Trang

Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

VĂN KIỆN CỦA BỘ CỔ VŨ HIỆP NHẤT KI TÔ GIÁO : GIÁM MỤC RÔ-MA, QUYỀN TỐI THƯỢNG VÀ TÍNH ĐỒNG NGHỊ . . .- PHẦN MỞ ĐẦU và DẪN NHẬP

 


VĂN KIỆN CỦA BỘ CỔ VŨ HIỆP NHẤT KITÔ GIÁO: GIÁM MỤC RÔMA, QUYỀN TỐI THƯỢNG VÀ TÍNH ĐỒNG NGHỊ, TRONG CÁC CUỘC ĐỐI THOẠI ĐẠI KẾT, VÀ ĐÁP ỨNG THÔNG ĐIỆP UT UNUM SINT

 

Vũ Văn An  04/May/2025

 

TÀI LIỆU ĐỂ NGHIÊN CỨU

 

LỜI NÓI ĐẦU

Nguồn gốc của tài liệu này có thể bắt nguồn từ lời mời của Thánh Gioan Phaolô II gửi đến những Kitô hữu khác để, “tất nhiên là cùng nhau”, tìm ra những hình thức mà thừa tác vụ của Giám mục Rôma “có thể thực hiện một dịch vụ yêu thương được tất cả những người liên quan công nhận” (Ut unum sint 95). Nhiều phản hồi cho lời mời này đã được đưa ra, cũng như những suy tư và đề xuất từ nhiều cuộc đối thoại thần học đại kết.

Một số phản hồi đã được tóm tắt vào năm 2001 bởi Hội đồng Giáo hoàng lúc bấy giờ về Thúc đẩy Sự hiệp nhất Kitô giáo trong một tài liệu làm việc ban đầu có tựa đề Thừa tác vụ Phêrô. Vào năm 2020, Bộ này đã nhìn thấy, trong lễ kỷ niệm 25 năm ban hành thông điệp Ut unum sint, một cơ hội để tiếp tục và đào sâu cuộc thảo luận, có tính đến các tài liệu và tuyên bố đối thoại thần học mới của các Giáo hoàng kế tiếp. Thật vậy, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI đã nhắc lại lời mời của Đức Gioan Phaolô II trong nhiều bối cảnh khác nhau, bày tỏ nhu cầu đào sâu “sự khác biệt giữa bản chất và hình thức thực hiện quyền tối thượng”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh tính cấp thiết của việc đáp lại lời mời của Ut unum sint, nhận xét rằng: “Chúng ta đã đạt được ít tiến triển trong vấn đề này” (xem tại đây §§ 4-5). Việc triệu tập một Thượng hội đồng về tính đồng nghị từ năm 2021-2024 đã khẳng định tính liên quan của dự án của Thánh bộ, như một đóng góp cho chiều kích đại kết của tiến trình công đồng.

Tình trạng của văn bản có tựa đề Giám mục Rôma. Quyền tối thượng và Tính đồng nghị trong các cuộc Đối thoại đại kết và trong các Phản hồi đối với Thông điệp Ut unum sint, là một "văn kiện nghiên cứu" không chủ trương làm cạn kiệt chủ đề cũng như không tóm tắt giáo huấn Công Giáo về chủ đề đó. Mục đích của nó là đưa ra một bản tổng hợp khách quan về những diễn biến đại kết gần đây về chủ đề này, do đó phản ảnh những hiểu biết sâu sắc nhưng cũng phản ảnh những hạn chế của chính các tài liệu đối thoại. Ngoài ra, cuộc nghiên cứu kết thúc bằng một đề xuất ngắn gọn của Đại hội toàn thể năm 2021 của Thánh bộ, có tựa đề "Hướng tới việc thực hiện quyền tối thượng trong thế kỷ 21", trong đó xác định những đề xuất quan trọng nhất được đưa ra bởi nhiều phản hồi và đối thoại khác nhau để thực hiện lại thừa tác vụ hiệp nhất của Giám mục Rôma.

Tài liệu này là kết quả của công trình thực sự đại kết và công đồng. Tài liệu tóm tắt khoảng ba mươi phản hồi cho Ut unum sint và năm mươi tài liệu đối thoại đại kết về chủ đề này. Không chỉ có sự tham gia của nhân viên, mà còn có sự tham gia của các Thành viên và Cố vấn của Thánh bộ, những người đã thảo luận về vấn đề này tại hai Đại hội toàn thể. Nhiều chuyên gia Công Giáo đã được tham vấn, cũng như nhiều học giả từ nhiều truyền thống Kitô giáo khác nhau. Cuối cùng, văn bản đã được gửi đến nhiều Bộ của Giáo triều Rôma và Văn phòng Tổng thư ký của Thượng hội đồng.

Tổng cộng, hơn năm mươi đóng góp đã được xem xét. Tất cả, trong khi đề xuất cải tiến, đều tích cực về sáng kiến, phương pháp, cấu trúc và ý tưởng chính của tài liệu nghiên cứu. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả những người đã đóng góp giá trị của họ cho sự suy tư này, và đặc biệt là các viên chức của Bộ đã thúc đẩy và điều phối dự án với sự hợp tác của Viện Nghiên cứu Đại kết của Angelicum.

Chúng tôi hiện rất vui mừng được công bố tài liệu nghiên cứu này với sự đồng ý của Đức Thánh Cha Phanxicô. Chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ thúc đẩy không chỉ việc tiếp nhận các cuộc đối thoại về chủ đề quan trọng này, mà còn thúc đẩy thêm các cuộc điều tra thần học và các đề xuất thực tế, "tất nhiên là cùng nhau", để thực hiện thừa tác vụ hiệp nhất của Giám mục Rôma "được tất cả người liên quan công nhận" (UUS 95).

Hồng Y Kurt Koch
Bộ trưởng


DẪN NHẬP

“ĐỂ TÌM CÁCH THỰC HIỆN QUYỀN TỐI THƯỢNG”: CÁC CAN THIỆP GIÁO HOÀNG

1. Việc hiểu và thực hiện thừa tác vụ của Giám mục Roma đã bước vào một giai đoạn mới với Công đồng Vatican II.

Chính hành động triệu tập một Công đồng với sự hiệp nhất Kitô giáo là một trong những mục tiêu chính và với sự tham gia của những người Kitô hữu khác đã cho thấy cách tiếp cận của Thánh Gioan XXIII đối với vai trò của Giám mục Roma trong Giáo hội. Bổ sung cho các định nghĩa của Công đồng Vatican I về quyền tối thượng của giáo hoàng, Hiến chế Lumen gentium đã củng cố chức vụ của các giám mục cai quản các giáo hội đặc thù của họ với tư cách là “đại diện và đại sứ của Chúa Kitô […] chứ không phải là đại diện của các Giám mục Rôma” (LG 27) và nhấn mạnh tầm quan trọng của tính hợp đoàn giám mục (LG 23). Sắc lệnh Unitatis redintegratio đánh dấu sự gia nhập chính thức của Giáo Hội Công Giáo vào phong trào đại kết và mở đường cho việc thiết lập các cuộc đối thoại thần học, nhiều cuộc trong số đó sẽ giải quyết vấn đề về quyền tối thượng.

2. Trong và sau Công đồng, các Giáo hoàng kế tiếp đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển này. Tin rằng “Giáo hoàng […] chắc chắn là trở ngại lớn nhất trên con đường đại kết”, (1) Thánh Phaolô VI, bằng những cử chỉ và tuyên bố của mình, đã đóng góp theo nhiều cách để hiểu một cách mới mẻ về thừa tác vụ của giáo hoàng.

Ngay trong Thông điệp Ecclesiam suam, ngài đã bày tỏ niềm tin chắc rằng chức vụ mục vụ hiệp nhất của ngài “không phải là quyền tối thượng của lòng kiêu hãnh thiêng liêng và mong muốn thống trị nhân loại, mà là quyền tối thượng phục vụ, thừa tác và yêu thương” (ES 114). Qua một số cuộc họp, ngài đã phát triển mối quan hệ huynh đệ với các nhà lãnh đạo Kitô giáo khác, điều này giúp thiết lập Giáo Hội Công Giáo trong sự hiệp thông của các hiệp thông Kitô giáo. Nhận thức rằng uy tín đại kết của Giáo Hội Công Giáo phụ thuộc vào năng lực đổi mới nội tại của Giáo hội, Đức Phaolô VI, thực hiện một đề xuất do các giám mục đưa ra tại Công đồng Vatican II, đã thành lập Thượng hội đồng giám mục vào năm 1965 để cung cấp một cách thức tập thể hơn để thực hiện quyền tối thượng vì lợi ích của toàn thể Giáo hội (xem Tự Sắc Apostolica sollicitudo, 1965) và bắt buộc phải có các hội đồng giám mục (tự Sắc Ecclesiæ sanctæ, 1966, 41).

3. Thánh Gioan Phaolô II không chỉ tái khẳng định con đường đại kết này mà còn chính thức mời gọi những Kitô hữu khác suy gẫm về việc thực thi thừa tác vụ của Giám mục Rôma. Trong thông điệp quan trọng của mình Ut unum sint (1995), ngài đã sử dụng khái niệm Kinh thánh về ‘episkopein’ (“canh chừng”) để mô tả thừa tác vụ này (UUS 94), mà quyền tối thượng được định nghĩa như một thừa tác vụ hiệp nhất (UUS 89) và phục vụ tình yêu (UUS 95).

Đảm nhận trách nhiệm đại kết đặc thù của mình và “lưu ý đến lời yêu cầu được đưa ra cho [ngài]”, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận ra nhu cầu “phải tìm cách thực thi tính tối thượng, mặc dù không từ bỏ những gì thiết yếu đối với sứ mệnh, nhưng vẫn mở ra một tình huống mới” (UUS 95). Tin rằng một thừa tác vụ hiệp nhất có thể chấp nhận lẫn nhau không thể được định nghĩa một cách đơn phương, ngài đã mở rộng lời mời công khai đến tất cả các mục tử và nhà thần học từ các truyền thống giáo hội khác nhau, lặp lại một yêu cầu đã được đưa ra vào năm 1987 tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô trước sự hiện diện của Đức Thượng phụ Đại kết Dimitrios I: “Tôi tha thiết cầu xin Chúa Thánh Thần chiếu sáng chúng ta, khai sáng tất cả các Mục tử và nhà thần học của các Giáo hội của chúng ta, để chúng ta có thể cùng nhau tìm kiếm - tất nhiên - các hình thức trong đó, thừa tác vụ này có thể hoàn thành một dịch vụ yêu thương được tất cả những người liên quan công nhận” (UUS 95). Nhờ sự phân biệt này giữa bản chất của quyền tối thượng và các hình thức tạm thời được thực hiện, người ta hy vọng rằng thông qua “một cuộc đối thoại kiên nhẫn và huynh đệ”, “ý muốn của Chúa Kitô đối với Giáo hội của Người” sẽ được tiết lộ (UUS 96).

4. Trong bài phát biểu đầu tiên, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI đã nói về việc ngài đảm nhiệm “như cam kết hàng đầu của ngài sẽ làm việc không mệt mỏi hướng tới việc tái lập sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của tất cả những người theo Chúa Kitô”. (2) Ngài đã nhắc lại và nhắc lại lời mời gọi của Đức Gioan Phaolô II trong các bối cảnh khác nhau, với niềm tin chắc chắn rằng “các ý tưởng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đưa ra trong Thông điệp Ut unum sint (95) về sự phân biệt giữa bản chất và hình thức thực hiện quyền tối thượng có thể mang lại nhiều điểm thảo luận hiệu quả hơn nữa”, (3) và khuyến khích đối thoại thần học về mối quan hệ giữa quyền tối thượng và tính đồng nghị, đặc biệt là với Giáo hội Chính thống giáo. Việc ngài từ chức khỏi chức vụ giáo hoàng vào năm 2013, lần từ chức đầu tiên của một Giáo hoàng trong thời hiện đại, vì nhận ra “việc thiếu khả năng của tôi để hoàn thành đầy đủ chức vụ được giao phó cho tôi”, (4) đã góp phần vào nhận thức và sự hiểu biết mới về chức vụ của Giám mục Rôma.

5. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhiều lần nhắc lại lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tìm ra một cách mới để thực hiện quyền tối thượng, (5) thừa nhận rằng “Chúng ta đã đạt được ít tiến bộ trong vấn đề này” (Evangelii gaudium 32). Kêu gọi một “cuộc hoán cải mục vụ” cho ngôi vị giáo hoàng và các cấu trúc trung tâm của Giáo Hội Công Giáo, ngài thừa nhận rằng “sự tập trung quá mức, thay vì chứng minh là hữu ích, làm phức tạp cuộc sống của Giáo hội và hoạt động truyền giáo của Giáo hội”, và đặc biệt than phiền về việc giải thích không đầy đủ về tình trạng của các hội đồng giám mục (EG 32). Đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, “ngày nay, thừa tác vụ Phêrô không thể được được hiểu hoàn toàn nếu không có sự cởi mở đối với cuộc đối thoại với mọi tín hữu trong Chúa Ki-tô này” (6).

Đưa tính đồng nghị trở thành chủ đề chính trong triều giáo hoàng của mình, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh tầm quan trọng của tính đồng nghị dựa trên sensus fidei [cảm thức đức tin] của dân Chúa “không thể sai lầm trong đức tin” (EG 119), điều này rất cần thiết để hiểu và thực hiện mới mẻ thừa tác vụ Phêrô, như ngài đã tuyên bố trong diễn văn kỷ niệm 50 năm của Thượng hội đồng giám mục: “Trong một Giáo hội đồng nghị, có thể chiếu sáng nhiều hơn vào việc thực hiện quyền tối thượng của Phêrô”. Thật vậy, “Đức Giáo Hoàng, tự mình, không đứng trên Giáo hội; nhưng trong phạm vi là một trong những người đã chịu phép rửa, và trong Hội đồng Giám mục là một Giám mục trong số các Giám mục, được kêu gọi cùng lúc — với tư cách là Người kế vị Thánh Phêrô — để lãnh đạo Giáo hội Rôma, nơi chủ trì đức ái trên tất cả các Giáo hội”.(7) Cam kết của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong việc xây dựng một Giáo hội đồng nghị ở mọi cấp độ “có ý nghĩa đại kết quan trọng”, trước hết bởi vì tính đồng nghị là một món quà mà chúng ta có thể học hỏi từ những Kitô hữu khác (xem EG 246), và cũng bởi vì cả tính đồng nghị và đại kết đều là những tiến trình “cùng nhau bước đi”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô coi việc thực hành đổi mới của Thượng hội đồng Giám mục, bao gồm cả việc tham vấn rộng rãi hơn toàn thể dân Chúa, là một “đóng góp vào việc tái lập sự hiệp nhất giữa tất cả các Kitô hữu” và tự nó là một phản ứng đối với “mong muốn được bày tỏ nhiều năm trước của Đức Gioan Phaolô II” trong Ut unum sint (Tông hiến Episcopalis communio 2018, 10). Nhiều tham chiếu đến giáo huấn của hội đồng giám mục trong các văn kiện giáo huấn của ngài (Evangelii gaudiumAmoris lætitia, Laudato si’) cũng chứng thực cam kết của ngài đối với thượng hội đồng. Cuối cùng, phù hợp với thực hành mục vụ của các vị tiền nhiệm gần đây, việc Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh đến tước hiệu “Giám mục Rôma” của ngài ngay từ đầu triều giáo hoàng của ngài, các tước hiệu giáo hoàng hiện được liệt kê là “lịch sử” (xem Annuario Pontiicio 2020), cũng góp phần tạo nên một hình mẫu mới cho thừa tác vụ Phêrô.

_____________________________________

1. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Diễn văn gửi đến Văn phòng Thư ký Cổ vũ Hiệp nhất Kitô giáo, ngày 28 tháng 4, 1967.

(2). Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, Missa Pro Ecclesia, ngày 20 tháng 4 năm 2005.

(3). Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, Diễn văn tại Cuộc họp với Đại diện của các Giáo hội Chính thống giáo và Chính thống giáo Đông phương, Freiburg im Breisgau (Đức), ngày 24 tháng 9 năm 2011; xem thêm Diễn văn tại Nhà thờ Thượng phụ Saint George ở Phanar (Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ), ngày 30 tháng 11 năm 2006; Sứ điệp gửi Đức Thượng phụ Bartholomew I, Tổng Giám mục Constantinople, Thượng phụ Đại kết, ngày 25 tháng 11 năm 2009.

(4). Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, Declaratio, ngày 11 tháng 2 năm 2013.

(5). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium 32; Diễn văn tại Buổi Cử hành Đại kết ở Vương cung thánh đường Mộ Thánh (Jerusalem), ngày 25 tháng 5 năm 2014; Diễn văn đánh dấu kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng hội đồng giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015.

(6). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Bài giảng cho Kinh Chiều vào Lễ trọng kính Thánh Phaolô Tông đồ, ngày 25 tháng 1 năm 2014.

(7). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Bài phát biểu đánh dấu kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng hội đồng giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015.

Còn tiếp

ĐẠI HỘI ĐỒNG HỒNG Y LẦN THỨ IX

 

Đại hội đồng Hồng Y lần thứ 9

Vũ Văn An  04/May/2025

 


Ảnh: Vatican Media

 

Theo bản tin Zenit, ấn bản iếng Anh, ngày 3 tháng 5, 2025, Đại hội đồng Hồng Y lần thứ 9: sự hiệp thông, huấn quyền của Đức Phanxicô, giáo triều và tính đồng nghị là những chủ đề được thảo luận.

Vào sáng thứ Bảy, ngày 3 tháng 5, Đại hội đồng Hồng Y lần thứ chín đã được tổ chức. Cuộc họp bắt đầu bằng một phút cầu nguyện chung lúc 9:00 sáng. Có 177 Hồng Y hiện diện, trong đó có 127 vị là cử tri.

Thoạt đầu, các lá thăm đã được rút để chọn các Hồng Y của Ủy ban hỗ trợ Hồng Y Nhiếp chính trong các thánh bộ cụ thể để giải quyết các công việc thông thường. Họ là Hồng Y Robert Francis Prevost, O.S.A., và Hồng Y Marcello Semeraro, trong khi Hồng Y Reinhard Marx vẫn được xác nhận là điều phối viên của Hội đồng Kinh tế.

Phiên họp được chia thành 26 bài tham luận, đề cập đến các chủ đề khác nhau có liên quan đến giáo hội và mục vụ. Có một suy nghĩ về nhiệm vụ kép của Giáo hội: sống và làm chứng cho sự hiệp thông bên trong, và thúc đẩy tình huynh đệ trên thế giới. Huấn quyền của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và các tiến trình khởi xướng trong thời kỳ giáo hoàng của ngài đã được nhắc lại với lòng biết ơn, nhấn mạnh đến trách nhiệm tiếp tục và bảo vệ chúng.

Các vấn đề nổi lên bao gồm sự hợp tác và đoàn kết giữa các Giáo hội địa phương, vai trò của Giáo triều liên quan đến Đức Giáo Hoàng, sự phục vụ của Giáo hội và Đức Giáo Hoàng vì mục đích hòa bình, và giá trị của giáo dục như một công cụ để biến đổi và hy vọng. Các tham chiếu đã được đưa ra về Năm Thánh và mong muốn Đức Giáo Hoàng tiếp theo có tinh thần tiên tri, có khả năng lãnh đạo một Giáo hội không khép kín vào chính mình, nhưng có thể ra ngoài và mang lại ánh sáng cho một thế giới đang bị đánh dấu bởi sự tuyệt vọng.

Một số chủ đề đã được đề cập trong những ngày trước cũng đã được xem xét lại, chẳng hạn như tình liên đới và tình hợp đoàn, tập trung vào thế giới và sự chú ý mà thế giới dành cho Giáo hội. Nhận thức được nguy cơ Giáo hội trở nên tự tham chiếu và mất đi sự liên quan của mình nếu Giáo hội không sống trong thế giới và với thế giới. Cũng có những tham chiếu quan trọng đến đối thoại và sứ mệnh đại kết.

Đại hội đồng được thông báo các phiên họp vào thứ Hai sẽ được tổ chức vào buổi sáng, từ 9 giờ sáng đến khoảng 12 giờ 30 và vào buổi chiều, từ 17 giờ đến khoảng 19 giờ.

Ngoài ra, Niên Trưởng Hồng Y đoàn đã nhắc lại rằng trong suốt tháng 5, Vương cung thánh đường Thánh Phêrô sẽ tổ chức Kinh Mân Côi vào mỗi tối thứ Bảy lúc 21 giờ.

Cuối cùng, có báo cáo cho biết công việc cải tạo tại Casa Santa Marta đang ở giai đoạn nâng cao và sẽ kết thúc vào ngày 5 tháng 5. Các nhân viên và tất cả những người tham gia sẽ được bố trí ở Santa Marta và Santa Marta Vecchia. Việc vào phòng sẽ được phép diễn ra từ tối thứ Ba đến sáng thứ Tư, trước khi cử hành Thánh lễ Pro Eligendo Romano Pontifice.

 

http://vietcatholic.net/News/Html/295643.htm

 

THÁNH LỄ NGÀY THỨ IX ĐỂ TANG ĐỨC PHAN-XI-CÔ, BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC HỒNG Y DOMINIQUE MAMBERTI

 

THÁNH LỄ VÀO NGÀY THỨ IX ĐỂ TANG ĐỨC PHANXICÔ, BÀI GIẢNG CỦA Đức Hồng Y DOMINIQUE MAMBERTI


Vũ Văn An  04/May/2025

 


Vatican Media

 

Theo tin Tòa Thánh, tại Nhà thờ thánh Phêrô, Chúa Nhật, ngày 4 tháng 5 năm 2025, Đức Hồng Y Dominique Manberti đã cử hành Thánh Lễ ngày thứ chín trong tuần cửu nhật giáo hội để tang Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô. Trong Thánh Lễ, Đức Hồng Y đã đọc bài giảng sau đây

 

Thưa Các Đức Hồng Y đáng kính,
Thưa các anh em trong hàng Giám mục và Linh mục,
anh chị em thân mến
,

Phụng vụ của tuần cửu nhật cuối cùng này để cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô là phụng vụ của Chúa nhật thứ ba Phục sinh và trang Tin mừng theo thánh Gioan vừa được công bố trình bày cho chúng ta cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu phục sinh với một số Tông đồ và môn đệ tại Biển hồ Tiberias, kết thúc bằng Sứ mệnh được Chúa giao phó cho Thánh Phêrô và lệnh truyền của Chúa Giêsu, "Hãy theo Thầy!"

Tình tiết này gợi lại câu chuyện về lần đánh cá kỳ diệu đầu tiên, được Luca thuật lại, khi Chúa Giêsu gọi Simon, Giacôbê và Gioan, và loan báo với Simon rằng ông sẽ trở thành người đánh cá người. Từ giây phút đó, Phêrô đã đi theo Chúa, đôi khi hiểu lầm và thậm chí phản bội, nhưng trong cuộc gặp gỡ hôm nay, cuộc gặp gỡ cuối cùng trước khi Chúa Kitô trở về với Chúa Cha, Phêrô đã nhận được từ Chúa nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của mình.

Tình yêu là từ khóa trong trang Tin Mừng này. Người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu là "người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến", Gioan, người đã thốt lên "Chính Chúa đó!", và Phêrô liền nhảy xuống biển để đến với Thầy. Sau khi chia sẻ bữa ăn, điều sẽ khơi dậy trong lòng các Tông đồ ký ức về Bữa Tiệc Ly, cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô bắt đầu, câu hỏi ba lần của Chúa và câu trả lời ba lần của Phêrô.

Hai lần đầu, Chúa Giêsu dùng động từ agapo (tình yêu đức ái), một động từ mạnh, trong khi Phêrô, lưu tâm đến sự phản bội, đáp lại bằng cách diễn đạt ít đòi hỏi hơn “amare” (yêu thường), và lần thứ ba, chính Chúa Giêsu dùng cách diễn đạt của Phêrô, thích nghi với sự yếu đuối của vị Tông đồ. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã lưu ý điều này khi bình luận về cuộc đối thoại này. “Simon hiểu rằng tình yêu nghèo nàn của ông là đủ cho Chúa Giêsu, tình yêu duy nhất mà ông có khả năng. (…) Chính sự thích nghi thiêng liêng này mang lại hy vọng cho người môn đệ, người đã biết đến nỗi đau khổ của sự bất trung. (…) Từ ngày đó, Thánh Phêrô “đi theo” Thầy với nhận thức chính xác về sự mong manh của chính mình; nhưng nhận thức này không làm ngài nản lòng. Trên thực tế, ngài biết rằng ngài có thể tin tưởng vào sự hiện diện của Đấng Phục sinh bên cạnh mình (…) và do đó, ngài cũng chỉ cho chúng ta con đường”. [1]

Trong bài giảng của mình tại Thánh lễ kỷ niệm 25 năm Triều đại Giáo hoàng của mình, Thánh Gioan Phaolô II đã tâm sự: “Hôm nay, anh chị em thân mến, tôi rất vui được chia sẻ với anh chị em một kinh nghiệm đã kéo dài một phần tư thế kỷ. Mỗi ngày, cùng một cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Thánh Phêrô diễn ra trong trái tim tôi. Trong tâm hồn tôi, tôi hướng mắt nhìn vào ánh mắt nhân từ của Chúa Kitô phục sinh. Người, trong khi nhận thức được sự yếu đuối của con người tôi, khuyến khích tôi đáp lại bằng sự tin tưởng như Thánh Phêrô: ‘Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự; Chúa biết rằng con yêu Chúa” (Ga 21:17). Và sau đó Người mời gọi tôi đảm nhận những trách nhiệm mà chính Người đã giao phó cho tôi.” [2]

Sứ mệnh này chính là tình yêu, trở thành sự phục vụ cho Giáo hội và cho toàn thể nhân loại. Thánh Phêrô và các Tông đồ đã tiếp thu nó ngay, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà các ngài đã nhận được vào Lễ Ngũ Tuần, như chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ nhất: “Chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, Đấng mà các ông đã giết bằng cách treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã tôn Người lên bên hữu Người làm thủ lãnh và làm Đấng Cứu Độ.”

Chúng ta đều ngưỡng mộ cách Đức Giáo Hoàng Phanxicô, được tình yêu của Chúa thúc đẩy và được ân sủng của Người nâng đỡ, đã trung thành với Sứ mệnh của mình hết sức mình. Ngài cảnh báo những người quyền thế rằng họ phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người và công bố cho toàn thể nhân loại niềm vui của Tin mừng, của Chúa Cha nhân từ, của Chúa Kitô Cứu Thế. Ngài đã thể hiện điều đó trong công việc giảng dạy, trong những chuyến đi, trong cử chỉ và trong lối sống của mình. Tôi đã ở gần ngài vào Chúa Nhật Phục Sinh, tại hành lang ban phép lành của Vương cung thánh đường này, chứng kiến nỗi đau khổ của ngài, nhưng trên hết là lòng dũng cảm và quyết tâm phục vụ dân Chúa cho đến cùng của ngài.

Trong bài đọc thứ hai, trích từ Sách Khải Huyền, chúng ta đã nghe lời ngợi khen mà toàn thể vũ trụ dành cho Đấng ngự trên ngai và cho Con Chiên: “xin ngợi khen, danh dự, vinh quang và quyền năng, đến muôn thuở muôn đời.” Và bốn sinh vật đều nói: “A-men.” Và các bô lão sấp mình xuống thờ lạy.”

Việc thờ phượng là một chiều kích thiết yếu trong sứ mệnh của Giáo hội và đời sống tín hữu. Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nhắc lại điều này, chẳng hạn như trong bài giảng của ngài cho lễ Hiển Linh năm ngoái: “Các nhà thông thái đã quỳ xuống thờ lạy. (…) Họ đến Bêlem và khi họ nhìn thấy Hài Nhi, ‘họ sấp mình xuống và thờ lạy Người’ (Mt 2:11). (…) Một vị vua đã đến để phục vụ chúng ta, một Thiên Chúa đã trở thành người phàm. Trước mầu nhiệm này, chúng ta được kêu gọi cúi mình và quỳ gối để thờ lạy: thờ lạy Thiên Chúa, Đấng đến trong sự nhỏ bé, Đấng sống trong sự bình thường của ngôi nhà chúng ta, Đấng chết vì tình yêu. (…) Thưa anh chị em, chúng ta đã mất đi thói quen thờ phượng, chúng ta đã mất đi khả năng mà việc thờ phượng mang lại cho chúng ta. Chúng ta hãy khám phá lại hương vị của lời cầu nguyện tôn thờ. (…). Ngày nay, chúng ta thiếu sự tôn thờ.” [3]

Khả năng mà sự tôn thờ mang lại không khó để nhận ra nơi Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Cuộc sống mục vụ mãnh liệt, vô số cuộc gặp gỡ của ngài, được xây dựng trên những khoảnh khắc cầu nguyện dài mà kỷ luật của thánh Inhaxiô đã in sâu vào ngài. Nhiều lần ngài nhắc nhở chúng ta rằng chiêm niệm là “một động lực của tình yêu” “nâng chúng ta lên với Thiên Chúa không phải để tách chúng ta khỏi trái đất, nhưng để làm cho chúng ta sống sâu sắc trong đó”. [4] Và mọi việc ngài làm, ngài đều làm dưới sự chứng kiến của Đức Maria. Chặng dừng chân thứ một trăm hai mươi sáu của ngài trước bức ảnh Maria, Salus Populi Romani sẽ mãi in sâu trong ký ức và trái tim chúng ta. Và giờ đây, khi ngài an nghỉ gần Bức Ảnh yêu dấu, chúng ta phó thác ngài với lòng biết ơn và tin tưởng vào sự chuyển cầu của Mẹ Chúa và Mẹ chúng ta.

_____________________________________________________

[1] Buổi tiếp kiến chung ngày 24 tháng 5 năm 2006.
[2] Bài giảng Thánh lễ ngày 16 tháng 10 năm 2003.
[3] Bài giảng Thánh lễ ngày 6 tháng 1 năm 2024.
[4] Buổi tiếp kiến các đại biểu của các nữ tu dòng Cát Minh không đi giày, ngày 18 tháng 4 năm 2024.

 

http://vietcatholic.net/News/Html/295644.htm

BÀI GIẢNG TIỀN MẬT NGHỊ BẤT HỦ CỦA ĐỨC HỒNG Y WOJTYLA

 

Bài giảng tiền mật nghị bất hủ của Đức Hồng Y Wojtyła

Vũ Văn An  04/May/2025

 


Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cầu nguyện trong Thánh lễ tại Etchmiadzin, Armenia, vào ngày 27 tháng 9 năm 2001. (ảnh: Gabriel Bouys / AFP qua Getty Images)

 

Bài giảng trước mật nghị tuyệt vời nhất được Thánh Gioan Phaolô II thuyết giảng vào năm 1978, về Tin Mừng mà Chúa Kitô hỏi Phêrô ba lần, 'Con có yêu ta không?' — cùng một Tin Mừng được nghe trong các nhà thờ trên khắp thế giới vào Chúa Nhật này.

Đó là bình luận của Cha Raymond J.de Souza, tựa là “This Question Shook Gioan Paul II — Now Another Man Must Answer Christ’s Summons” trên National Catholic Registre ngày 3 tháng 5, 2025.

Vào Chúa Nhật trước khi mật nghị bắt đầu, khá nhiều Hồng Y sẽ đến thăm "các nhà thờ danh nghĩa" của họ tại Rome. Chúa nhật này, họ sẽ có một bản văn Tin Mừng truyền cảm hứng cho bài giảng của họ khi họ chuẩn bị bầu một giáo hoàng mới.

Bài đọc được chỉ định cho Chúa Nhật này là Gioan 21: 1-19. Chúa Giêsu yêu cầu Phêrô ba lần tuyên xưng tình yêu của ngài, và ba lần trao cho ngài sứ mệnh chăm sóc toàn thể đàn chiên — “hãy chăn chiên của Ta, hãy chăn dắt chiên của Ta.” Vì đây là bài đọc được chỉ định cho Thánh lễ Chúa Nhật trên toàn thế giới, nên những người giảng đạo ở khắp mọi nơi có thể sẽ giảng về quyền tối thượng của Phêrô.

Mỗi Hồng Y, khi nhận được chiếc mũ đỏ, sẽ được chỉ định một nhà thờ ở Rome, trở thành, như thể, linh mục giáo xứ địa phương. Trên thực tế, ngài không phải là như vậy, nhưng nhiệm vụ danh nghĩa duy trì một truyền thống lâu đời theo đó, một giám mục được các giáo sĩ địa phương lựa chọn — trong trường hợp này, giám mục của Rome được các giáo sĩ của Rome bầu chọn. Hồng Y đoàn thể hiện tính phổ quát của toàn thể Giáo hội; các nhà thờ danh nghĩa của họ liên kết họ với giáo phận địa phương của Rome.

Các chuyến thăm trước mật nghị để tham dự Thánh lễ Chúa Nhật có thể tạo ra khá nhiều náo động. Các Hồng Y sống xa Rome hiếm khi đến thăm các nhà thờ danh nghĩa của họ, vì vậy bất cứ chuyến thăm nào cũng có thể là một sự kiện địa phương.

Với bầu không khí sốt sắng ngay trước một mật nghị, các Hồng Y nổi tiếng nhất thu hút một nhóm người ủng hộ, những người tò mò và giới truyền thông. Những người dẫn đầu rõ ràng đã nói gì? Điều đó có giúp ích hay gây tổn hại cho mục đích của họ? Những người được gọi là nhà tạo vua đã bày tỏ những ưu tiên gì? Có những lời cầu nguyện chuyển cầu bằng tiếng Quan Thoại không? Có những lời cầu nguyện cho những người Công Giáo bị đàn áp không? Có thể là một cảnh tượng khá ngoạn mục.

Gioan 21 cũng được sử dụng trong các lễ tang của giáo hoàng. Nó được sử dụng cho cả Đức Giáo Hoàng Phanxicô lẫn Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, người đã thuyết giảng vào tuần trước, hầu như không chú ý đến đoạn Tin Mừng trong bài giảng theo công thức của mình khi kể lại cuộc đời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Các Hồng Y chắc chắn sẽ làm tốt hơn thế vào Chúa nhật này.

Năm 2005, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã có một bài giảng tuyệt vời tại lễ tang của Đức Gioan Phaolô, được xây dựng xung quanh những lời cuối cùng của Chúa Giêsu với Phêrô: Hãy theo Ta! Người ta hy vọng các nhà thuyết giáo cấp Hồng Y có thể tiếp cận được đỉnh cao của Hồng Y Ratzinger vào Chúa nhật này.

Bài giảng vĩ đại nhất trước mật nghị Hồng Y được thuyết giảng về chính bản văn đó, Gioan 21, vào tháng 10 năm 1978. Đức Gioan Phaolô I đã qua đời chỉ sau 33 ngày, và các Hồng Y choáng váng đã tập trung cho mật nghị Hồng Y thứ hai trong năm đó.

Sau khi đến Rome, các Hồng Y Ba Lan đã dâng Thánh lễ cho cố giáo hoàng. Hồng Y Stefan Wyszyński, giáo chủ Ba Lan, là người chủ trì chính, và Hồng Y Karol Wojtyła, tổng giám mục Kraków, đã thuyết giảng bài giảng về cuộc trò chuyện giữa Chúa Giêsu và Thánh Phêrô.

Không có video nào về sự kiện này và hầu như không ai biết đến cho đến khi nhà viết tiểu sử của Đức Giáo Hoàng George Weigel đưa nó vào Witness to Hope, tiểu sử năm 1999 của Đức Gioan Phaolô II. Weigel đã phát hiện ra nó trong Kalendarium życia Karola Wojtyła, một biên niên sử tiền giáo hoàng đầy đủ do Adam Boniecki biên soạn.

Với phẩm chất gần như huyền bí, vị giáo hoàng tương lai đã giảng vào ngày hôm đó về người tiền nhiệm trực tiếp của mình, Gioan Paul I, và người tiền nhiệm đầu tiên của mình, Thánh Phêrô:

Sự kế vị Thánh Phêrô, lời triệu tập đến chức vụ giáo hoàng, luôn chứa đựng trong đó lời kêu gọi đến tình yêu cao cả nhất, đến một tình yêu rất đặc biệt. Và luôn luôn, khi Chúa Kitô nói với một người đàn ông, 'Hãy đến, theo Ta,' Người hỏi người đó điều Người đã hỏi Simon: 'Con có yêu Ta hơn những người này không?'”

Câu hỏi cốt lõi của mọi ơn gọi đều giống nhau: "Con có yêu Ta không?" Nhưng chức vụ Phêrô, là Đại diện của Chúa Kitô, thì quá khủng khiếp, đến nỗi trái tim không thể chịu nổi sức nặng. Đức Hồng Y Wojtyła phát biểu:

“Khi đó, trái tim con người phải run rẩy. Trái tim của Simon đã run rẩy, và trái tim của Albino Luciani, trước khi lấy tên là Gioan Paul I, cũng đã run rẩy. Trái tim con người phải run rẩy, bởi vì trong câu hỏi này cũng có một yêu cầu. Bạn phải yêu! Bạn phải yêu nhiều hơn những người khác, nếu toàn bộ đàn chiên được giao phó cho bạn, nếu lệnh truyền, 'Hãy chăn dắt chiên con của Ta, hãy chăn dắt chiên của Ta' đạt đến phạm vi mà nó đạt được trong ơn gọi và sứ mệnh của Phêrô”.

Đây thực sự là một đoạn văn đáng chú ý. Vào ngưỡng cửa của chức giáo hoàng năm 1978, Đức Hồng Y Wojtyła đã cảm thấy sức nặng của lời kêu gọi — một sức nặng quá lớn đối với trái tim con người. Trái tim của vị Hồng Y người Ba Lan chắc chắn đã run rẩy. Để Giáo hội có thể đón nhận hồng phúc Phêrô, một người đàn ông phải sẵn sàng trả giá. Phêrô đã trả giá đó bằng mạng sống của mình, được xác định trên đồi Vatican.

Bài giảng của Đức Hồng Y Wojtyła tiếp tục:

“Chúa Kitô nói những lời bí ẩn, Người nói với Phêrô: ‘Khi còn trẻ, con đã tự thắt lưng và đi đến nơi con muốn. Nhưng khi con già đi, người khác sẽ thắt lưng và dẫn con đến nơi con không muốn đến.’ Những lời bí ẩn và bí ẩn. … Và vì vậy, trong lời triệu tập này, được Chúa Kitô hướng dẫn cho Phêrô sau khi Người Phục sinh, lệnh truyền của Chúa Kitô, ‘Hãy theo Ta,’ có ý nghĩa kép. Đó là lời triệu tập để phục vụ, và lời triệu tập để chết “…

Chỉ vài ngày sau, lời triệu tập đó đã rơi vào Đức Hồng Y Karol Wojtyła của Kraków. Giống như tất cả các giáo hoàng, ngài đã được hỏi trong mật nghị: “Ngài có chấp nhận cuộc bầu cử ngài không?” Ngài thực sự đã được hỏi, trong Nhà nguyện Sistine, trước bức tượng Chúa Kitô Thẩm phán đồ sộ của Michelangelo: “Con có yêu Ta hơn những người này không?”

Hai mươi lăm năm sau, vào tháng 10 năm 2003, tại lễ kỷ niệm ngân khánh triều giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã trở lại với Gioan 21:

“Mỗi ngày, cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô diễn ra trong trái tim tôi. Trong tâm hồn, tôi hướng mắt về Chúa Kitô Phục sinh. Người, hiểu rõ sự mong manh của con người tôi, khuyến khích tôi đáp lại bằng sự tin tưởng như Phêrô đã làm: ‘Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự; Chúa biết rằng con yêu Chúa’ (Gioan 21:17). Và sau đó, Người mời tôi đảm nhận những trách nhiệm mà chính Người đã giao phó cho tôi”.

Trong triều giáo hoàng dài của ngài, khi Đức Gioan Phaolô nói về chức vụ giáo hoàng của mình, ngài thích trích dẫn văn bản Luca 22:32. Chúa Giêsu, đã dự đoán về việc Phêrô chối Chúa, đảm bảo với ông rằng Người đã cầu nguyện cho ngài để “đức tin của ông không bị mất” và rằng Phêrô sẽ trở lại và có sứ mệnh củng cố đức tin của những người khác. Ít khi nào Đức Gioan Phaolô đề cập đến những đoạn văn nổi tiếng hơn của Phêrô trong Matthew 16 và Gioan 21. Nhưng trong đời sống cầu nguyện nội tâm của Đức Gioan Phaolô với Chúa, cuộc trò chuyện của Gioan 21 luôn đồng hành cùng ngài.

Trong Thánh lễ an táng trọng thể của Đức Gioan Phaolô năm 2005, Đức Hồng Y Ratzinger đã đặt toàn bộ triều giáo hoàng vào bối cảnh của Gioan 21:

“Trong những năm đầu tiên của triều giáo hoàng, khi còn trẻ và tràn đầy năng lực, Đức Thánh Cha [Gioan Paul II] đã đi đến tận cùng trái đất, được Chúa Kitô hướng dẫn. Nhưng sau đó, ngài ngày càng bước vào sự hiệp thông với những đau khổ của Chúa Kitô; ngài ngày càng hiểu được sự thật của những lời này: 'Một người khác sẽ thắt lưng cho con'. Và trong chính sự hiệp thông này với Chúa chịu đau khổ, không mệt mỏi và với cường độ mới, ngài đã công bố Tin Mừng, mầu nhiệm của tình yêu đi đến cùng (x. Gioan 13: 1)”.

Khi trao quyền tối thượng cho Phêrô, Chúa Giêsu đã đặt quyền đó vào trong mầu nhiệm của tình yêu. Một tình yêu sâu sắc và rộng lớn đến nỗi trái tim con người khó có thể chứa đựng được. Vì vậy, trái tim run rẩy.

Vào Chúa nhật, đối với nhiều Hồng Y, bài giảng sẽ là lời phát biểu công khai cuối cùng của họ trước khi mật nghị bắt đầu vào thứ Tư. Sau đó, đối với một người, lệnh triệu tập sẽ đến gần, và trái tim sẽ run rẩy.

 

http://vietcatholic.net/News/Html/295633.htm

ĐÂY CÓ PHẢI LÀ MẬT NGHỊ DÀI NHẤT TRONG LỊCH SỬ HIỆN ĐẠI KHÔNG?

 

Đây có phải là mật nghị dài nhất trong lịch sử hiện đại không?

Vũ Văn An  04/May/2025

 


Một đèn pha chiếu về phía Vương cung thánh đường Thánh Phêrô khi bức tượng Thánh Phêrô cầm chìa khóa lên thiên đường đứng tại Quảng trường Thánh Phêrô, Vatican, ngày 13 tháng 3 năm 2013. (Ảnh của Peter Macdiarmid/Getty Images.)

 

Peter Day-Milne, trên The Catholic Herald của Anh, ngày 1 tháng 5 năm 2025 nhận định: Mỗi người Công Giáo đều có dự đoán riêng về mật nghị: một số dự đoán một giáo hoàng mới theo khuôn mẫu của Giáo hoàng Phanxicô, những người khác dự đoán một sự điều chỉnh lộ trình cho Giáo hội với cuộc bầu cử một người như Hồng Y Robert Sarah. Nhưng nếu chủ đề về mật nghị đã ở trên môi của mọi người, thì một câu hỏi mà tôi nghe thấy ít được thảo luận cho đến nay là thời lượng của nó: các Hồng Y sẽ nhanh chóng bầu ra một giáo hoàng mới hay sẽ có một cuộc chiến dài và khó khăn, với nhiều vòng bỏ phiếu trước khi một ứng viên đạt được đa số hai phần ba số cử tri?

Ngay cả các thị trường cá cược cũng bỏ qua câu hỏi về thời lượng của mật nghị: tại thời điểm viết bài này, những người dùng trang web cá cược Polymarket đã đặt cược hơn 10,000,000 đô la vào danh tính của giáo hoàng tiếp theo, nhưng chỉ đặt cược 300,000 đô la vào ngày bầu cử. Tuy nhiên, tôi tin rằng đặc điểm nổi bật nhất của mật nghị năm nay - điều mà các nhà sử học sẽ nhớ - có thể là nó kéo dài rất lâu.

Điều này là do một điều kỳ lạ ít được chú ý mà Đức Giáo Hoàng Benedict đã đưa vào các quy tắc của mật nghị vào năm 2007. Điều này không trở nên liên quan trong mật nghị giáo hoàng duy nhất được tổ chức kể từ đó, cụ thể là mật nghị bầu Đức Giáo Hoàng Phanxicô vào năm 2013, nhưng nó có thể trở nên như vậy trong cuộc bầu cử gây tranh cãi hơn có vẻ như có khả năng xảy ra lần này, khi các Hồng Y cấp tiến và truyền thống tranh đấu lẫn nhau vì tương lai của Giáo hội.

Để hiểu được điều kỳ lạ này trong các quy tắc, người ta phải quay trở lại các cải cách của mật nghị do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành vào năm 1996 với tông hiến Universi Dominici gregis. Với văn kiện này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thực hiện nhiều thay đổi triệt để đối với thông lệ truyền thống. Ví dụ, lần đầu tiên sau nhiều thế kỷ, các Hồng Y được phép sống bên ngoài khu phức hợp Nhà nguyện Sistine trong suốt thời gian diễn ra mật nghị (hiện tại họ đang ở tại Domus Sanctae Marthae). Hơn nữa, hai phương án thay thế truyền thống cho việc bầu giáo hoàng bằng cách bỏ phiếu kín (per scrutinium) đã bị bãi bỏ: cụ thể là tuyên bố tự phát (trong đó tất cả các Hồng Y cùng lúc hô to tên của ứng viên mà họ chọn, được cho là theo sự linh hứng của Chúa Thánh Thần), và thỏa hiệp (trong đó các cử tri ủy quyền cho một ủy ban nhỏ gồm các Hồng Y để đưa ra lựa chọn thay cho họ).

Nhưng cải cách có liên quan nhất đến thời lượng của mật nghị là một cải cách khác, và có lẽ là cải cách cấp tiến nhất trong tất cả. Nếu mật nghị không bầu được giáo hoàng sau 32 vòng bỏ phiếu (hoặc 33 vòng, nếu một vòng được tổ chức vào ngày đầu tiên), Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cho phép đa số cử tri đơn giản thay đổi ngưỡng phiếu bầu mà một người cần để trở thành giáo hoàng, hạ ngưỡng này từ hai phần ba cử tri theo truyền thống xuống mức tối thiểu là 50 phần trăm cộng một.

Mặc dù Universi Dominici gregis không cho chúng ta biết lý do tại sao Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô tạo ra quy tắc mới này, nhưng có vẻ như ngài đã nghĩ đến khối lượng công việc khổng lồ của Tòa thánh và các Hồng Y trong thế giới hiện đại, và mối nguy hiểm rằng một mật nghị dài có thể làm tê liệt Giáo hội. Ngài đã bãi bỏ việc bầu cử bằng thỏa hiệp, vốn là phương tiện truyền thống của các Hồng Y để chấm dứt một mật nghị dài và gây tranh cãi, và vì vậy ngài muốn cung cấp cho họ một phương tiện khác để làm như vậy; do đó, ngài đã đưa ra thủ tục mới mà theo đó các Hồng Y có thể hạ thấp ngưỡng bầu cử.

Tuy nhiên, sau khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua đời, khi các Hồng Y tập trung cho mật nghị sẽ bầu Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, một vấn đề đã sớm trở nên rõ ràng. Nếu một phe Hồng Y có thể đạt được đa số phiếu đơn giản cho ứng cử viên của mình, thì phe này chỉ cần tiếp tục bỏ phiếu cho ứng cử viên đó cho đến vòng 32 hoặc 33, và sau đó có thể buộc phải giảm ngưỡng bầu cử xuống còn đa số phiếu đơn giản và bầu ứng viên đó làm giáo hoàng. Do đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thực sự giảm ngưỡng bầu cử xuống còn đa số đơn giản ngay từ đầu một mật nghị – điều mà ngài chưa bao giờ có ý định làm.

Nhận thức được vấn đề này, vào năm 2007, Đức Giáo Hoàng Benedict đã ban hành bản văn riêng của ngài, De aliquibus mutationibus in normis de electione Romani Pontificis, trong đó sửa đổi thủ tục phải tuân theo khi các Hồng Y không bầu được giáo hoàng sau 32 hoặc 33 vòng. Từ thời điểm này trở đi, chỉ có hai Hồng Y nhận được nhiều phiếu bầu nhất trong vòng trước mới xuất hiện trên phiếu bầu của các Hồng Y. Nhưng theo truyền thống, một ứng viên thành công vẫn cần hai phần ba số phiếu bầu của cử tri để trở thành giáo hoàng.

Các quy tắc đã sửa đổi của Đức Giáo Hoàng Benedict vẫn có hiệu lực và sẽ chi phối mật nghị năm nay. Nhưng không khó để tưởng tượng ra một tình huống mà chúng có thể gây ra bế tắc tuyệt đối. Giả sử mật nghị năm nay được chia theo tỷ lệ 3:2 giữa các Hồng Y muốn có một giáo hoàng thứ hai là Phanxicô và các Hồng Y muốn có một người theo chủ nghĩa truyền thống không hề nao núng. Mật nghị đạt đến vòng 33; người thừa kế của Đức Phanxicô nhận được 50 phần trăm số phiếu bầu, và người theo chủ nghĩa truyền thống đứng thứ hai với 30 phần trăm. Từ thời điểm này, chỉ còn hai người này trên lá phiếu. Các Hồng Y bỏ phiếu hết lần này đến lần khác, nhưng phe theo chủ nghĩa truyền thống sẽ không bầu người kế vị Đức Phanxicô; các Hồng Y tiến bộ hơn cũng sẽ không chấp nhận ứng viên theo chủ nghĩa truyền thống. Các Hồng Y không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tìm một ứng viên thay thế, thỏa hiệp. Tại thời điểm này, mật nghị sẽ kết thúc như thế nào?

Theo các quy tắc hiện hành, đơn giản là không có câu trả lời, và suy đoán nhanh chóng trở nên kỳ lạ. Liệu Hồng Y đoàn có phải tuyên bố rằng mình không thể bầu một giáo hoàng không? Sau đó, họ có phải mời các giáo sĩ thực sự của Rome - cơ quan duy nhất khác rõ ràng có đủ năng lực để bầu một giáo hoàng - để chọn ứng viên của họ không? Còn các Hồng Y trên tám mươi tuổi, bị Đức Giáo Hoàng Paul VI tước quyền bỏ phiếu vào năm 1970 thì sao? Và bên cạnh những câu hỏi suy đoán này, còn có một câu hỏi thậm chí còn hấp dẫn hơn - tại sao trí tuệ thông minh của Đức Giáo Hoàng Benedict lại không lường trước được vấn đề bế tắc bầu cử không thể giải quyết này?

Tại thời điểm này, chúng ta đang hướng đến lĩnh vực hư cấu. Nhưng có một điều chắc chắn: nếu mật nghị này vượt quá vòng ba mươi ba, thì mọi cược đều bị hủy bỏ.

 

http://vietcatholic.net/News/Html/295635.htm

05.05 DIỄN BIẾN BẦU GIÁO HOÀNG: HAI HỒNG Y NỔI BẬT TRƯỚC GIỜ BỎ PHIẾU. LỜI CÔNG BỐ HABEMUS PAPAM.

 


05.05 Diễn biến bầu Giáo Hoàng: Hai Hồng Y nổi bật trước giờ bỏ phiếu. Lời công bố Habemus Papam

VietCatholic Media  04/May/2025

 

1. Đức Hồng Y Pizzaballa và Đức Hồng Y Eijk nổi lên như các ứng cử viên tiềm năng cho sứ vụ Giáo Hoàng

Khi Cơ Mật Viện Hồng Y đến gần, ngày càng có nhiều suy đoán về việc ai sẽ kế nhiệm Đức Thánh Cha Phanxicô làm Đức Giáo Hoàng tiếp theo.

Một ứng cử viên tiềm năng là Hồng Y Pierbattista Pizzaballa, Thượng phụ La tinh của Giêrusalem. Một nhóm Kitô hữu trẻ từ Palestine, do Cha Firas Abedrabbo, cựu thư ký riêng của Đức Hồng Y Pizzaballa, dẫn đầu, đã có mặt tại Rôma, ban đầu là để tham dự lễ tuyên thánh cho Chân phước Carlo Acutis nhưng thay vào đó lại có mặt tại tang lễ của Đức Giáo Hoàng. Nhóm này cho biết họ ủng hộ việc bầu Đức Hồng Y Pizzaballa lên ngôi Giáo Hoàng.

Theo Cha Firas Abedrabbo, Đức Hồng Y là người giữ vững lập trường ở Thánh Địa. Ngài là một nhà ngoại giao khôn ngoan, thông thạo tiếng Ý, tiếng Anh, tiếng Ả Rập và tiếng Do Thái (cổ và hiện đại). Đức Hồng Y Pizzaballa là người bảo vệ tín lý vững chắc.

Cha Firas Abedrabbo nhận xét rằng một số quan sát viên thông thạo về Vatican cả quyết theo kinh nghiệm của họ rằng các thành viên của các dòng tu, được đào tạo theo các đặc sủng riêng của các dòng tu đó, không phải là các papabili lý tưởng. Tuy nhiên, vị linh mục này khẳng định rằng vị Hồng Y “người Ý to lớn, nhanh trí, thực tế” này là một ngoại lệ.

Một số quan sát viên cũng đề cập đến Đức Hồng Y Wim Eijk, Tổng Giám Mục Utrecht, Hòa Lan. Họ cho rằng ngài không phải là thành viên của một dòng tu, và điều này nói lên rất nhiều lợi thế của ngài.

Việc đào tạo những vị cho đời sống tu trì nhấn mạnh đến đặc sủng độc đáo của dòng tu, thường dẫn đến công tác tông đồ chuyên biệt. Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng các mục tử phải “có mùi như đàn chiên của họ”. Theo nghĩa đó, nhiều người tin rằng các linh mục triều có nhiều khả năng thể hiện phẩm chất đó hơn so với những vị trong các dòng tu.

Đức Hồng Y Eijk được thụ phong vào những năm 1980 tại Hòa Lan, thời điểm và địa điểm của sự thế tục hóa sâu sắc. Ngài không có ảo tưởng về xã hội thế tục và miễn nhiễm với sự cám dỗ muốn tỏ ra vui vẻ với chủ nghĩa hư vô hậu hiện đại.

2. Điều gì xảy ra vào ngày đầu tiên của Cơ Mật Viện?

Vào buổi sáng ngày 7 Tháng Năm, ngày Cơ Mật Viện khai mạc, các Hồng Y sẽ cử tri cử hành Thánh lễ tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Vào buổi chiều lúc 4:30 chiều, các ngài tập trung tại Nhà nguyện Pauline trong Điện Tông tòa và long trọng diễn hành đến Nhà nguyện Sistina, nơi các ngài sẽ họp cho đến khoảng 7:30 tối.

Các Hồng Y tuyên thệ tuân thủ các quy tắc được nêu trong “Universi Dominici Gregis”, đặc biệt là những quy tắc yêu cầu giữ bí mật. Các ngài cũng tuyên thệ không ủng hộ sự can thiệp vào cuộc bầu cử của bất kỳ chính quyền thế tục nào hoặc “bất kỳ nhóm người hoặc cá nhân nào muốn can thiệp vào cuộc bầu cử vị Giáo Hoàng Rôma”. Cuối cùng, các cử tri tuyên thệ rằng bất kỳ ai được bầu sẽ thực hiện “munus Petrinum” hay “Sứ vụ Phêrô” của mục tử toàn thể Hội Thánhvà sẽ “khẳng định và bảo vệ mạnh mẽ các quyền và tự do về tinh thần và thế tục của Tòa thánh”.

Sau khi tuyên thệ, mọi người không liên quan đến Cơ Mật Viện đều được lệnh rút lui với những từ tiếng Latin “Extra omnes”, “Mọi người ra ngoài!” Sau đó, Nhà nguyện Sistina và cả nhà trọ Santa Martha bị đóng cửa đối với những người không được phép của Đức Hồng Y Nhiếp Chính Kevin Farrell. Bên ngoài Cơ Mật Viện, Đức Hồng Y nhiếp chính được hỗ trợ bởi Đức Tổng Giám Mục Edgar Peña Parra, Phụ Tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, người chỉ đạo nhân viên Vatican bảo vệ tính toàn vẹn và an ninh của Cơ Mật Viện.

Sau khi mọi người khác rời đi, một giáo sĩ được hội đồng Hồng Y chọn trước đó sẽ đưa ra một bài suy ngẫm “về bổn phận nghiêm trọng mà các Hồng Y cử tri phải gánh vác và do đó là nhu cầu hành động với ý định đúng đắn vì lợi ích của Giáo hội hoàn vũ, solum Deum prae oculis habentes [chỉ có Chúa trước mắt bạn].” Khi hoàn thành, ngài rời Nhà nguyện Sistina cùng với người chủ trì các nghi lễ phụng vụ của Đức Giáo Hoàng, để chỉ còn lại các Hồng Y cử tri. Thời gian trong nhà nguyện là để cầu nguyện và bỏ phiếu trong im lặng, không phải để đọc diễn văn vận động tranh cử. Các cuộc đàm phán và tranh luận sẽ diễn ra bên ngoài nhà nguyện. Nếu muốn, các Hồng Y có thể ngay lập tức bắt đầu quá trình bầu cử và tổ chức một cuộc bỏ phiếu vào buổi chiều của ngày đầu tiên.

Hiện nay, Hồng Y Đoàn có 135 Hồng Y cử tri nhưng có 2 vị không thể đến được vì lý do sức khoẻ, nên chỉ có 133 Hồng Y bỏ phiếu. Người được bầu làm Giáo Hoàng phải được ít nhất là 89 phiếu.

Nếu không vị nào nhận được đủ số 89 phiếu cần thiết trong cuộc bỏ phiếu vào buổi chiều của ngày đầu tiên, các Hồng Y sẽ họp lại vào sáng hôm sau.

3. Điều gì xảy ra sau khi các Hồng Y bầu được Đức Giáo Hoàng? Lời công bố Habemus papam

Theo tin tưởng phổ biến hiện nay, vào khoảng ngày này tuần sau, chúng ta sẽ có nhiều khả năng được nghe lời công bố Habemus papam.

Habemus papam hay Papam habemus, nghĩa là “Chúng ta đã có Đức Giáo Hoàng” là lời thông báo theo truyền thống do vị Hồng Y trưởng đẳng phó tế loan báo bằng tiếng Latinh, đưa ra khi Cơ Mật Viện bầu ra được một vị Tân Giáo Hoàng.

Vị Hồng Y trưởng đẳng phó tế công bố Habemus papam phải là một Hồng Y cử tri và tham gia Cơ Mật Viện để khi có Tân Giáo Hoàng, ngài có mặt sẵn ở đó để đưa ra lời loan báo Habemus papam. Nếu ngài không phải là Hồng Y cử tri hay vì lý do gì đó không thể tham gia Cơ Mật Viện, như đau yếu chẳng hạn, thì Hồng Y Đoàn sẽ quyết định chọn một vị khác thường là vị Hồng Y cao niên nhất trong số các Hồng Y phó tế đang có mặt trong nhà nguyện Sistina.

Hồng Y Đoàn cũng phải chọn một vị khác nếu như chính vị Hồng Y trưởng đẳng phó tế ấy được bầu làm Tân Giáo Hoàng.

Trong Cơ Mật Viện hiện nay, hầu như chắc chắn là Đức Hồng Y Dominique Mamberti, là vị Hồng Y trưởng đẳng phó tế hiện nay, sẽ công bố Habemus papam.

Ngài sẽ đi trước Đức Tân Giáo Hoàng ra ban công trung tâm của Đền Thờ Thánh Phêrô. Ở đó ngài sẽ long trọng công bố trước thế giới danh tính vị Tân Giáo Hoàng trong lời loan báo Habemus papam.

Lời loan báo ấy bằng tiếng Latinh theo định dạng sau

Annuntio vobis gaudium magnum;

Habemus Papam:

Eminentissimum ac Reverendissimum Dominum,

Dominum

Sanctae Romanae Ecclesiae Cardinalem

qui sibi nomen imposuit.

Dịch ra tiếng Việt có nghĩa là

Tôi báo cho anh chị em một niềm vui lớn lao;

chúng ta vừa có một vị Giáo Hoàng:

vị lãnh đạo đáng kính và có uy tín nhất,

Đức

Là Hồng Y của Giáo hội Rôma thánh thiện

người đã lấy hiệu là.

Nội dung thông báo một phần được lấy cảm hứng từ Phúc âm Luca 2:10–11, ghi lại lời thiên thần báo tin cho những người chăn chiên về sự ra đời của Đấng Mêsia:

“Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa”

Việc áp dụng công thức này có từ khi Đức Hồng Y Odo Colonna được bầu làm Đức Giáo Hoàng Martin Đệ Ngũ vào năm 1417. Ngài được các Hồng Y và đại diện từ các quốc gia khác nhau chọn làm Tân Giáo Hoàng tại Công đồng Constance trong bối cảnh Giáo Hội có đến 3 ngụy Giáo Hoàng. Do đó, thông báo này có thể được hiểu là: “Cuối cùng, chúng ta đã có một Đức Giáo Hoàng và chỉ một!”

Công thức chúng tôi vừa nêu ở trên chỉ là một định dạng, nghĩa là, các vị công bố Habemus Papam có thể sửa lại chút đỉnh.

Trong cuộc bầu cử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngày 16 Tháng Mười, 1978, Đức Hồng Y Pericle Felici nói như sau, toàn bộ bằng tiếng Latinh:

Tôi xin báo cho anh chị em một niềm vui lớn lao; chúng ta vừa có một vị Giáo Hoàng: vị lãnh đạo đáng kính và có uy tín nhất, Đức Hồng Y Karol Wojtyła của Giáo hội Rôma thánh thiện, người lấy hiệu là Gioan Phaolô.

Trong cuộc bầu cử Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, ngày 19 tháng 4 năm 2005 – đầu tiên Đức Hồng Y Jorge Medin nói bằng tiếng Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Đức và Anh câu “Anh chị em thân mến”. Rồi ngài nói bằng tiếng Latinh,

Tôi xin báo một tin vui trọng đại cho anh chị em; chúng ta vừa có một Vị Giáo Hoàng: vị lãnh đạo đáng kính và uy tín nhất, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, của Giáo hội Rôma, người lấy hiệu là Bênêđíctô XVI.

Trong cuộc bầu cử Đức Giáo Hoàng Phanxicô, ngày 13 tháng 3 năm 2013 - Đức Hồng Y Jean-Louis Tauran nói bằng tiếng Latinh:

Tôi xin báo cho anh chị em một niềm vui lớn lao; chúng ta có một vị Giáo Hoàng: vị lãnh đạo đáng kính và uy tín nhất, Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio của Giáo hội Rôma, người lấy hiệu là Phanxicô.

Sau thông báo, Đức Tân Giáo Hoàng được giới thiệu với mọi người, và ngài sẽ ban phước lành Urbi et Orbi đầu tiên cho dân thành Rôma và toàn thế giới.

Danh hiệu Giáo Hoàng ban đầu có ý định Công Giáo hóa tên khai sinh của vị Tân Giáo Hoàng. Đức Giáo Hoàng John Đệ Nhị, được bầu vào năm 533, là người đầu tiên làm như vậy vì tên khai sinh của ngài là Mercurius, theo tên vị thần Mercury của Rôma. Hiện nay, danh hiệu Giáo Hoàng thường được coi là sự tôn vinh các Giáo Hoàng trước đó và là dấu hiệu cho thấy đường lối công việc của vị tân Giáo Hoàng.

Nếu danh hiệu Giáo Hoàng lần đầu tiên được sử dụng như trong trường hợp Đức Giáo Hoàng Phanxicô, lời công bố Habemus Papam sẽ không nhắc đến cụm từ Đệ Nhất. Đức Hồng Y Jean-Louis Tauran chỉ đơn giản nói danh hiệu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô là Franciscum thay vì Franciscum primi.

Nếu danh hiệu Giáo Hoàng của vị mới được bầu trùng với danh hiệu Giáo Hoàng của vị tiền nhiệm trực tiếp của ngài, lời công bố Habemus Papam cũng không nhắc đến con số theo sau danh hiệu ấy. Tháng 10, 1978 đã xảy ra trường hợp như vậy. Danh hiệu Giáo Hoàng của Đức Karol Wojtyła là Gioan Phaolô II. Danh hiệu của vị tiền nhiệm cũng là Gioan Phaolô. Vì thế, Đức Hồng Y Pericle Felici công bố danh hiệu Giáo Hoàng của ngài là Gioan Phaolô thay vì Gioan Phaolô II.

4. Cơ Mật Viện có thể kéo dài bao lâu?

Cơ Mật Viện kéo dài cho đến khi một vị tân Giáo Hoàng được bầu. Cơ Mật Viện cuối cùng kéo dài hơn năm ngày là vào năm 1831: Cơ Mật Viện này kéo dài 54 ngày. Vào thế kỷ 13, Tòa Thánh trống ngôi Giáo Hoàng đến một năm rưỡi trước khi Đức Innôcentê Đệ Tứ được bầu. Tòa Thánh cũng trống ngôi Giáo Hoàng trong ba năm rưỡi trước khi Đức Grêgôriô Mười lên ngôi. Kể từ đó, 29 Cơ Mật Viện đã kéo dài một tháng hoặc hơn. Thường thì chiến tranh hoặc bất ổn dân sự ở Rôma đã gây ra những thời kỳ gián đoạn kéo dài này. Đôi khi sự chậm trễ là do chính các Hồng Y gây ra, những người được hưởng quyền lực và phần thưởng tài chính trong điều kiện Tòa Thánh không có Giáo Hoàng. Những sự lạm dụng này đã dẫn đến các quy tắc chi phối thời kỳ gián đoạn và yêu cầu phải triệu tập Cơ Mật Viện nhanh chóng.

Các Cơ Mật Viện năm 2005 và 2013 đã kết thúc trong vòng 24 giờ.

Chuyện gì xảy ra sau ngày đầu tiên?

Nếu không vị nào nhận được số 89 phiếu cần thiết trong cuộc bỏ phiếu vào buổi tối ngày đầu tiên, vào ngày hôm sau, các Hồng Y cử hành Thánh lễ lúc 8:15 sáng tại Nhà nguyện Pauline và sau đó họp lại tại Nhà nguyện Sistina lúc 9:30 sáng. Sau khi đọc Kinh Nhật tụng, các ngài lại bỏ phiếu. Nếu các ngài lại không thành công, các ngài sẽ bỏ phiếu lại ngay lập tức. Từ đó trở đi, có thể có hai cuộc bỏ phiếu vào buổi sáng (bắt đầu lúc 9:30 sáng) và hai cuộc bỏ phiếu vào buổi chiều (bắt đầu lúc 4:50 chiều).

Nếu cuộc bỏ phiếu thứ hai trong một buổi diễn ra, các tài liệu từ hai cuộc bỏ phiếu trong một buổi sẽ được đốt cùng một lúc. Do đó, hai lần một ngày, sẽ có khói đen vào khoảng giữa trưa, hay 5 giờ chiều giờ Việt Nam; và 7 giờ tối hay nửa đêm theo giờ Việt Nam, từ ống khói trên đỉnh Nhà nguyện Sistina được gắn vào bếp lò cho đến khi một Đức Giáo Hoàng được bầu.

Khói trắng có thể xuất hiện vào những thời điểm này hoặc sớm hơn, khoảng 10:30 sáng hay 3:30 chiều giờ Việt Nam, hoặc 5:30 chiều hay 10:30 tối giờ Việt Nam, nếu một vị Giáo Hoàng được bầu trong cuộc bỏ phiếu đầu tiên vào buổi sáng hoặc buổi chiều.

Nếu sau ba ngày các Hồng Y vẫn chưa bầu được ai, các cuộc bỏ phiếu có thể bị hoãn lại tối đa một ngày để cầu nguyện và thảo luận giữa các cử tri. Trong thời gian nghỉ này, một bài giảng ngắn gọn sẽ được đưa ra bởi vị Hồng Y trưởng đẳng phó tế. Sau đó, bảy cuộc bỏ phiếu khác sẽ diễn ra, tiếp theo là một cuộc đình chỉ và một bài giảng ngắn gọn của vị Hồng Y trưởng đẳng linh mục. Sau đó, bảy cuộc bỏ phiếu khác sẽ diễn ra, tiếp theo là một cuộc đình chỉ và một bài giảng ngắn gọn của vị Hồng Y trưởng đẳng giám mục. Sau đó, cuộc bỏ phiếu sẽ tiếp tục cho bảy lần bỏ phiếu khác.

Nếu không có ứng cử viên nào nhận được ít nhất 89 phiếu sau cuộc bỏ phiếu này, “Universi Dominici Gregis”, được ban hành năm 1996, cho phép bỏ qua yêu cầu về số phiếu đa số hai phần ba, cụ thể là vị nào nhận được hơn một nửa tức là 67 phiếu thì đắc cử.

Sự đổi mới này đã bị chỉ trích, là trái ngược với truyền thống hàng thế kỷ. Giả sử một vị được một nhóm khoảng 67 Hồng Y ủng hộ nhưng không đủ 89 phiếu. Các Hồng Y trong nhóm này có thể giữ vững lập trường trong khoảng 10 đến 12 ngày cho đến khi quy tắc thay đổi từ 89 xuống còn 67. Nhóm thiểu số bị ép phải nhượng bộ, vì mọi người đều biết rằng cuối cùng thì đa số sẽ thắng thế. Trong trường hợp như vậy, thiểu số chắc chắn sẽ nhượng bộ thay vì gây phẫn nộ cho các tín hữu và làm phật lòng người chắc chắn sẽ trở thành Giáo Hoàng.

Các Hồng Y tham dự Cơ Mật Viện năm 2005 nói với John Allen của tờ Crux rằng họ rất ý thức được thực tế rằng sẽ khó có thể ngăn cản bất kỳ ai có hơn quá bán ủng hộ.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không giải thích trong “Universi Dominici Gregis” lý do tại sao ngài thực hiện thay đổi này. Có lẽ ngài sợ một Cơ Mật Viện dài. Bằng cách cung cấp cho các Hồng Y nơi ở thoải mái hơn, ngài đã giảm yếu tố khó chịu khiến các Cơ Mật Viện dài làm nản lòng. Cho phép các Hồng Y bầu một vị Giáo Hoàng với đa số quá bán làm giảm khả năng Cơ Mật Viện kéo dài trong nhiều tháng.

Năm 2007, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 đã đảo ngược sáng kiến của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và quay trở lại với yêu cầu tuyệt đối là đa số hai phần ba. Đức Bênêđíctô cũng chỉ thị rằng nếu các Hồng Y bị bế tắc sau 33 hoặc 34 cuộc bỏ phiếu (tùy thuộc vào việc có bỏ phiếu vào ngày đầu tiên hay không), sau khi đã mất 13 ngày, thì các cuộc bỏ phiếu vòng hai giữa hai ứng cử viên hàng đầu sẽ được tổ chức. Thủ tục này cũng có vấn đề, bởi vì nếu không ứng cử viên nào có thể nhận được hai phần ba phiếu bầu, thì Cơ Mật Viện sẽ bị bế tắc và không có khả năng chọn ứng cử viên thứ ba làm người thỏa hiệp. Hai Hồng Y hàng đầu không thể bỏ phiếu trong các cuộc bỏ phiếu vòng hai, mặc dù các ngài vẫn ở trong Nhà nguyện Sistina, nơi các Cơ Mật Viện được tổ chức. Các quy tắc mới của Đức Bênêđíctô cũng không nói phải làm gì nếu hai ứng cử viên cứ tiếp tục không nhận đủ 89 phiếu.

5. Đức Hồng Y Gerhard Müller kêu gọi các Hồng Y vượt qua chủ nghĩa bè phái

Đức Hồng Y Gerhard Müller kêu gọi một đường lối sâu sắc hơn, dựa trên đức tin để vượt qua chủ nghĩa bè phái khi các Hồng Y chuẩn bị cho Cơ Mật Viện bầu Đức Giáo Hoàng sắp tới, CNA Deutsch đưa tin.

Đức Hồng Y cảnh báo chống lại bất kỳ “suy nghĩ có tính chất phân loại mọi người thành bạn bè hay thù địch” thành những người “ủng hộ tôi” hoặc “chống lại tôi”. Ngài gọi sự chia rẽ như vậy đặc biệt “có hại cho Giáo hội, vốn theo bản chất là dấu chỉ, là công cụ” của sự hiệp nhất và sự hiệp thông với Thiên Chúa và giữa con người.

Đức Hồng Y Müller, người từng giữ chức Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin từ năm 2012 đến năm 2017, đưa ra góc nhìn sâu sắc về khái niệm “ngoại vi” được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phổ biến.

Cảnh báo về sự tương phản về mặt ý thức hệ giữa “trung tâm và ngoại vi”, ngài nói với EWTN Đức rằng thế giới là một hình cầu mà mỗi người đều đứng cách đều trung tâm của nó — và Bí tích Thánh Thể, dù được cử hành ở Amazon hay Đền Thờ Thánh Phêrô, vẫn là nghi lễ thiêng liêng giống nhau, đoàn kết các tín hữu trên toàn thế giới trong một đức tin chung.

6. Đức Hồng Y Singapore xin cầu nguyện cho Cơ Mật Viện phân định được vị Giáo Hoàng nào mà Giáo Hội cần

Trong một lá thư mục vụ do Tổng giáo phận Singapore công bố, Đức Hồng Y William Goh hay Ngô Thành Tài đã kêu gọi các tín hữu cầu nguyện cho các Hồng Y tham gia bầu người kế vị Thánh Phêrô.

Trước tiên, Đức Cha Goh lưu ý rằng các thành viên của Hồng Y đoàn đang tổ chức các phiên họp chung “để lắng nghe quan điểm và đánh giá” về tình hình hiện tại và “những gì Giáo hội cần làm sau Đức Giáo Hoàng Phanxicô”.

“Do đó, điều cấp thiết và quan trọng là tất cả anh chị em hãy cầu nguyện cho chúng tôi để chúng tôi có thể nhận ra được Đức Giáo Hoàng nào mà Giáo hội cần trong thời đại ngày nay, bởi vì mỗi Đức Giáo Hoàng đều mang theo những đặc sủng riêng của mình”, vị giám mục nhấn mạnh.

Đức Hồng Y đã yêu cầu mọi người cầu nguyện “để chúng ta có thể chọn được ứng viên phù hợp làm người kế vị Thánh Phêrô để lãnh đạo Giáo hội trong thế giới phức tạp này”.

Cụ thể, Đức Hồng Y khuyến khích tổ chức “chuỗi chín ngày, kinh mân côi và lòng sùng kính lòng thương xót Chúa để cầu nguyện sốt sắng, không ngừng nghỉ, để các Hồng Y được Chúa Thánh Thần hướng dẫn bầu ra một Đức Giáo Hoàng tốt lành, thánh thiện, nhân từ, khôn ngoan và mạnh mẽ”.

ngài nói thêm, một Vị Giáo Hoàng, “sẽ không chỉ là người chăn chiên theo thánh ý Chúa Kitô mà còn phải can bảo đảm vệ kho tàng đức tin được truyền lại cho Giáo hội qua nhiều thời đại”.

7. Đức Giáo Hoàng tiếp theo cần một chính sách tốt hơn với Trung Quốc

Nina Shea, nhà hoạt động nhân quyền Hoa Kỳ có bài nhận định nhan đề “The Next Pope Needs a Better China Policy”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng tiếp theo cần một chính sách tốt hơn với Trung Quốc”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy

Cải cách chính sách của Vatican đối với Trung Quốc nên là ưu tiên của Đức Giáo Hoàng tiếp theo. Đường lối hiện tại được định hình bởi thỏa thuận gây tranh cãi năm 2018 của Vatican với Trung Quốc về việc chia sẻ quyền lực với Bắc Kinh trong việc bổ nhiệm các giám mục Công Giáo. Nó làm tổn hại nghiêm trọng đến Giáo Hội Công Giáo ở Trung Quốc và làm xói mòn thẩm quyền tôn giáo và đạo đức của Đức Giáo Hoàng.

Đức Hồng Y Pietro Parolin, nguyên Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, là kiến trúc sư của thỏa thuận với Trung Quốc và là người nhiệt tình nhất. Bắc Kinh đã không che đậy khi ám chỉ rằng ngài là lựa chọn hàng đầu của Trung Quốc cho Vị Giáo Hoàng tiếp theo. Tại một cuộc họp báo vào ngày 22 tháng 4—một ngày sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô qua đời—phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lâm Kiến đã đưa ra viễn cảnh “cải thiện quan hệ Trung Quốc-Vatican” thông qua quan hệ đối tác “tiếp tục”, và không ai trong số các ứng cử viên Giáo Hoàng hàng đầu có nhiều kinh nghiệm làm việc với Trung Quốc hơn Đức Hồng Y Parolin.

Trong một diễn biến có thể gây trở ngại cho mong muốn của Bắc Kinh, tại Thượng Hải và Hà Nam, chính quyền địa phương đã bổ nhiệm Giám Mục trái phép trong thời gian Tòa Thánh trống ngôi Giáo Hoàng cho hai linh mục Ngô Kiến Lâm (Wu Jianlin, 吴建林) và Lý Kiến Lâm (Li Janlin, 李建林). Diễn biến này chắc chắn có ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng các Hồng Y cử tri lựa chọn Đức Hồng Y Pietro Parolin vào ngôi Giáo Hoàng. Tuy nhiên, những ai có kinh nghiệm với các nước cộng sản đều không ngạc nhiên trước cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược giữa trung ương và địa phương. Trái lại, điều đó càng nhấn mạnh đến khó khăn trong việc thực thi các thỏa thuận với Trung Quốc, ngay cả trong trường hợp chính quyền trung ương của nước này thật tình muốn thực hiện các thỏa thuận ấy.

Thỏa thuận này gây nguy hiểm cho các giáo sĩ trung thành ở Trung Quốc. Một lời nhắc nhở rõ ràng về thực tế này đã diễn ra vào tháng trước khi các cơ quan an ninh nhà nước Trung Quốc giam giữ vô thời hạn Đức Cha Thiệu Chúc Mẫn của giáo phận Công Giáo Ôn Châu mà không có thủ tục tố tụng hợp lệ. Đây là lần thứ tám vị giáo sĩ thầm lặng sáu mươi mốt tuổi bị giam giữ trong bảy năm qua.

Ít nhất mười giám mục Công Giáo ở Trung Quốc hiện đang bị giam giữ vô thời hạn hoặc bị hạn chế chức vụ vì phản đối sự kiểm soát của chính phủ đối với Giáo Hội Công Giáo của họ. Vatican âm thầm chấp nhận và che đậy sự đàn áp này và sau thỏa thuận năm 2018, đã rút lại sự ủng hộ của mình đối với Giáo Hội thầm lặng.

Ngoài những giám mục bị gạt ra ngoài lề này, còn có những giám mục đã qua đời trong bảy năm qua và để lại tình trạng trống tòa. Vatican và Trung Quốc chỉ thay thế khoảng một chục vị trong số họ, để lại khoảng ba mươi giáo phận trống tòa. Tuy nhiên, Vatican, giống như Bắc Kinh, khẳng định rằng thỏa thuận đang có hiệu quả và đã gia hạn vào tháng 10 năm ngoái thêm bốn năm nữa.

Trung Quốc ngay lập tức bắt đầu sử dụng thỏa thuận này để gây áp lực buộc các giám mục tham gia Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc, một nhóm do Ban Công tác Mặt trận Thống nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ đạo. Các thành viên được yêu cầu phải đưa ra lời cam kết về “tính độc lập” khỏi Đức Giáo Hoàng. Không có Đức Giáo Hoàng nào công nhận hiệp hội này là hợp pháp.

Đức Hồng Y Parolin đã hợp tác thúc đẩy giáo sĩ Công Giáo vào Hiệp hội Yêu nước. Năm 2019, Vatican đã ban hành các hướng dẫn mục vụ thiết lập tư cách thành viên hiệp hội là chuẩn mực mới cho giáo sĩ Trung Quốc, nhưng cũng cho phép phản đối vì lý do lương tâm. Đồng thời, để cho Trung Quốc đi đầu trong việc bổ nhiệm các giám mục.

Kết quả là, các giáo sĩ thể hiện lòng trung thành chính trị với Chủ tịch Tập Cận Bình được chính phủ Trung Quốc ủng hộ, và những người từ chối từ bỏ liên kết tôn giáo với Đức Giáo Hoàng sẽ bị đàn áp. Giáo phận Thượng Hải là một ví dụ điển hình về điều này. Kể từ thế kỷ XVII, Thượng Hải đã là giáo phận lớn nhất và quan trọng nhất của Trung Quốc. Đó là giáo phận của Hồng Y Ignaxiô Cung Phần Mai, giám mục Công Giáo Trung Quốc đầu tiên trên thế giới, người đã phải chịu đựng ba mươi ba năm tù vì từ chối từ bỏ Đức Giáo Hoàng. Nhờ thỏa thuận với Trung Quốc, giáo phận đáng kính này hiện nằm trong tay Hiệp hội Yêu nước, với sự ban phước của Đức Giáo Hoàng.

Trong mười bốn năm qua, hai giám mục được Vatican chấp thuận của Thượng Hải đã bị đàn áp. Đức Cha Giuse Hình Văn Chi đã biến mất một cách bí ẩn khỏi tầm nhìn của công chúng vào năm 2011 sau khi phục vụ với tư cách là Giám Mục Phụ Tá trong sáu năm với sự chấp thuận của chính phủ. Ngài đã mất lòng tin của đảng sau khi tuyên bố rằng ngài sẽ “trung thành phục vụ” Đức Giáo Hoàng tại lễ tấn phong giám mục của mình và sau khi liên tục phản đối tư cách thành viên Hiệp hội Yêu nước. Năm sau, Đức Cha Tađêô Mã Đạt Thanh được bổ nhiệm làm giám mục Thượng Hải với sự chấp thuận của cả Vatican và Bắc Kinh. Tại Thánh lễ tấn phong, ngài đã công khai rời khỏi Hiệp hội Yêu nước, viện dẫn lời của Thánh Ignaxiô: “Chúng ta phải chọn một cách sẽ phục vụ Chúa với vinh quang lớn hơn”. Ngài đã bị quản thúc tại gia vào ngày hôm đó tại một chủng viện, nơi ngài vẫn bị giam giữ mà không có bất kỳ thủ tục hợp pháp nào. Cả quyền tự do của ngài và của Giám Mục Hình Văn Chi đều không nằm trong thỏa thuận của Vatican.

Vào ngày 4 tháng 4 năm 2023, hội đồng giám mục của Hiệp hội Yêu nước đã đơn phương bổ nhiệm Giám mục Giuse Thẩm Bân, chủ tịch của cái Hội Đồng ấy, lãnh đạo giáo phận Thượng Hải. Đức Giáo Hoàng Phanxicô không được nói gì về vấn đề này, nhưng ngài vẫn chấp thuận việc bổ nhiệm Thẩm Bân ba tháng sau đó. Đức Hồng Y Parolin nhanh chóng ca ngợi Thẩm Bân là một “mục tử đáng kính” và tuyên bố sai lệch rằng sự chấp thuận của Đức Giáo Hoàng là “để sửa chữa sự bất thường về giáo luật” vì “lợi ích lớn hơn của giáo phận”. Ngài cũng hy vọng rằng việc hợp tác với Trung Quốc có thể “ủng hộ một giải pháp công bằng và khôn ngoan” cho các Giám mục Giuse Hình Văn Chi và Tađêô Mã Đạt Thanh. Những hy vọng đó đã bị dập tắt khi vào ngày 28 tháng 4 vừa qua, khi chính quyền ở Thượng Hải đã bỏ qua các ngài để chiếm đoạt chức Giám Mục Phụ Tá, trắng trợn lợi dụng thời gian trống ngôi Giáo Hoàng để một lần nữa vi phạm thỏa thuận và “bầu” một linh mục yêu nước làm giám mục mới và đơn phương bổ nhiệm ông ta làm Giám Mục Phụ Tá của Thẩm Bân. Hà Nam cũng hành động tương tự.

Giám mục Thẩm Bân thể hiện lòng nhiệt thành của đảng, với địa vị mới của mình, hứa hẹn sẽ chuyển đổi mạnh mẽ Giáo Hội Công Giáo Trung Quốc. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 8 năm 2023, ông ta kiên quyết rằng đàn chiên của mình phải từ chối thẩm quyền của Giáo Hoàng, khi nhấn mạnh rằng họ phải “tuân thủ nguyên tắc độc lập và tự chủ trong việc điều hành Giáo hội”. Vài tháng trước, Thẩm Bân đã gặp gỡ các giáo sĩ Hương Cảng trong một cuộc họp mà ông mở đầu bằng cách ca ngợi Đại hội toàn quốc lần thứ XX “được tổ chức thành công” gần đây của Đảng Cộng sản Trung Quốc và nói rằng “tinh thần” của đại hội sẽ hỗ trợ cho mục tiêu “Hán hóa” Giáo hội tại Trung Quốc của Hiệp hội Yêu nước. Ông cũng khẳng định “tư tưởng của Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội mang đặc điểm Trung Quốc cho kỷ nguyên mới”, báo hiệu sự pha trộn đáng lo ngại giữa tín lý Công Giáo và ý thức hệ cộng sản khi Đảng Cộng sản Trung Quốc cố gắng điều chỉnh tôn giáo theo học thuyết của đảng. Thẩm Bân đã gây sốc cho các giáo sĩ Hương Cảng, khi tuyên bố: “Cần phải hợp tác cùng với chính phủ thúc đẩy việc dịch và diễn giải Kinh thánh”.

Thượng Hải không phải là ngoại lệ. Kể từ khi có thỏa thuận, các chức vụ giám mục ở các địa phương khác đã được lấp đầy bởi những kẻ cuồng tín của Đảng Cộng sản Trung Quốc, được Vatican chấp thuận, trong khi các giám mục trung thành bị đàn áp. Ví dụ, theo yêu cầu của Bắc Kinh vào năm 2018, Vatican đã yêu cầu Đức Cha Vinh Sơn Quách Hy Cẩm (Guo Xijin - 郭希錦) của giáo phận Mân Đông từ chức để nhường chỗ cho một giám mục bị vạ tuyệt thông, người sau đó đã được Đức Thánh Cha Phanxicô phục hồi và chấp thuận. Vào tháng Giêng, Đức Cha Quách Hy Cẩm được chụp ảnh lần cuối khi bị nhốt trong khuôn viên nhà thờ giáo xứ.

Vatican từ lâu đã áp dụng chính sách Ostpolitik của mình là không chỉ trích Trung Quốc. Nhưng vào năm 2018, khi Giáo triều bắt đầu thúc đẩy thỏa thuận, họ bắt đầu tích cực ca tụng Bắc Kinh. Năm đó, hiệu trưởng Viện Hàn lâm Khoa học Giáo Hoàng đã gây chú ý khi ngài ca ngợi người Trung Quốc vì “là quốc gia trên thế giới thực hiện tốt nhất học thuyết xã hội của Giáo hội”. Hồng Y Parolin đã nhiều lần thúc đẩy tuyên truyền của Trung Quốc. Tại một cuộc họp báo năm 2020, ngài đã thẳng thừng phủ nhận “cuộc đàn áp” Giáo hội tại Trung Quốc, nói rằng chỉ có “các quy định được áp đặt và liên quan đến tất cả các tôn giáo”.

Đức Hồng Y cũng khẳng định sai rằng “Hán hóa” ám chỉ “một cách không nhầm lẫn” đến “hội nhập văn hóa”, tức là hoạt động truyền giáo tiếp nhận nghệ thuật địa phương và các hoạt động văn hóa được chấp thuận trong lòng sùng đạo Kitô. Tuy nhiên, Hán hóa theo Đảng Cộng sản Trung Quốc đòi hỏi các bài giảng phải tập trung vào những câu nói của Tập Cận Bình và trẻ em phải được “bảo vệ” khỏi việc khai tâm tôn giáo. Kể từ ngày 1 tháng 5, người nước ngoài và người Trung Quốc không được phép cùng nhau tham gia các hoạt động tôn giáo, cùng với các hạn chế khác.

Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân của Hương Cảng đã cáo buộc Hồng Y Parolin “thao túng” Đức Thánh Cha Phanxicô để phê duyệt thỏa thuận bằng cách tuyên bố sai sự thật rằng Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 đã phê duyệt dự thảo. Trong một bài đăng trên blog vào tháng 10 năm 2020, Hồng Y Hương Cảng đã không ngần ngại nói: “Parolin biết ông ta đang nói dối, ông ta biết rằng tôi biết ông ta là kẻ nói dối, ông ta biết rằng tôi sẽ nói với mọi người rằng ông ta là kẻ nói dối.”

Bắc Kinh đã lợi dụng thỏa thuận này, và Giáo Hội Công Giáo đang phải chịu đau khổ vì điều đó. Chúng ta cần một chính sách tốt hơn—một chính sách không chia sẻ quyền lực quan trọng của Đức Giáo Hoàng trong việc bổ nhiệm lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo với một chính phủ vô thần và ủng hộ việc duy trì Giáo hội thông qua một tổ chức ngầm trung thành. Điều đó đã quá hạn từ lâu.

 

http://vietcatholic.net/News/Html/295637.htm

MAY 6, 2025: TUESDAY OF THE THIRD WEEK OF EASTER

 

May 6, 2025

 


Tuesday of the Third Week of Easter

Lectionary: 274

 

Reading I

Acts 7:51—8:1a

Stephen said to the people, the elders, and the scribes:
“You stiff-necked people, uncircumcised in heart and ears,
you always oppose the Holy Spirit;
you are just like your ancestors.
Which of the prophets did your ancestors not persecute?
They put to death those who foretold the coming of the righteous one,
whose betrayers and murderers you have now become.
You received the law as transmitted by angels,
but you did not observe it.”

When they heard this, they were infuriated,
and they ground their teeth at him.
But Stephen, filled with the Holy Spirit,
looked up intently to heaven and saw the glory of God
and Jesus standing at the right hand of God,
and Stephen said, “Behold, I see the heavens opened
and the Son of Man standing at the right hand of God.”
But they cried out in a loud voice,
covered their ears, and rushed upon him together.
They threw him out of the city, and began to stone him.
The witnesses laid down their cloaks
at the feet of a young man named Saul. 
As they were stoning Stephen, he called out,
“Lord Jesus, receive my spirit.”
Then he fell to his knees and cried out in a loud voice,
“Lord, do not hold this sin against them”;
and when he said this, he fell asleep.

Now Saul was consenting to his execution.

 

Responsorial Psalm

Psalm 31:3cd-4, 6 and 7b and 8a, 17 and 21ab

R.    (6a)  Into your hands, O Lord, I commend my spirit.
or:
R.    Alleluia.
Be my rock of refuge,
    a stronghold to give me safety.
You are my rock and my fortress;
    for your name’s sake you will lead and guide me.
R.    Into your hands, O Lord, I commend my spirit.
or:
R.    Alleluia.
Into your hands I commend my spirit;
    you will redeem me, O LORD, O faithful God.
My trust is in the LORD;
    I will rejoice and be glad of your mercy.
R.    Into your hands, O Lord, I commend my spirit.
or:
R.    Alleluia.
Let your face shine upon your servant;
    save me in your kindness.
You hide them in the shelter of your presence
    from the plottings of men.
R.    Into your hands, O Lord, I commend my spirit.
or:
R.    Alleluia.

 

Alleluia

John 6:35ab

R. Alleluia, alleluia.
I am the bread of life, says the Lord;
whoever comes to me will never hunger.
R. Alleluia, alleluia.

 

Gospel

John 6:30-35

The crowd said to Jesus:
“What sign can you do, that we may see and believe in you?
What can you do?
Our ancestors ate manna in the desert, as it is written:

    He gave them bread from heaven to eat.”

So Jesus said to them,
“Amen, amen, I say to you,
it was not Moses who gave the bread from heaven;
my Father gives you the true bread from heaven. 
For the bread of God is that which comes down from heaven
and gives life to the world.”

So they said to Jesus,
“Sir, give us this bread always.” 
Jesus said to them, “I am the bread of life;
whoever comes to me will never hunger,
and whoever believes in me will never thirst.”

 

https://bible.usccb.org/bible/readings/050625.cfm

 


Commentary on Acts 7:51—8:1

Today’s passage continues the story of Stephen, although most of his long discourse to the Sanhedrin on the history of the Jewish people has been omitted in our readings. This reading describes just the climax of the story.

Stephen calls those who have arrested him “uncircumcised in heart and ears”. Although they are physically circumcised, their behaviour is more like the uncircumcised pagans around them. They were resisting the spirit of God, who spoke through Moses and the prophets. Paul will speak later on of the ineffectiveness of bodily circumcision if there is not a corresponding circumcision of the heart. It is not circumcision which makes the Jew, but his commitment to following God’s will. And similarly for us, it is not just the pouring of water at baptism that makes the Christian—to be a Christian means a lot more.

Stephen attacks his judges as doing what their predecessors did to the long line of prophets God sent to his people. Now they have killed Jesus, the greatest prophet of all. It is not Stephen, but they, his judges, who are not keeping the Law. This, not surprisingly, infuriated the council members, but Stephen, filled with the Holy Spirit, now had a vision of God in glory and Jesus standing at his right hand:

Look…I see the heavens opened and the Son of Man standing at the right hand of God!

This was the title that Jesus had used of himself to emphasise his links with Messianic prophecies and, in the New Testament, it is very unusual for anyone but Jesus himself to use this title. The Sanhedrin knew very well that the one he was speaking about was the one they had executed for his own blasphemies. To say that this executed blasphemer was now sharing God’s own glory was beyond the beyond. The religious leaders and trial judges could not stand hearing such ‘obscenities’ and:

…they covered their ears, and with a loud shout all rushed together against him.

At this point, all thought of a proper trial went out the window. Stephen was driven beyond the walls of the city and stoned there and then, just as Jesus, too, was crucified outside the city on Golgotha. It was the right of the hostile witnesses in a case (here, perjured witnesses) to initiate the execution of a sentence.

Almost as an aside, Luke tells us that the witnesses put their clothes at the feet of a young man called Saul, who “approved of their killing him”. It is believed that it must have been this experience which sowed the seeds of Paul’s future Christian faith. As Tertullian wrote:

The blood of martyrs is the seed of the church.

As he saw Stephen dying with such dignity and grace, Paul must have been deeply moved—and disturbed.

Stephen, as he dies, follows the example of his Lord. He surrenders his life into God’s hands:

Lord Jesus, receive my spirit.

Stephen prays also for his executioners and all their supporters:

Lord, do not hold this sin against them.

So many elements in Stephen’s death resonate with the experience of his Master:

  His performing wonderful signs among the people.

  His uncompromising challenges to the authorities on their integrity (or lack of it).

  The inability of his opponents to best him in debate.

  The throwing up of false witnesses to discredit him.

  A trial involving these false witnesses.

  The vision of God in glory totally accepting Jesus.

  The total surrender of his life into God’s hands.

  His forgiveness of his executioners.

All in all, Stephen is the paradigm of the perfect follower of Jesus, and hence a model for our lives. So too, we have here all the ingredients of a true Christian life:

  Total commitment to Jesus as Lord.

  Readiness to speak up for one’s faith in spite of hostility and opposition.

  Readiness to lose one’s physical life and possessions for the sake of the Gospel vision.

  An unconditional love for all, including those who would hurt or destroy us.

  A policy of active non-violence whatever the provocation.

Comments Off

 


Commentary on John 6:30-35

Today’s passage from John continues the discussion of Jesus as the Bread of Life. Again the Jews ask Jesus for a sign, a sign like the manna that their forebears enjoyed in the desert. They quote Scripture at him:

Our ancestors ate the manna in the wilderness, as it is written, ‘He gave them bread from heaven to eat.’
(see Exod 16:4-5; Numbers 11:7-9; Ps 78:24)

As a gift from God, the manna was said to come from the sky (“from the heavens”). Some think it was identified with a natural substance which can still be found in small quantities on the Sinai peninsula. Here it is understood as something preternatural, and Jesus sees in it a forerunner of the Eucharist. Also the manna, thought to have been hidden by Jeremiah, was expected to appear again miraculously at the Passover as a sign of the last days. As described in the New International Version Study Bible:

“A popular Jewish expectation was that when the Messiah came he would renew the sending of manna. The crowd probably reasoned that Jesus had done little compared to Moses. He had fed 5,000; Moses had fed a nation. He did it once; Moses did it for 40 years. He gave ordinary bread; Moses gave ‘bread from heaven.’”

Jesus replies that the manna was not the real bread from God; it was only a sign or symbol. It fed the body but not the spirit:

For the bread of God is that which comes down from heaven and gives life to the world.

They say to him:

Sir, give us this bread always.

Clearly they were speaking in a materialistic sense. It reminds one of the Samaritan woman at the well who asked for the water which would prevent her ever again being thirsty and spare her having to come to the well every day.

Jesus now tells them solemnly:

I am the bread of life.

The “I AM” strongly identifies Jesus with God and this is the first of seven “I AM…” statements that appear in John’s Gospel. The phrase—in Greek, ego eimi—recalls the name of God revealed to Moses in the burning bush (see Exod 3:14). Both the manna and the recent feeding of the 5,000 are action-parables of God (“I AM”) giving himself to his people.

Jesus goes on to clarify the meaning of his statement:

Whoever comes to me will never be hungry, and whoever believes in me will never be thirsty.

To “come to Jesus” is to bond oneself closely to him and all he stands for. And we have seen what “believes in” entails. It implies much, much more than just “receiving Jesus in Communion”.

To eat that Bread of Life, we have to soak ourselves in the life of Jesus, to penetrate deeply into the Word of God that comes to us in the Gospel and the rest of the Scriptures, and to assimilate his Way into our own lives. The Eucharist we celebrate is the sign of that Bread of Life which, in fact, is available all day long to those who are in close contact with Jesus.

Those who live in that close relationship with Jesus are the ones who are truly alive—here and now. Am I one of them? How deep is my faith, my Christianity, my knowledge of and commitment to the Gospel, and my understanding of the place of the Eucharist in our Christian life?

Comments Off

 

https://livingspace.sacredspace.ie/e1033g/

 


Tuesday, May 6, 2025

Easter Time

Opening Prayer

Lord our God, generous Father, you have given us your Son Jesus that we may relive with him and like him, his passion and his resurrection. Through Jesus, give us the courage to place ourselves into your hands in the trials of life and in death, that one day we may see your glory and at your right hand your Son Jesus Christ, who lives with you forever.

Gospel Reading - John 6: 30-35

So they said, “What sign will you yourself do, the sight of which will make us believe in you? What work will you do? Our fathers ate manna in the desert; as scripture says: He gave them bread from heaven to eat.”

Jesus answered them: “In all truth I tell you, it was not Moses who gave you the bread from heaven, it is my Father who gives you the bread from heaven, the true bread; for the bread of God is the bread which comes down from heaven and gives life to the world.”

“Sir,” they said, “give us that bread always.” Jesus answered them: I am the bread of life. No one who comes to me will ever hunger; no one who believes in me will ever thirst.

Reflection

The Discourse of the Bread of Life is not a text to be discussed and dissected, but rather it should be meditated and pondered. This is why, even if it is not fully understood, we should not be concerned. This text of the Bread of Life demands a whole life to meditate on it and deepen it. Such a text, people have to read it, meditate it, pray it, think about it, read it again, repeat it and ponder it, as one does with a good sweet in the mouth. We turn it and turn it in the mouth until it is finished. The one, who reads the Fourth Gospel superficially, may have the impression that John always repeats the same thing. Reading it more attentively, one becomes aware that it is not a question of repetition. The author of the fourth Gospel has his own way of repeating the same theme, but always at a higher and more profound level. It seems to be like a winding staircase. By turning one reaches the same place, but always at a higher level or a more profound one.

      John 6, 30-33: What sign will you yourself do, the sign which will make us believe in you? People had asked: What should we do to carry out the work of God? Jesus responds: “The work of God is to believe in the one who has sent,” that is to believe in Jesus. This is why people formulate the new question:

Which sign do you do so that we can see and can believe? Which work do you do? This means that they did not understand the multiplication of the loaves as a sign from God to legitimize Jesus before the people, as the one sent by God! They continue to argue: In the past our fathers ate the manna which Moses gave them! They called it ―bread from Heaven (Wis 16: 20), that is, ―bread of God. Moses continues to be the great leader in whom to believe. If Jesus wants the people to believe in him, he should work a greater sign than Moses. ―What work do you do?

      Jesus responds that the bread given by Moses was not the true bread from heaven. Coming from on high, yes, but it was not the bread of God, because it did not guarantee life to anyone. All of them died in the desert (Jn 6: 49). The true bread of heaven, the bread of God, is the one which conquers death and gives life! It is the one which descends from Heaven and gives life to the world. It is Jesus himself! Jesus tries to help the people to liberate themselves from the way of thinking of the past. For him, fidelity to the past does not mean to close up oneself in the ancient things and not accept renewal. Fidelity to the past means to accept the novelty which comes as the fruit of the seed which was planted in the past.

      John 6: 34-35: Lord, gives us always of that bread! Jesus answers clearly: “I am the bread of life!” To eat the bread of heaven is the same as to believe in Jesus and accept to follow the road that he teaches us, that is: “My food is to do the will of the one who has sent me and to complete his work!” (Jn 4: 34). This is the true food which nourishes the person, which transforms life and gives new life. This last verse of today’s Gospel (Jn 6: 35) will be taken back as the first verse of tomorrow’s Gospel (Jn 6: 35-40)

Personal Questions

      Hungry for bread, hungry for God. Which of these two predominates in me?

      Jesus says: “I am the bread of life.” He takes away hunger and thirst. Which of these experiences do I have in my life?

Concluding Prayer

Lord turn your ear to me, make haste. Be for me a rock-fastness, a fortified citadel to save me. You are my rock, my rampart; true to your name, lead me and guide me! (Ps 31:1-2)

www.ocarm.org