Trang

Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

21-06-2912 : THỨ NĂM TUẦN XI MÙA THƯỜNG NIÊN


THỨ NĂM TUẦN XI THƯỜNG NIÊN năm II

BÀI ĐỌC I: Hc 48, 1-15 (Hl 1-14)

"Êlia được che khuất trong gió cuốn, và Êlisê được trọn vẹn thần trí của người".

Trích sách Huấn Ca.
Bấy giờ tiên tri Êlia như lửa hồng xuất hiện, lời ông nóng bỏng như ngọn đuốc cháy phừng. Ông đem cho họ một mùa đói khát, và số người ghét ông đã hao đi, vì chúng chẳng giữ được giới răn Chúa. Do lời Chúa phán, ông đóng cửa trời và ba lần khiến lửa trời xuống. Êlia được vinh quang nhờ các việc lạ lùng đã làm, và ai có thể tự hào được vinh quang như người? Bởi lời Chúa là Thiên Chúa, người cứu kẻ chết ra khỏi âm phủ, khỏi quyền sự chết. Người triệt hạ các vua xuống cảnh điêu tàn, bẻ gãy dễ dàng quyền thế của họ, xô kẻ sang trọng rớt khỏi giường nằm. Trên núi Sinai, người đã nghe lời xét xử, và trên núi Horeb, người đã nghe án quyết phục thù. Người xức dầu các vua để báo oán và đặt các tiên tri để nối nghiệp mình. Người đã được cất đi trong bầu lửa, trong xe ngựa kéo đi. Người đã nên dấu chỉ sự đe phạt qua các thời đại, để làm nguôi cơn thịnh nộ Chúa, để giao hoà cha với con, và chấn hưng lại những chi họ Giacóp. Phúc cho những ai đã thấy người, và được hân hạnh thiết nghĩa với người: Vì chúng tôi chỉ được sống trong cuộc sống này, sau giờ chết, danh tiếng của chúng tôi sẽ được như thế. Êlia được che khuất trong gió cuốn, và Êlisê được trọn vẹn thần trí của người. Trong đời người, người không sợ vương tướng, và không quyền lực nào thắng được người, cũng không ai vượt người trong lời nói, và khi người chết rồi, xác người vẫn nói tiên tri. Khi còn sống, người đã làm những phép lạ, và khi đã qua đời, người đã làm những việc kỳ diệu.
 Ðó là lời Chúa.

ÐÁP CA: Tv 96, 1-2. 3-4. 5-6. 7

Ðáp: Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.
2) Một làn lửa đi trước thiên nhan, để đốt những quân đối nghịch chung quanh Chúa. Chớp của Người sáng rực cõi trần, địa cầu xem thấy và run rẩy sợ hãi. - Ðáp.
3) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.
4) Hãy hổ ngươi tất cả những ai phụng thờ hình ảnh, những ai khoe khoang về thần tượng, bao nhiêu chúa tể hãy cúc cung bái lạy Người. - Ðáp. 

ALLELUIA: Tv 144, 13bc

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 6, 7-15
"Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:
"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
"Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".
 Ðó là lời Chúa.
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ NĂM TUẦN XI năm II
Sir 48:1-15; Mt 6:7-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Hãy học biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa.

Đọc lịch sử Cựu Ước, chúng ta có thể rút ra một kiểu sống của dân Do-thái trong mối tương quan của họ với Thiên Chúa như sau: Khi thiếu thốn, cơ cực, họ cầu nguyện với Thiên Chúa để được Ngài thương xót. Sau khi được Thiên Chúa ơn, họ lại quay sang thờ các thần ngoại và làm những điều ghê tởm trước mắt Thiên Chúa. Vì tình thương, Thiên Chúa gởi các ngôn sứ tới để tố tội và kêu gọi họ quay về với Thiên Chúa để được hưởng lòng thương xót. Ai biết ăn năn quay về, Ngài sẽ tha thứ lỗi lầm. Ai ngoan cố, Ngài sẽ để họ sẽ chết trong tội.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật chủ đề con người phải luôn luôn sống tốt lành trong mối tương quan với Thiên Chúa và với nhau. Nếu con người biết làm như thế, Thiên Chúa sẽ cung cấp mọi sự cần thiết và sẽ bảo vệ họ khỏi mọi nguy hiểm trong cuộc đời. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca nhắc lại những việc vĩ đại hai ngôn sứ Elijah và Elishah đã làm khi hai ông vâng lệnh Thiên Chúa kêu gọi dân trở về. Những người nào làm theo lời chỉ dẫn của hai ông đã được Thiên Chúa chúc lành và ban ơn; những người cãi lệnh đã bị Thiên Chúa trừng phạt. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ biết cách cầu nguyện cách đúng đắn: Thay vì lải nhải xin hết ơn này đến ơn kia, họ hãy tập trung trong việc “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Người nào làm theo ý Thiên Chúa sẽ được Ngài chúc lành và ban ơn.

1.1/ Cuộc đời sự nghiệp của ngôn sứ Elijah
Ngôn sứ Elijah bực mình khi thấy vua và con cái Israel bỏ Thiên Chúa, Đấng chúc lành và bảo vệ họ để chạy theo thần Baal, thứ thần chẳng làm được một sự gì cho con người cả.
- Để giúp dân chúng nhận ra những gì Thiên Chúa vẫn đang làm cho họ, ông truyền lệnh đóng cửa trời để mưa và sương không rơi xuống nữa. Dân chúng phải chịu đói khát và nhận ra uy quyền của Thiên Chúa.
- Để giúp con cái Israel nhận ra đâu là Chúa thật, ông truyền gom tất cả các ngôn sứ của Baal, vua quan cũng như dân chúng trên núi Carmen để tổ chức một cuộc thi dâng lễ vật. Các ngôn sứ Baal đã thất bại nặng nề trong khi của lễ của Elijah được Thiên Chúa cho lửa từ trời xuống thiêu rụi.
Vì ông luôn trung thành với Thiên Chúa, Ngài luôn quan tâm đến nhu cầu của ông: Ngài chỉ cho ông khe nước và sai quạ nuôi ông trong khi cả xứ bị hạn hán. Khi ông kêu cầu Ngài chứng tỏ cho dân chúng thấy đâu là Thiên Chúa thật, Ngài đã khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi lễ vật của ông. Nói tóm, Ngài không từ chối ông một điều gì khi ông kêu cầu danh Ngài. Sau cùng, khi đã hoàn tất sứ vụ, Ngài đã không để ông phải chết; nhưng dùng cỗ xe ngựa đỏ để cất giấu ông đi một nơi.
Truyền thống Do-thái tin ngôn sứ Elijah sẽ trở lại trước khi Đấng Thiên Sai tới để ông dọn đường cho Ngài, để ông “làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa trước khi cơn thịnh nộ bùng lên, để đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu, và tái lập các chi tộc Jacob.” Khi các môn đệ hỏi Chúa Giêsu về sự phải đến của ông, Ngài ám chỉ cho các môn đệ biết Gioan Tẩy Giả chính là ngôn sứ Elijah (Mt 11:14; Mk 9:13).

1.2/ Cuộc đời sự nghiệp của ngôn sứ Elishah
Ông dứt khoát theo Chúa khi Elijah quăng áo choàng trên ông bằng cách giết đôi bò làm lễ vật hy sinh và phá cày làm củi thiêu bò. Ý thức được khó khăn trong sứ vụ ngôn sứ, ông đã xin cho được gấp hai thần khí của thầy. Khi ông Elijah được ẩn trong cơn lốc, thì ông Elishah được đầy thần khí của người.
Suốt đời ông Elishah, không thủ lãnh nào có thể làm ông lung lạc, cũng chẳng ai khuất phục được ông. Đối với ông, chẳng có gì là quá sức vì Thiên Chúa luôn ở với ông. Ngay cả khi ông đã qua đời, thân xác ông vẫn còn giữ năng lực của một ngôn sứ. Lúc sinh thời, ông đã làm nhiều dấu lạ, sau khi chết, ông vẫn còn thực hiện những điềm thiêng.

2/ Phúc Âm: Cha anh em trên trời đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.

2.1/ Trước hết và trên hết, hãy lo xin cho những gì thuộc về Chúa được phát triển.

Trong mối tương quan giữa con người, chúng ta không thích những ai lợi dụng lòng tốt của chúng ta để lúc nào cũng xin xỏ. Người Việt Nam chúng ta có câu: “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.” Nếu không ném được hòn chì, ít nhất cũng phải ném lại hòn đất chứ. Ai có thể mặt dày mặt dạn cứ đi ăn của người được.
Trong mối tương quan với Thiên Chúa còn hơn thế. Ngài là Cha và chúng ta là con. Bổn phận của con trước hết là phải làm cho danh Cha cả sáng bằng cách làm cho nhiều người biết đến Thiên Chúa qua những việc lành chúng ta làm. Tiếp đến, chúng ta cầu xin cho Nước Chúa được trị đến bằng cách cầu nguyện cho mỗi ngày càng nhiều người biết đến Cha mình. Sau cùng, chúng ta phải xin cho tất cả mọi tạo vật nhận ra ý Chúa và thi hành; hay ít nhất chính chúng ta phải tìm ra ý Chúa và mau mắn thi hành.

2.2/ Sau đó, hãy lo xin cho biết sống cuộc đời đẹp ý Thiên Chúa.

Sau khi quan tâm đến việc của Cha, mới nên xin Cha nhìn đến các việc của con. Có 4 lời cầu Chúa Giêsu dạy chúng ta nên chú trọng tới và kêu xin. Thứ nhất, chỉ “xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” thôi. Chúng ta đừng dại dột xin cho có dư, vì “no cơm rửng mỡ.” Thứ đến, chúng ta “xin Cha tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con.” Nếu chúng ta có can đảm xin Thiên Chúa tha tội thì cũng phải có can đảm để tha thứ các lầm lỗi của anh chị em mình. Nếu không, “Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.” Tiếp đến, mọi người chúng ta cần ý thức: chúng ta đang phải chiến đấu với ba thù hàng giây hàng phút. Ba thù đây là XÁC THỊT – THẾ GIAN – VÀ MA QUỈ. Kẻ thù nào cũng nặng ký cả. Và nếu không có ơn thánh, chúng ta không thể nào thắng vượt được. Vì vậy, chúng ta hãy thường xuyên đọc kinh Lạy Cha và “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.” Sau cùng, sự dữ vẫn rình chờ chúng ta hằng giây hằng phút trong thế gian như bệnh tật, chiến tranh, thiên tai... , chúng ta cần xin Thiên Chúa “cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ” nếu đẹp ý Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Tiên vàn chúng ta hãy lo sao cho danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa được trị đến, ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Khi đã làm như thế, Thiên Chúa chắc chắn sẽ không từ chối chúng ta một điều gì khi chúng ta kêu xin Ngài.
- Chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình có thể lợi dụng Thiên Chúa để xin ơn, sau đó dùng những quà tặng Ngài ban để làm theo ý chúng ta.
- Đừng đọc kinh Lạy Cha một đàng, nhưng lại nghĩ tưởng một nẻo. Hãy để Thiên Chúa trong sự quan phòng của Ngài lấp đầy những thiếu thốn của chúng ta.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.

Thứ Năm tuần 11 thường niên
Sứ điệp: Lời kinh Chúa dạy dẫn chúng ta đến một chân trời rộng mở. Tất cả đều là con cùng một Cha. Vì thế, ta cần giang rộng vòng tay đón nhận anh em trong tình yêu Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con xin dâng Cha tâm tình cảm tạ tri ân, vì Con Một Cha đã dạy con gọi Chúa là Cha. Ngài cũng dạy con biết cách trò chuyện với Cha trong tâm tình cha con. Lời kinh tuyệt hảo này như cánh cửa mở ra dẫn con bước vào khung trời yêu thương: mọi người là con Cha, là anh em với nhau.
Lạy Cha, lời kinh Chúa Giêsu dạy giúp con khám phá địa vị của người khác. Cho dù người bên cạnh con sống với tâm hồn khép kín, cho dù người bên cạnh con đang cố tình tránh mặt Cha, cho dù người bên cạnh con gây nên bất hòa… thì họ vẫn là con Cha, là anh chị em với con. Cha đã quảng đại đón nhận tất cả mọi người vào gia đình Cha. Xin cũng mở rộng lòng con để con biết đón nhận mọi người. Xin Cha phá tung cánh cửa ích kỷ nơi con để con biết nghĩ đến người khác. Vì từ nghĩa cử cao đẹp con làm cho anh em là con đang được lớn lên trong ân tình của Cha. Và từng ánh mắt cảm thông, từng nụ cười chia sẻ với người khác, là con trở nên thân thiết với họ, làm tình anh em được bền chặt hơn.
Lạy Cha, tình thương của Cha đang thúc bách con yêu thương người khác. Và thực hành yêu thương là điều khẩn cấp, vì đó là điều kiện để con trở thành con Cha và nên anh em bạn hữu thân thiết với mọi người. Xin Cha giúp con. Amen.
Ghi nhớ : "Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này"
.
21/06/12 THỨ NĂM TUẦN 11 TN
Th.
Luy Gondaga, tu sĩ
Mt 6,7-15

LỜI CẦU CHÂN THÀNH ĐƠN SƠ

“Đừng nghĩ cứ nói nhiều là được nhận lời… Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.” (Mt 6,7-8)

Suy niệm: Một điều đáng khích lệ cho việc cầu nguyện trong Kitô giáo, đó là Chúa của ta “đã biết rõ” ta cần gì trước khi ta xin. Nhưng khổ nỗi lắm lúc điều ta xin lại không phù hợp với điều Chúa muốn chúng ta xin. Vì vậy có sự trì trệ, ngã lòng trông cậy của một số người. Nhu cầu của cuộc sống thì quá nhiều, do đó lời cầu của ta cũng đa dạng, hết ơn này đến ơn khác. Còn Chúa thì lại muốn ta đơn sơ, chân thành, xin cái gì là chính đáng nhất, rồi các nhu cầu khác cứ thế sẽ được đáp ứng. Xin đưa ra đây một ví dụ: để gia đình thuận hoà êm ấm ta thường xin giàu có. Đáng lý ra ta nên xin cho gia đình biết gìn giữ ơn Chúa nhờ mọi thành phần biết đọc kinh, cầu nguyện sáng tối, vì có ơn Chúa là có tất cả. Nhiều khi ta “đau đầu” vì những lời xin của mình thì làm sao ta có thể khiến Chúa làm như ta muốn được!

Mời Bạn: Đâu là nhu cầu cấp thiết nhất của cá nhân, của gia đình, của cộng đoàn bạn lúc này mà bạn cần xin Chúa? Những nhu cầu ấy có làm cho “danh Chúa cả sáng” không hay chỉ làm thoả mãn tính hiếu kỳ của ta?

Chia sẻ: Chia sẻ cho nhau một ơn nào mà ta thấy mình “không xin” hay “chưa nghĩ tới” mà vẫn có được; và kiểm tra xem nhờ lời cầu xin nào mà ta có được những ơn huệ nhưng không ấy.

Sống Lời Chúa: Tôi tin rằng tha lỗi cho người khác cũng là điều kiện để được Chúa nhậm lời: “Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,15).

Cầu nguyện: Sốt sắng đọc hay hát kinh “Lạy Cha” trong giờ kinh gia đình.



Lạy Cha chúng con 
Lời Chúa: Mt 6, 7-15
Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này:
Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,
xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
triều đại Cha mau đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày;
xin tha tội cho chúng con
như chúng con cũng tha
cho những người có lỗi với chúng con;
xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.”
Suy nim:
Chúng ta không thể lèo lái hay ép buộc Thiên Chúa
bằng những lải nhải dài dòng hay bằng những câu thần chú.
Cầu nguyện không phải là thông báo cho Chúa biết nhu cầu của ta (c. 8).
Cha Teilhard de Chardin đã viết:
“Chúng ta phải cầu xin Chúa không phải vì lề luật buộc như thế,
cũng không phải vì Chúa không biết ta cần gì.
Không, kinh nguyện là tình yêu, là cách diễn tả tình yêu.”
Thiên Chúa thích nghe miệng chúng ta nói lên nhu cầu của mình.
Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, Abba, như Ngài đã gọi.
Abba là tiếng gọi âu yếm thân thương của đứa con đối với người cha.
Khi gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta thấy mình hết sợ hãi và xa cách.
Cha siêu việt và quyền uy, nhưng Cha không áp bức và bắt con làm nô lệ,
Cha cao sang ở trên trời nhưng Cha lại gần gũi với nhu cầu của con cái.
Ba lời cầu xin đầu tiên đều hướng về Cha: Danh Cha, Nước Cha, và Ý Cha.
Danh Cha được vinh hiển khi Nước Cha được thành tựu, Ý Cha được thể hiện.
Nước Cha đã đến rồi với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu,
nhưng chúng ta vẫn phải cầu xin cho Nước ấy mau đến cách viên mãn.
Ý Cha và quyền tối cao của Cha đã được thể hiện trọn vẹn trên trời rồi,
nhưng còn phải được thể hiện dưới đất nữa, nơi mọi người và nơi từng người.
Ba lời cầu đầu tiên, là những lời trực tiếp nài xin Cha.
Làm cho Danh Cha được biết đến, Nước Cha được nhìn nhận,
Ý Cha được tuân hành: đó là công việc của Cha cho đến tận thế.
Nhưng việc đó cũng cần sự cộng tác hằng ngày của mỗi Kitô hữu
qua việc họ sống tận căn những đòi hỏi gai góc của Nước Trời,
để cho thấy Nước Trời đã đến trên mặt đất.
Bốn lời cầu xin sau nhắm đến nhu cầu cụ thể của các môn đệ.
Xin lương thực hàng ngày là điều cần thiết cho họ,
những người nay đây mai đó, sống nhờ lòng tốt của người nghe.
Xin ơn tha thứ là điều ta cần mỗi ngày từ Chúa, sau bao sai lỗi,
mà cũng là điều ta phải trao lại cho anh em.
Xin Chúa đừng đưa chúng ta vào cơn thử thách quá sức chịu đựng
đến mức mất đức tin và quỵ ngã.
Nhưng xin Chúa gìn giữ và giải thoát chúng ta khỏi Ác Thần.
Kinh Lạy Cha giúp chúng ta trò chuyện với chính Thiên Chúa là Cha.
Chúng ta được mở ra trước thế giới trên trời nơi Cha ngự trị,
những cũng được mở ra trước thế giới dưới đất của con người.
Một thế giới có bao người thiếu bánh ăn, cần được chia sẻ.
Một thế giới có nhiều xung đột và hận thù, cần sự bao dung thứ tha.
Một thế giới hỗn loạn với bao điều phải chấn chỉnh cho hợp Ý Chúa.
Một thế giới không biết mình là anh em, con cùng một Cha.
Kinh Lạy Cha bao giờ cũng nhắc chúng ta về những điều dang dở…
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.

Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ?

Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.

Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.

Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.

Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa.
(Hélder Câmara)

 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này".

Kinh Lạy Cha
Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu nguyện.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì “Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”. Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.
Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Chúng ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hãy cầu nguyện như thế này
Nhắc đến cuộc đời của thánh Gioan M. Vianey, cha sở họ Art. Người ta không thể quên câu chuyện sau đây về một nông dân xứ Art: Mỗi ngày trước khi ra đồng, anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới ra đồng. Khi trở về nhà anh cũng ghé vào nhà thờ để cầu nguyện như vậy. Trong xứ ai cũng nể và kính phục. Một hôm có người hỏi: “Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế?”. Anh nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.
“Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”. Câu trả lời trên của anh nông dân xứ Art diễn tả được tận gốc tủy của việc cầu nguyện. Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con. Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng, vì lúc cầu nguyện con nối liền sự kết hợp với Thiên Chúa. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện. Không cầu nguyện dù có làm phép lạ con cũng đừng tin. Các tông đồ đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện”. Chúa Giêsu đáp: “Khi các con cầu nguyện hãy nói: Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
Chúa đã dạy đọc kinh để giúp chúng con cầu nguyện, nhưng điểm chính là gặp gỡ, là nói chuyện giữa Chúa và con. Khi con cầu nguyện đừng lo phải nói gì, chỉ vào phòng đóng cửa mà cầu nguyện với Cha của con một cách kín đáo, chắc chắn Ngài sẽ nhận lời con. Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử.
Những chia sẻ trên của tác giả “Đường Hy Vọng” hướng dẫn chúng ta hiểu sâu hơn ý nghĩa của đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe. Giờ đây chúng ta hãy chia sẻ với nhau những ý nghĩa sâu xa của lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho các tông đồ. Trong vài phút suy niệm này, chúng ta hãy chú ý đến tinh thần phải có khi cầu nguyện.
Trong đoạn Phúc Âm trên, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ lời kinh Lạy Cha, như những lời dạy nói về tinh thần phải có khi cầu nguyện. Đó là tinh thần tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình, và tinh thần đơn sơ khiêm tốn nhằm gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng: “Khi anh cầu nguyện, thì đừng nhiều lời như những kẻ ngoại giáo, vì họ nghĩ rằng nói nhiều thì được nhiều”. Vì suốt ngày mỏi mệt rao giảng Tin Mừng, nên mỗi khi đêm về quỳ gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, thánh Phanxicô có những lúc quá mệt mỏi phải ngủ gục bên bàn thờ. Lúc ấy ngài thường cầu nguyện với Chúa một cách đơn sơ như sau: “Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa, thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa”.
Cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài. Giờ cầu nguyện là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luận lý. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta không cô độc lẻ loi một mình. Thánh Phaolô tông đồ giãi bày như sau: “Chúng ta không biết phải cầu nguyện như thế nào cho phải, nhưng Chúa Thánh Thần cầu nguyện cho chúng ta với những lời kêu van không thể diễn tả được” (Rm 8,26)
Nhờ bí tích Rửa tội mà ta đã lãnh nhận, mỗi người Kitô hữu sẽ được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô và được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy cố gắng sống trong Chúa Thánh Thần, để phát triển đời sống con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nếu ta không phải là người cầu nguyện thì không ai tin ta làm việc vì Chúa. Nếu muốn biết công việc tông đồ của ai như thế nào, thì hãy xem người đó có cầu nguyện hay không, và cầu nguyện ra sao?
Lạy Chúa, xin hãy thương ban cho chúng con được tràn đầy Chúa Thánh Thần để canh tân chính mình và anh chị em trong môi trường chúng con sống. Amen.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 6

21 THÁNG SÁU

Thiên Chúa Can Thiệp

Vì Ích Lợi Của Chúng Ta

Giáo Hội rao giảng về sự quan phòng của Thiên Chúa, không phải vì đó là sáng kiến của chính Giáo Hội, song bởi vì Thiên Chúa đã quyết định mạc khải chính Ngài. Chính Thiên Chúa là Đấng tự mạc khải chính Ngài và cứu độ dân Ngài, chính Ngài vén mở cho thấy kế hoạch cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị từ đời đời. Trong ánh sáng này, Thánh Kinh là bản trình thuật vĩ đại nhất về sự quan phòng của Thiên Chúa, bởi vì Thánh Kinh cho thấy rằng Thiên Chúa đã sáng tạo nên mọi sự từ đầu và Ngài can thiệp một cách kỳ diệu xuyên qua lịch sử cứu độ. Đây chính là sự quan phòng của Thiên Chúa – sự quan phòng này làm cho chúng ta trở thành những tạo vật mới trong một thế giới đổi mới nhờ tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô.

Thánh Kinh đặc biệt nói về sự quan phòng thần linh trong các chương về sự sáng tạo và nhất là trong những chỗ qui chiếu đặc biệt đến công cuộc cứu độ trong Sách Sáng Thế và các Sách Ngôn Sứ, nhất là Sách Isaia. Thánh Phao-lô cũng có những suy tư sâu sắc về những kế hoạch khôn dò của Thiên Chúa diễn ra trong lịch sử, nhất là trong các Thư Ê-phê-sô và Cô-lô-sê. Trong các Sách khôn ngoan, các tác giả nhắm đến việc tái khám phá các kế hoạch và đường lối của Thiên Chúa. Tông Đồ Gio-an trong Sách Khải Huyền thì cố gắng khám phá lại ý nghĩa của các mục đích cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới.

Xem ra quan điểm Kitô giáo về quan phòng không chỉ là một chương khác của triết lý tôn giáo. Vâng, Thiên Chúa trả lời cho những vấn nạn sừng sững của Gióp (và của mọi người giống như Gióp) với nhãn giới Thánh Kinh về sự trung thành và sự quan phòng của Thiên Chúa đối với con người. Đây là một thần học rõ ràng về sự trợ giúp và sự can thiệp có sức cứu độ của Thiên Chúa khi Dân của Ngài đáp lại Ngài trong đức tin.

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 21-6

Thánh Luy Gônzaga, tu sĩ; Hc 48, 1-14; Mt 6, 7-15.

LỜI SUY NIỆM: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại, họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. (Mt 6,7-8).

        Không có tôn giáo nào mà vị thần được tôn thờ, lại gần giũ với con người; như người Kitô hữu chúng ta. Chúa Giêsu cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Người Cha biết rõ mọi sự về chúng ta; Người Cha biết những gì chúng ta đang cần; những gì làm cho chúng ta trở nên tốt lành trước mặt Ngài, cũng như đối với đồng loại. Cho nên trong cầu nguyện, chúng ta chỉ trình bày ngắn gọn đầy đủ để tỏ lòng tin tưởng vào quyền năng, và tình yêu thương của Ngài; rồi phó thác mọi sự trong tay Ngài. Bởi quá khứ, hiện tại và cả tương lai của chúng ta luôn thuộc về Ngài là điều hạnh phúc cho chúng ta; nên chúng ta chỉ biết tạ ơn và làm vinh danh Ngài bằng cuộc sống của chúng ta.

Mạnh Phương

++++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 21-06:
Thánh LUY GONZAGA
Tu Sĩ (1568 - 1591)
Thánh Luy là con trưởng của Ferrante, bá tước lâu đài Castiglione miền Lombardic. Ông đã nhượng chức tổng chỉ huy cho hiệp sĩ của vua Henry VIII vì thích triều đình Tây Ban Nha hơn, tại Marid, Ferrante gặp Martha Tana đi theo hoàng hậu Isabelle. Ông lập gia đình với Martha năm 1566. Ngày 9 tháng 3 năm 1568, Luy chào đời.
Thân mẫu thánh nhân là người đạo đức. Bà đã dạy cho Luy biết kính sợ và yêu mến Chúa ngay từ hồi còn thơ ấu. Vì vậy, thánh nhân hay được gọi là "thiên thần con". Thân phụ Ngài trái lại đã muốn hứơng dẫn con mình vào nghề binh đao. Hồi lên 4 tuổi, Ngài được dẫn tới Casal để dự cuộc duyệt binh. Thân phụ Ngài cho Ngài mặc như một sĩ quan và vui mừng khi thấy con dẫn đầu đoàn quân, với quân phục vừa tầm cậu. Luy sống ở đây nhiều tháng và có dịp nghe những lời tục tĩu của lính tráng, dầu không hiểu gì.
Một ngày kia,, khi binh sĩ đang ngủ, Luy ăn cắp thuốc nạp vào súng khai hóa và suýt chết vì súng giật. Bá tước định trừng phạt đứa con của mình nhưng nhờ binh sĩ can thiệp, cậu được thả. Tuy nhiên đây là một lỗi lầm mà Luy than khóc suốt đời.
Năm 1577, Luy cùng với em trai là là Rôđôlfo được gởi đi học tại Florence. Tại đây, Luy đã khấn giữ mình trinh khiết trước ảnh Đức Mẹ truyền tin nhà nguyện dòng Tôi Tớ Đức Mẹ. Chẳng bao lâu sau, Ngài trở về Castigliône, và quyết định hiến mình cho Thiên Chúa, Ngài tăng thêm việc đạo đức và coi đó như bổn phận: quỳ đọc kinh nhật tụng Đức Mẹ, các thánh vịnh sám hối và những kinh nguyện khác. Tại Castigilione, Đức Hồng y Carrôlô Borrômeô đã làm cho Luy rước lễ lần đầu. Đức hồng y đã ngạc nhiên trước nhiệt tình và sự khắc khổ của thánh nhân và thốt lên: "Đứa trẻ này có thể làm gương cho chính các tu sĩ".
Bá tước Ferrante được đặt làm quan thị vệ của vua Tây Ban Nha, Luy trở thành thị đồng của hoàng tử, Luy nhiệt tình phục vụ hoàng tử Diogô, nhưng vẫn tìm cách sống tại triều đình như là sống trong tu viện. Nhưng rồi cái chết của Diegô dẫn Luy tới quyết định dứt khoát từ bỏ thế gian để gia nhập dòng Chúa Giêsu. Thân phụ Ngài bất mãn vì quyết định ấy và Luy phải đợi ba năm để được sự ưng thuận của thân phụ. Năm 18 tuổi, Ngài vui vẻ nhượng quyền thừa tự và bước vào đời sống tu trì.
Tại tu viện Luy muốn được hoàn toàn quên lãng. Ngài lo chuyện bếp núc, giúp đỡ người nghèo đeo bị đi ăn xin ngoài phố. Đối với gia đình, Ngài chỉ còn muốn nghĩ tới trong kinh nguyện mà thôi. Sau 2 năm trong dòng, ngày 25 tháng 11 năm 1587, Ngài tuyên khấn và lãnh phép cắt tóc gia nhập hàng giáo sĩ ít lâu sau đó.
Nhưng gia đình bỗng có chuyện tranh chấp sau khi thân phụ Ngài qua đời. Tháng 9 năm 1589, bề trên cho phép Luy về Castiglione để giàn xếp. Luy được tiếp đón như một thiên thần từ trời xuống. Mẹ Ngài không cầm mình nổi, đã quì xuống trước mặt con. Từ khắp ngả người ta nói với nhau : Chúng ta thấy Một Vị Thánh.
Cuộc dàn xếp ổn thỏa, Luy được lãnh giảng thuyết trước khi đi. Ngài đã diễn thuyết một cách kỳ diệu đến nỗi hơn 700 thính giả đã tới tòa cáo giải ngay.
Giã từ cha mẹ, Luy trở lại Milan ngày 22 tháng 3 năm 1590 để tiếp tục lớp thần học và được dời về Rôma ngay năm đó để diễn thuyết trước mặt nhiều giám mục nước Ý. Chính tại đây Ngài qua đời như là nạn nhân của lòng bác ái. Lúc ấy có một bệnh dịch tàn phá Rôma.
Thánh Luy hiến trọn xác hồn phục vụ các bệnh nhân, Ngài làm nhiệm vụ khuân vác giúp đỡ mọi người, có khi vác cả xác chết nữa. Tận tụy làm việc cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1591 thì bị bất tỉnh. Hôm sau tỉnh dậy Ngài chào anh em, rước của ăn đàng rồi từ trần.
(Daminhvn.net)

+++++++++++++++++

21 Tháng Sáu
Nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi

Christophoro Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh".
Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết "Trái đất tròn" trước một nhóm học giả được gọi là Hội Ðồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: "Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi".
Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1948, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.
Trong suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa: lúc vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình với lời chúc tụng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.
Cộng vào đấy mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong tòa cáo giải, chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được nối kết để chung sống đời hôn nhân.
Rồi cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mặt khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người. Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng câu: "Sáng danh Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần".
(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Ngày 21

Thánh Luy de Gônzaga, tu sĩ


Phụng vụ Kitô giáo không tiếp nhận những ai đến để tìm một phương tiện yêu cuộc sống, như một thứ đạo đức. Sự trung tín với Thánh Lễ không nói lên một sự đạo đức tôn kính Thánh Thể, nhưng là tình yêu của Thiên Chúa. Không phải thu gom phụng vụ như phương tiện để "tin vào cuộc sống" mà người ta nắm được cánh cửa tiến vào. Các bí tích không phải là những đề nghị Kitô giáo để yêu cuộc sống, nhưng là những đề nghị của Đức Kitô để tiến đến tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Mọi người, trong mọi ngày, cố gắng để đáp lại tiếng gọi tình yêu. Đến nhà thờ, đầy những lời đối đáp, họ được Đức Kitô đón nhận. Đức Kitô mang đến Thánh lễ câu trả lời của Người cho tiếng gọi tình yêu trong đời sống trần thế. Người ta thấy Người đang hoạt động trong tình yêu cho Thiên Chúa là Cha của Người, Đấng hướng dẫn Người trong một cuộc sống cho ơn ích của chúng ta. Đức Kitô biết được câu trả lời của chúng ta đối với tiếng gọi tình yêu, đó là con người nội tâm và thinh lặng, và Người đã đón nhận họ vào trong Người; Người chia sẻ với chúng ta tình yêu của Thiên Chúa Cha Cuộc dấn thân sống động của chúng ta trong tình yêu của Đức Kitô đối với Cha, sẽ tìm được vị trí yên nghỉ và phần thưởng. Từ đó, không còn phải là phụng vụ , nhưng là dấn thân của chúng ta trong phụng vụ.

Linh mục Jacques Gagey
Thứ Năm 21-6

Thánh Aloysius Gonzaga


(1568-1591)
Thánh Aloysius là một người nổi tiếng thời bấy giờ vì ngài sinh trong một gia đình quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật thánh thiện.
Aloysius là con cả của Hầu Tước Ferrante ở Castiglione nước Ý, phục vụ dưới triều Philip II của Tây Ban Nha. Cha ngài mong cho con mình trở nên một nhà lãnh đạo quân sự tài ba, do đó ngay từ khi bốn tuổi Aloysius đã được tự do tung tăng trong trại lính, làm quen với các vũ khí. Nhưng khi lên bảy, đời sống tâm linh Aloysius thay đổi lạ lùng và hàng ngày cậu đã đọc kinh sách, thánh vịnh và đặc biệt kính mến Ðức Maria. Lúc 13 tuổi, cùng với người em, Aloysius theo cha mẹ lên triều đình và cả hai giữ nhiệm vụ phục dịch cho Don Diego, thái tử người Asturias ở Tây Ban Nha. Càng nhìn thấy sinh hoạt triều đình bao nhiêu, Aloysius càng chán ngán bấy nhiêu và tìm cách khuây khỏa qua hạnh các thánh.
Chính trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của các cha dòng Tên ở Ấn Ðộ, Aloysius đã có ý định đi tu và tập sống kham khổ cũng như tụ tập các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng. Mơ ước đi tu của Aloysius phải trải qua bốn năm tranh đấu với chính người cha của mình cũng như sự dụ dỗ của rất nhiều chức sắc trong triều. Sau cùng, Aloysius đã chinh phục được tất cả và được nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.
Vì nhận thấy sức khỏe yếu kém của Aloysius, các cha giám đốc đã buộc Aloysius phải chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với các đệ tử khác và không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Aloysius được gửi lên Milan đi học, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma.
Vào năm 1587, Aloysius tuyên khấn. Ðược vài năm sau, trận dịch hạch tấn công Rôma. Các tu sĩ dòng Tên mở một bệnh viện của nhà dòng. Chính cha bề trên cũng như nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân. Dù sức khỏe yếu kém, Aloysius cũng tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Sau ba tháng bệnh hoạn, Aloysius đã từ trần ngày 21 tháng Sáu 1591, lúc ấy mới 23 tuổi.
Ðời sống thánh thiện của Aloysius được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau này là thánh) minh xác. Và ngài được Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phong thánh năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.

Lời Bàn

Thánh Aloysius dường như không thích hợp là quan thầy của các người trẻ trong một xã hội mà sự khổ hạnh chỉ tìm thấy trong các đội thể thao hay võ thuật. Có thể nào một xã hội luôn dư thừa và đầy tiện nghi lại tự ý khép mình vào kỷ luật? Ðiều đó chỉ có thể xảy ra nếu nó tìm thấy một lý do, cũng như Thánh Aloysius trước đây. Ðộng lực để Thiên Chúa thanh luyện chúng ta là phải cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa qua sự cầu nguyện.

Lời Trích

"Anh em thân mến, khi cầu nguyện chúng ta phải tỉnh thức và tha thiết với tất cả tâm hồn, sốt sắng cầu nguyện. Hãy gạt bỏ tất cả những ý tưởng trần tục, cũng như đừng để linh hồn chúng ta lo lắng về bất cứ điều gì ngoại trừ đối tượng của sự cầu nguyện là Thiên Chúa" (Về Kinh Lạy Cha, Thánh Cyprian).

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét