chứng
cho Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
26/04/20 CHÚA NHẬT TUẦN 3 PS – A
Lc 24,13-35
Lc 24,13-35
NHẬN RA CHÚA KHI NGÀI BẺ BÁNH
Họ mới bảo
nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta,
lòng chúng ta chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24,32)
Mời bạn nhập vai hai môn đệ
Em-mau để chiêm ngắm. Họ chẳng xa lạ gì với những lời Kinh Thánh “từ
Mô-sê đến các ngôn sứ.” Họ cũng biết rõ những điều xảy ra tại ngôi mộ
trống do các bà thuật lại. Thế nhưng, những dữ kiện đó như một mớ rời rạc, vô
nghĩa đối với họ, cho đến khi người lữ khách đồng hành ấy giải thích Kinh Thánh
làm lòng họ “bừng cháy lên.” Rồi người lữ khách ấy lại đồng
bàn dùng bữa tối với họ; và kìa, xem ông ấy bẻ bánh! Mọi sự bỗng trở nên mạch lạc,
sáng tỏ: “Người lữ khách đó chính là Ngài!”
Bạn ơi, những chữ viết, chứng từ,
bánh và rượu chỉ trở thành Lời, Thịt và Máu khi hoà quyện nên một nơi con người
Giê-su “chỗi dậy từ cõi chết.” “Lời” không có ý nghĩa gì nếu
không phát xuất từ Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh bằng xương bằng thịt. Bạn không
thể thấu hiểu được “Lời” nếu không kết hợp trong “Thịt và Máu” Ngài. Và bạn
cũng không thể đến với “Thịt và Máu” Ngài nếu không được “Lời” Ngài làm “bừng
cháy lên”. Các môn đệ Emmau đã “nhận ra Chúa khi Ngài bẻ bánh” như
thế đó.
Chia sẻ: Việc suy gẫm Lời Chúa có giúp bạn yêu mến Thánh Thể hơn không?
Sống Lời Chúa: Mỗi khi suy gẫm Lời Chúa, bạn kết hợp với việc rước lễ thiêng
liêng; và mỗi khi rước lễ, bạn dành ít phút để suy gẫm lại Lời Chúa bạn vừa
nghe.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su đáng mến, con khao khát Chúa. Xin làm sống lại
trong con tình yêu mến Chúa. Xin làm cho lòng con bừng cháy lên ngọn lửa nhiệt
thành phục vụ Chúa nơi tha nhân.
(5 phút Lời Chúa)
Mời ông ở lại với
chúng tôi (26.4.2020 – Chúa nhật 3 Phục sinh năm A)
Suy Niệm
Dưới dáng dấp một người khách lạ,
Chúa Giêsu phục sinh đến với hai môn đệ Emmau.
Ngài đến đúng lúc, đúng lúc họ đang bỏ cuộc,
quay quắt và ray rứt vì chuyện đã qua.
Ngài đi cùng với họ, đi gần bên họ,
khiêm tốn trở thành một người bạn đồng hành.
Ngài gợi chuyện, hay đúng hơn,
Ngài muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của họ.
Chúa Giêsu không nản lòng trước câu trả lời lạnh nhạt:
“Chắc chỉ có ông mới không biết chuyện vừa xảy ra…”
Ngài không cắt đứt cuộc đối thoại: “Chuyện gì vậy?”
Ngài giả vờ không biết để họ nói cho vơi nỗi buồn.
Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng nghe lời họ tâm sự.
“Trước đây, chúng tôi hy vọng rằng…”
Như thế niềm hy vọng này chỉ còn là chuyện quá khứ.
Cả niềm tin cũng trở nên chai lì,
họ đâu có tin vào lời của các bà ra thăm mộ.
Chúa Giêsu phục sinh đến với hai môn đệ Emmau.
Ngài đến đúng lúc, đúng lúc họ đang bỏ cuộc,
quay quắt và ray rứt vì chuyện đã qua.
Ngài đi cùng với họ, đi gần bên họ,
khiêm tốn trở thành một người bạn đồng hành.
Ngài gợi chuyện, hay đúng hơn,
Ngài muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của họ.
Chúa Giêsu không nản lòng trước câu trả lời lạnh nhạt:
“Chắc chỉ có ông mới không biết chuyện vừa xảy ra…”
Ngài không cắt đứt cuộc đối thoại: “Chuyện gì vậy?”
Ngài giả vờ không biết để họ nói cho vơi nỗi buồn.
Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng nghe lời họ tâm sự.
“Trước đây, chúng tôi hy vọng rằng…”
Như thế niềm hy vọng này chỉ còn là chuyện quá khứ.
Cả niềm tin cũng trở nên chai lì,
họ đâu có tin vào lời của các bà ra thăm mộ.
Khi lắng nghe, Chúa Giêsu nhận ra cái gút của vấn đề,
những câu hỏi mà họ không tìm ra lời giải đáp.
Tại sao một người của Chúa, người mà họ tin là Ðức Kitô
lại bị đóng đinh như một kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ?
Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ.
Ðau khổ là nhịp cầu mà Ðức Kitô phải vượt qua
để sang bờ bên kia là vinh quang bất diệt.
Ðau khổ không phải là chuyện xui xẻo, rủi ro,
nhưng nó có chỗ đứng trong chương trình cứu độ.
Lời của Chúa Giêsu là Tin Mừng ngọt ngào,
khiến nỗi đau của họ dịu đi, lòng họ như ấm lại.
Họ cố nài ép Ngài ở lại dùng bữa chiều.
Và chính lúc Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho họ
thì họ nhận ra vị khách lạ chính là Thầy Giêsu.
những câu hỏi mà họ không tìm ra lời giải đáp.
Tại sao một người của Chúa, người mà họ tin là Ðức Kitô
lại bị đóng đinh như một kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ?
Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ.
Ðau khổ là nhịp cầu mà Ðức Kitô phải vượt qua
để sang bờ bên kia là vinh quang bất diệt.
Ðau khổ không phải là chuyện xui xẻo, rủi ro,
nhưng nó có chỗ đứng trong chương trình cứu độ.
Lời của Chúa Giêsu là Tin Mừng ngọt ngào,
khiến nỗi đau của họ dịu đi, lòng họ như ấm lại.
Họ cố nài ép Ngài ở lại dùng bữa chiều.
Và chính lúc Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho họ
thì họ nhận ra vị khách lạ chính là Thầy Giêsu.
Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau cũng là của chúng ta.
Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì Ngài lại đang ở gần bên.
Lúc ta nhận ra Ngài ở gần bên, thì Ngài lại biến mất rồi.
Nhưng chính lúc Ngài biến mất,
ta lại cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Ngài.
Ngài đến lúc ta không ngờ.
Ngài đi mà ta không giữ lại được.
Ngài ở lại với ta cả khi ta không thấy Ngài nữa.
Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì Ngài lại đang ở gần bên.
Lúc ta nhận ra Ngài ở gần bên, thì Ngài lại biến mất rồi.
Nhưng chính lúc Ngài biến mất,
ta lại cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Ngài.
Ngài đến lúc ta không ngờ.
Ngài đi mà ta không giữ lại được.
Ngài ở lại với ta cả khi ta không thấy Ngài nữa.
Ðấng Phục Sinh vẫn đến với ta hôm nay
qua một người bạn hay một người lạ ta gặp tình cờ.
Qua họ, Ngài thổi vào lòng ta niềm hy vọng tin yêu.
Ngài vẫn đến với ta qua từng thánh lễ.
Ngài đích thân giảng Tin Mừng và bẻ bánh trao cho ta.
Sống như Chúa phục sinh là tập đến với tha nhân,
tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng…
Hôm nay vẫn có nhiều người bạn đang lê gót về Emmau.
qua một người bạn hay một người lạ ta gặp tình cờ.
Qua họ, Ngài thổi vào lòng ta niềm hy vọng tin yêu.
Ngài vẫn đến với ta qua từng thánh lễ.
Ngài đích thân giảng Tin Mừng và bẻ bánh trao cho ta.
Sống như Chúa phục sinh là tập đến với tha nhân,
tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng…
Hôm nay vẫn có nhiều người bạn đang lê gót về Emmau.
Cầu Nguyện
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn.
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26 THÁNG TƯ
“Hãy Nhận Lãnh Thánh Thần”
Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta có
dịp trở lại căn gác thượng. Chúng ta nhớ lại những biến cố của ngày đầu tuần, của
Chúa Nhật Phục Sinh.
Đức Giêsu xuất hiện, dù cửa đóng
kín. Người đứng giữa các môn đệ và nói với các ông: “Bình an cho anh em. Như
Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Và sau khi Người nói những lời
ấy, Người thổi hơi trên các ông và nói: “Anh em hãy nhận lãnh Thánh Thần” (Ga
20,22).
Đây là cuộc hiện ra đầu tiên của
Đức Giêsu sau khi Phục Sinh. Đức Giêsu xuất hiện. Người vẫn như thế; nhưng Người
cũng đã thay đổi. Người vẫn là con người đã chịu khổ nạn, vì Người đã cho các
môn đệ thấy các lỗ đinh nơi tay Người và vết thương nơi cạnh sườn Người. Nhưng
Người đã thay đổi. Cửa đóng không thể cản trở thân xác vinh quang của Người!
Người đã được thay đổi bởi cuộc
Phục Sinh. Giờ đây, Người biểu hiện quyền năng của Thánh Thần trao ban sự sống
nơi thân xác Người. Người xuất hiện trong quyền năng của Thánh Thần, và Người
trao ban Thánh Thần cho các Tông Đồ. Chúa chúng ta trao ban Thánh Thần, Ôi! Hồng
phúc biết bao, các vết thương trong cuộc khổ nạn của Chúa.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 26 – 4
Chúa Nhật III Phục Sinh
Cv 2, 14.22-33; 1Pr 1, 17-21; Lc
24, 13-35.
LỜI SUY NIỆM: “Dọc đường, khi Người
nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng
cháy lên sao?”
Câu chuyện hai môn đệ trên đường
Emmau cho chúng ta thấy được cả hai người môn đệ đặt niềm tin vào Chúa
Giêsu: “Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt
Thiên Chúa và toàn dân.” Nhưng niềm tin này đã bị “Bóng tối” sau cái chết của
Chúa Giêsu, các ông đã thất vọng. Chúa Giêsu đã đến và đồng hành với hai ông,
giải thích Kinh Thánh những gì liên quan đến Người. Niềm hy vọng trở lại với
hai ông: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời dã xế chiều, và ngày sắp tàn.”
Và ánh sáng “Bẻ Bánh” đã giúp hai ông nhận ra Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người
trong chúng con ham thích đọc Kinh Thánh được ơn sáng soi của Chúa Thánh Thần để
giúp đức tin chúng con ngày càng trưởng thành trong việc thờ phượng Chúa và yêu
thương anh em mình.
Mạnh Phương
26 Tháng Tư
Người Sói
Một trong những cuốn phim nói về
sự bí ẩn của tuổi thơ: đó là cuốn phim có tựa đề "người sói". Cuốn
phim xây dựng trên một câu chuyện có thực xảy ra tại Pháp vào cuối thế kỷ 18. Một
đứa trẻ đã bị thất lạc trong rừng từ lúc lọt lòng mẹ.
Mười hai năm sau, khi người ta
tìm gặp nó giữa rừng, thì đứa bé không khác nào một con thú. Người ta không thể
nào giao thiệp gặp gỡ với nó được. Tất cả những gì một nhà giáo, một bà vú nuôi
có thể làm được chỉ là chuẩn bị thức ăn và đặt vào trong xó bếp để đứa bé tìm đến
và liếm thức ăn như một con thú... Mọi người dường như bó tay, không còn cách
nào để đưa nó ra khỏi đời sống hoang dã của nó.
Và một ngày kia, nó đã trốn thoát.
Mọi người thở dài trước thất bại của mình... Tình cờ, vì đói, nó đã trở ra xóm
làng và một lần nữa người ta đã bắt lại được nó. Người ta mang nó đến nhà giáo
và người được chỉ định đến gần nó để hỏi han, trò chuyện chính là vú nuôi. Bà cố
gắng dùng ngôn ngữ thô sơ của mình để nói chuyện với đứa bé. Gương mặt của nó
như bất động. Nhưng bỗng nhiên, trước sự ngạc nhiên của mọi người, đứa bé nắm
tay người đàn bà. Nó nhìn bà một hồi lâu và trong thinh lặng. nó cầm hai tay
người đàn bà áp lên mặt mình...
Lúc đó, người ta chỉ còn thấy những
giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má của hai khuôn mặt...
Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và
con người cũng diễn ra như thế. Nó nằm ra bên ngoài tất cả những dự đoán và
tính toán của chúng ta. Thiên Chúa không bao giờ là đối tượng của những tính
toán khoa học. Thiên Chúa cũng không là kết luận của những suy tư uyên bác.
Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta trong những cái bất ngờ nhất. Thiên Chúa ở trong
chúng ta, nhưng đồng thời cũng thoát khỏi tầm tay với của chúng ta... Nói tóm lại,
chúng ta không thể chiếm hữu Thiên Chúa như một sự vật, nhưng trái lại chúng ta
phải chiến đấu không ngừng để nhận ra Ngài trong những cái tầm thường và bất ngờ
nhất của cuộc sống...
Tin Mừng cho chúng ta thấy nhiều
phản ứng khác nhau của con người đối với Chúa Giêsu. Phần đông dân chúng chỉ
nhìn thấy nơi Ngài như một người dân quê xuất thân từ cái miền nghèo nàn là
Galilê. Những người trí thức thì nghiên cứu Kinh Thánh để rồi áp dụng những hiểu
biết sách vở của họ vào con người Chúa Giêsu. Và, sĩ nhiên, những gì đã được
Kinh Thánh nói đến, họ không tìm thấy nơi Chúa Giêsu... Một số khác thì đề nghị
bắt giữ Chúa Giêsu vì Ngài là một tên lừa bịp...
Chúa Giêsu vẫn mãimãi là câu hỏi
của chúng ta: "Còn các con, các con bảo Ta là ai?". Một câu hỏi như
thế, chúng ta không chỉ trả lời bằng những kiến thức đã lĩnh hội được qua giáo
lý, thần học, Kinh Thánh... Một câu hỏi như thế chỉ có thể được trả lời bằng một
cuộc gặp gỡ thân tình với Ngài.
Cũng giống như người vú nuôi già và đứa bé người sói đã cảm thông với nhau trong thinh lặng và vượt lên trên tất cả những ngôn ngữ của loài người, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta đi vào thông hiệp với Ngài trong Ðức Tin.
Cũng giống như người vú nuôi già và đứa bé người sói đã cảm thông với nhau trong thinh lặng và vượt lên trên tất cả những ngôn ngữ của loài người, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta đi vào thông hiệp với Ngài trong Ðức Tin.
Ðức tin đó sẽ luôn là mặt trận
chiến dai dẳng trong tâm hồn chúng ta. Có lúc chúng ta cảm thấy như đi trong
ánh nắng chan hòa. Có lúc, tất cả xung quanh chúng ta như ập phủ xuống và chúng
ta không còn thấy gì nữa. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng những câu hỏi mà
chúng ta không ngừng nêu lên với Ngài... Tại sao Ngài bỏ con? Chúng ta hãy
không ngừng tra vấn Thiên Chúa. Ðó là dấu hiệu của một cuộc đối thoại giữa Ngài
với ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét