Dịch corona và Kỳ nghỉ Sa-bát
của Mẹ Thiên Nhiên
Ngày 22/4 hằng năm được chọn là ngày trái đất để con người ý
thức việc bảo vệ hành tinh. Mẹ Thiên Nhiên như đang tranh thủ được một ‘kỳ nghỉ
Sa-bát’ lúc con người bất đắc dĩ phải đóng băng các hoạt động của họ.
Khắc Bá, SJ - CTV Vatican News
Từ trên sân thượng của toà nhà, tôi nhìn bao quát xuống
thành phố Roma. Nét đặc trưng lúc này chính là sự vắng lặng của hoạt động con
người. Các đường phố hầu như yên ắng hoàn toàn, ngoại trừ lác đác một vài chuyến
xe buýt, hay ở các ngõ ngách có mấy người vô gia cư đang chia sẻ đồ ăn cho
nhau. Nhưng chính trong sự lặng lẽ đó, tôi thấy thiên nhiên nơi đây như đang
hít một hơi thở thật sâu và dài để hồi sức và tự chữa lành các vết thương sau
những tháng ngày mệt mỏi và bị tàn phá. Bầu khí đang mát lành trở lại vì bớt được
hàng vạn ống khói xe cộ thải ra mỗi ngày. Những tiếng chim hót thánh thót hơn,
hoà điệu hơn, khi không còn bị lấn át bởi âm lượng khổng lồ và hỗn tạp từ đủ thứ
máy móc sinh hoạt của con người. Mẹ Thiên Nhiên như đang tranh thủ được một ‘kỳ
nghỉ Sa-bát’ lúc con người bất đắc dĩ phải đóng băng các hoạt
động của họ.
Trong Tiếng Do-thái, từ Sa-bát (שַׁבָּת)
có nghĩa là ‘ngừng’, hay ‘nghỉ ngơi’. Một cách tương đối, có thể nói nó có nguồn
gốc từ trình thuật Sáng Thế của Kinh Thánh, trong đó Thiên
Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy sau khi hoàn tất công trình tạo dựng; và Ngài
ra lệnh cho con người cũng phải nghỉ ngơi vào ngày này, để nó trở thành ngày phụng
tự, tức ngày con người sống với Thiên Chúa cách trọn vẹn. Loại suy từ Ngày Sa-bát,
Do-thái giáo có thêm luật định về Năm Sa-bát, là năm cuối
cùng sau mỗi chu kỳ 7 năm. Trong Năm Sa-bát, con người
tạm ngừng các hoạt động nông nghiệp để đất đai và súc vật được nghỉ ngơi (Lê-vi
25, 2-7). Rồi mở rộng hơn, sách Lê-vi có thêm quy định về Năm Thánh,
vốn là năm cuối cùng của chu kỳ Năm Sa-bát (tức
sau mỗi 49 năm). Trong Năm Thánh, con người không chỉ phải để cho đất
đai và súc vật được nghỉ ngơi, mà còn phải tái lập tương quan công bình với tha
nhân: xoá nợ nần, trả tự do cho tù nhân, giải thoát nô lệ và phá bỏ mọi hình thức
áp bức bóc lột (Lê-vi 25, 8-54). Năm Sa-bát và Năm
Thánh (chúng ta sẽ gọi chung là ‘Kỳ Sa-bát’) đã trở
thành một phần trong cuộc sống của dân Do Thái ngày xưa.
Luật về các kỳ nghỉ Sa-bát mang lại những
giá trị đặc biệt cho con người; và ngay cả khi không nhìn theo khía cạnh tôn
giáo, chúng ta cũng có thể nói rằng đây là một phát kiến vĩ đại. Đầu tiên là
giá trị của nghỉ ngơi. Mọi thụ tạo, dù là con người hay đất đai, đều cần sự nghỉ
ngơi để hồi sức, để lấy lại tính quân bình và hài hoà cần có. Đối với con người,
nghỉ ngơi không chỉ cần cho sức khoẻ thể lý, mà còn cho tương quan xã hội và đời
sống tinh thần-thiêng liêng. Hơn nữa, chính nghỉ ngơi thúc đẩy và phát triển
năng lực sáng tạo, vốn là thứ cần thiết để kiến tạo lối sống thích hợp và những
hình thức lao động hiệu quả hơn.
Thứ hai, Kỳ Sa-bát tạo nên ý thức
về thăng tiến công bình và bảo vệ phẩm giá con người, nhất là những người
nghèo. Xét từ nhiều khía cạnh, các xã hội thường có sự bất bình đẳng mang tính
cấu trúc, trong đó, triển vọng để một người nghèo thoát khỏi tình trạng của
mình là rất thấp. Người giàu sẽ có điều kiện ngày càng giàu hơn; còn người
nghèo và con cháu của họ có nguy cơ ở lại mãi trong tình trạng khốn quẫn, và bị
đối xử như thành phần thứ cấp của xã hội. Lịch sử chỉ ra rằng chính những bất
công mang tính cơ cấu như thế đã dẫn đến hầu hết những cuộc xung đột, chiến
tranh và huỷ hoại của thế giới này. Kỳ Sa-bát có mục
đích cắt đứt ‘chuỗi dây’ bất công như thế. Nó là mốc thời gian để đất đai được
khôi phục lại chủ sở hữu ban đầu. Vì dụ, nếu một người bán trang trại của mình
cho người khác, anh sẽ tự động nhận lại quyền sở hữu nó trong Năm Thánh.
Nếu anh nghèo và bị bán làm nô lệ, thì vào Năm Thánh, anh được giải
thoát. Nói cách khác, Kỳ Sa-bát cho phép mọi người,
kể cả con nợ lẫn chủ nợ, một cơ hội để bắt đầu lại. Do đó, Kỳ Sa-bát có
thể trở thành một yếu tố giúp giảm thiểu xung đột xã hội ở mức nền tảng.
Quan trọng hơn, phía sau điều luật Kỳ Sa-bát là
một mối tương quan mang tính gắn bó, thấu hiểu và tôn trọng đặc biệt của con
người đối với thiên nhiên. Trong tương quan đó, con người ý thức rằng đời sống
của mình phụ thuộc và nối kết với thiên nhiên, đặc biệt là qua việc sản xuất
nông nghiệp. Vì thế, dường như họ có thể hiểu rõ về thiên nhiên ở mức độ mang
tính cảm quan và trực giác, vốn là mức hiểu biết sâu hơn so với tri thức thuần
lý. Nhờ gắn bó chặt chẽ với môi trường, con người thời đó dường như nghe được
nhịp đập, cảm nhận được ‘hơi thở’ của đất, và nhìn thấu được biến chuyển của đất
trời. Vì vậy, họ hiểu rằng, thiên nhiên cũng cần được nghỉ ngơi để tái tạo năng
lượng và sự cân bằng của nó.
Nhưng với thế giới hôm nay, Kỳ Sa-bát chỉ
còn là một khái niệm của quá khứ, ngay cả với người Do-Thái. Tất nhiên, bây giờ
chúng ta không thể trông chờ việc thực hành Kỳ Sa-bát theo
đúng kiểu cổ điển. Tuy nhiên, điều đáng nói là ý thức của chúng ta về ‘tinh thần Kỳ Sa-bát’ đang
mai một dần. Ví dụ, ngay cả những kỳ nghỉ rất ngắn dành cho đất đai nói riêng
và cho thiên nhiên nói chung cũng đang bị cắt bớt hoặc bỏ hẳn đi. Đó là chưa
nói đến sự thiếu vắng ở khía cạnh tương quan giữa con người với nhau mà Năm
Thánh đề cập.
Tại sao tinh thần Kỳ Sa-bát bị
biến mất? Hẳn có nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề áp lực lương thực khi
dân số tăng quá cao; tuy nhiên, thiết tưởng nguyên nhân nền tảng nhất chính là
việc con người thay đổi ý thức về tương quan của mình với thiên nhiên. Có thể
nói, Kỳ Sa-bát biến mất khi khi con người bắt đầu
nghĩ rằng mình là trung tâm của vũ trụ; rằng mình là ông chủ và thế giới thiên
nhiên là ‘tài sản sở hữu’ của mình. Ý thức đó đưa đến não trạng tự do ‘khai
thác và sử dụng’ thiên nhiên. Sự thay đổi ý thức đó đã khiến con người tự trở
nên xa lạ và chia cắt mình khỏi tự nhiên; và nghiêm trọng hơn, chúng ta bắt đầu
làm biến đổi và tàn phá chính cái nôi nuôi sống bản thân mình.
Chính ý thức đổi vai đó khiến con người bị cuốn vào một lối
sống mang tính nô lệ, rối loạn và vong thân. Như lời Dẫn Nhập trong phim The
gods must be crazy - Đến thượng đế cũng phải cười’ (1990), “con người
‘văn minh’ đã không muốn thích nghi với môi trường sống, thay vào đó, họ biến đổi
môi trường thích nghi với mình. Vì vậy, con người văn mình đã xây dựng phố xá,
thành thị, xe cộ, máy móc, và đường dây điện để chạy các loại máy tiết kiệm sức
lao động (nhưng lại không biết khi nào thì ngừng). Càng cải tạo môi trường để
làm đời sống dễ dàng hơn, con người càng làm cho nó rắc rối thêm. Giờ đây, con
người lại phải cho con cái đến trường, từ mười đến mười lăm năm để học, để biết
cách sinh tồn trong hệ sinh tái phức tạp và nguy hiểm này. Và con người văn
minh đã từng từ chối thích nghi với môi trường thiên nhiên giờ đây hiểu ra mình
phải thích nghi, và thích nghi nhiều lần, từng giờ trong ngày, đối với chính
môi trường mình đã tạo ra.” Quả là một đúc kết chân xác!
Chúng ta không chỉ bị cuốn vào tính phức tạp của thứ môi trường
mình tạo ra, mà còn bị cuốn vào cuộc tranh đua mù quáng với tha nhân trong xã hội
của môi trường đó. Thực thế, đa phần chúng ta không chỉ làm việc để hoàn thành
những gì mình muốn, mà còn cảm thấy bắt buộc phải làm việc để có thể chạy đua
theo những gì xã hội nói ta nên có. Chúng ta ‘đóng khuôn’ đời người dựa trên
căn bản của thành công – thất bại; và căn bản này lại lấy tiền
bạc – danh tiếng làm tiêu chuẩn. Mô thức này khiến cho toàn bộ cuộc sống
xoay quanh mấy khái niệm: hiệu quả, nhanh chóng, đào
thải. Cuộc sống hiện đại kéo con người vào vòng xoáy của riêng nó: người ta
tìm mọi cách tăng nhanh tốc độ (sản xuất, bán hàng, thay đổi mẫu mã, học
hành,…); mọi thứ lại thay đổi quá nhanh, khiến người ta lo sợ mình bị đào thải,
và thế là lại lao vào tăng tốc cho chính mình. Vì vậy, điều lớn nhất chi phối
tâm trí con người thời hiện đại chính là hai chữ ‘cạnh tranh’. Bởi thế, như đúc
kết của linh mục Dòng Tên Gaël Giraud, vốn là một nhà kinh tế học nổi tiếng người
Pháp, chúng ta đang chịu ảnh hưởng bởi một thứ chủ nghĩa “biết giá cả của
mọi thứ nhưng không biết giá trị của bất cứ điều gì cả, vì nguồn gốc thật sự của
giá trị chính là các tương quan giữa con người với nhau và giữa con người với
môi trường sinh thái.”[1]
Kết quả, con người mơ hồ nhận ra là cuộc sống của mình đang
trở nên xa lạ, vì nó đang thiếu hoặc mất dần những gì khác nên có trong cuộc đời.
Con người đâu thể sống như một cái máy! Con người âm thầm tự vấn: đáng ra, đời
sống đâu phải chỉ gói gọn với tiền bạc của cải, với danh tiếng! Cuộc sống lớn
lao hơn những gì bị khuôn ép trong cái khung thành công – thất bại.
Vì thế, có nhiều người bất chợt thấy nổi lên nhu cầu tìm lại một thực tại quen
thuộc nào đó, mặc dù chính họ cũng chưa xác định rõ nó là gì. Nhu cầu này lớn tới
nỗi khiến người ta có khi ‘nổi đoá’ với cuộc sống hiện tại, muốn làm những gì
đó khác đời, vượt qua mọi ‘rào chắn’, mọi nguyên tắc của xã hội. Có người lại
lao vào tìm kiếm những điều kỳ bí, những hiện tượng lạ, vv. Nhưng dường như họ
càng tìm thì lại càng thấy mọi thứ rối tung và mất phương hướng.
Như vậy, việc tìm cách tách lìa khỏi tự nhiên chính là khởi
đầu cho một tiến trình tự sát! Nó chẳng khác mấy việc em bé tự bứt dây rốn của
mình khi còn ở trong bụng mẹ. Khi bị cắt đứt khỏi những yếu tố thuộc về cội nguồn
nơi thiên nhiên, chúng ta cũng bị cắt đứt khỏi những căn bản vốn giúp xây dựng
tương quan với tha nhân và với Thiên Chúa; và xét ở mức độ gần nhất, khi phá huỷ
thế giới tự nhiên, làm cho nó mất cân bằng và bị bệnh tật, chúng ta không còn
môi trường nuôi dưỡng và bảo vệ chính sức khoẻ thể lý của mình nữa. Làm sao
chúng ta có thể chờ mong sẽ được khoẻ mạnh khi bản thân mình lại đang sống
trong một ngôi nhà bị bệnh được! Đó cũng là lời nhắc của Đức Giáo Hoàng
Phan-xi-cô[2]; và do vậy, như tài liệu Laudato
si khẳng định, “tội ác chống lại thế giới tự nhiên là một tội chống lại
chính bản thân chúng ta và chống lại chính Thiên Chúa” (số 7).
Vì thế, hy vọng việc ngắm nhìn tự nhiên đang được nghỉ ngơi
lúc này có thể giúp chúng ta nghiệm lại phần nào tầm quan trọng của tinh thần Sa-bát nơi
người xưa. Tinh thần đó giúp chúng ta nhìn về đời sống như một món quà được ban
tặng, thay vì một điều gì đó mà mình cần tạo lập. Ta không nhìn mọi thứ xung
quanh như những gì phải chiếm hữu, mà tất cả đều là ân sủng được trao ban.
Trong tinh thần Sa-bát, ta cũng không nhìn tha nhân như những đối
thủ cạnh tranh, nhưng như những người anh chị em đích thật. Trong viễn tượng
đó, đời sống của chúng ta được mở ra trong tất cả sự phong phú của nó.
Đó là lối sống của lòng biết ơn. Khi ý thức về mọi thứ của đời
sống như những quà tặng, con người luôn thấy mình được dư đầy, và mong muốn sống
xứng đáng với ân huệ đó. Vì thế, thay vì sống kiểu đua đòi và cạnh tranh, chúng
ta sống tinh thần hài lòng với những gì đang có, đồng thời có trách nhiệm với
tha nhân: biết vượt ra khỏi chính mình, nhìn thấy những thiếu thốn, những nhu cầu
của tha nhân, khát khao dấn thân cho họ. Nếu cái khung ‘thành công – thất bại’
khiến con người đánh mất những niềm vui lớn, như niềm vui của việc chia sẻ (vì
mọi việc đã trở thành ‘trao đổi, mua bán’), hay niềm vui phục vụ, vv., thì tinh
thần Sa-bát sẽ trả lại cho ta tất cả những điều này, bởi chưng
chúng ta được kêu gọi xây dựng đời mình qua việc xây dựng đời tha nhân, lấy niềm
vui của tha nhân làm niềm vui của chính mình. Nếu quan niệm ‘làm chủ’ khiến đời
sống ta bị đóng khung trong những ‘bức tường’ của các chỉ số và định lượng toán
học, đến mức đánh mất khả năng mở ra với nhiều điều khác, tinh thần Sa-bát khiến
ta có được tâm trí đủ rộng mở để đón nhận mọi khả thể, mọi khía cạnh trong ơn gọi
con người, từ những gì thuộc ý thức về sự siêu việt, niềm hy vọng về đời sống siêu
nhiên, vv. Đặc biệt, nó giúp ta sống thái độ tín thác và bình an.
Câu hỏi lúc này: liệu chúng ta có thể tìm kiếm những hình thức Kỳ Sa-bát nào
đó mang tính thực tiễn trong đời sống ngày nay hay không? Có lẽ ngày nay chúng
ta không thể thực hiện được bất cứ hình thức cụ thể nào của Kỳ Sa-bát xưa
kia. Tuy nhiên, tinh thần Sa-bát có thể cung cấp cho ta những
yếu tố cần thiết trong việc hình thành các câu hỏi quan trọng về đời sống xã hội
hiện tại. Tinh thần đó khiến ta thấy cần phải thay đổi cuộc sống và định vị lại
các định chế nhằm hướng tới những hình thức vận hành cuộc sống trong sự tiết độ,
tôn trọng tính hữu hạn và hoà hợp với nhịp sống của thiên nhiên.
Những hình thức đó phải chứa ít nhất hai yếu tố: thời gian
nghỉ ngơi và khả thể bắt đầu lại dành cho mọi người. Ví dụ, đối với các ngành
nghề nông nghiệp, chúng ta phải ra luật định về chu kỳ canh tác sao cho đảm bảo
thời gian nghỉ của đất trong mỗi năm. Đối với các ngành nghề công thương nghiệp,
cần có cơ chế đảm bảo khả năng tái cơ cấu, tái phân bổ và phân phối, sao cho
các nguồn lực, nhất là nguồn lực tự nhiên, được chia sẻ và sử dụng hợp lý. Hệ
thống sản xuất phải hướng đến nhu cầu sử dụng thiết thực thay vì nhu cầu giả tạo;
và phải nhắm đến thiện ích chung của cộng đồng thay vì lợi nhuận cá nhân.
Nhưng để đi đến một viễn tượng như thế, điều quan trọng trước
nhất là con người phải hoán cải quan niệm của mình về cuộc sống và về tương
quan với thiên thiên. Chúng ta không được sinh ra để trở thành ông chủ của ai
khác; chúng ta cũng không được trao quyền để thành kẻ thống trị thiên nhiên.
Chúng ta bén rễ sự hiện hữu của mình ngay trong môi trường sống, và là một phần
của thiên nhiên; hay nói cách khác, chúng ta gắn chặt với tự nhiên và cùng tự
nhiên hướng về cùng đích thánh thiêng mà mình được tạo dựng. Do đó, thay vì
thái độ tách mình ra và cai trị, chúng ta phải xem tự nhiên như người bạn, như
người mẹ, hay chí ít như một quà tặng cung cấp môi trường và nguồn sống để nuôi
dưỡng mình và cộng đồng xã hội.
[1] https://www.nouvelobs.com/idees/20200320.OBS26336/gael-giraud-avec-cette-pandemie-la-fragilite-de-notre-systeme-nous-explose-a-la-figure.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét