Trang

Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2012

09-12-2012 : CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG năm C


Chúa Nhật 2 Mùa Vọng Năm C

Bài Ðọc I: Br 5, 1-9
"Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi".
Trích sách Tiên tri Barúc.
Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi. Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý, và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi. Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian. Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa.
Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây họp lại theo lệnh của Ðấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tử. Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa.
Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Pl 1, 4-6. 8-11
"Anh em hãy ăn ở trong sạch và không đáng trách, cho đến ngày của Ðức Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, luôn luôn trong mọi lời cầu nguyện của tôi, tôi hân hoan khẩn cầu cho tất cả anh em, vì anh em đã thông phần vào việc rao giảng Phúc Âm từ ngày đầu cho tới nay. Tôi tin tưởng rằng Ðấng đã khởi đầu việc lành đó trong anh em, cũng sẽ hoàn tất cho đến ngày của Ðức Giêsu Kitô.
Vì Thiên Chúa làm chứng cho tôi rằng: tôi yêu mến tất cả anh em với tâm tình của Ðức Giêsu Kitô. Ðiều tôi cầu nguyện bây giờ là lòng bác ái của anh em ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, để anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Ðức Kitô, anh em được Ðức Giêsu Kitô ban cho dư đầy hoa quả công chính, hầu tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 3, 4. 6
Alleluia, alleluia! - Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 3, 1-6
"Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ðời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế; có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.
Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Gioan được tuyển chọn làm sứ ngôn của Chúa. Ông kêu gọi người ta trở về con đường ngay thẳng để đón nhận ơn cứu độ.
Với ơn gọi Kitô hữu, chúng ta cũng được trao sứ mệnh rao giảng sự công chính của Thiên Chúa. Xây dựng con đường chân lý hòa bình trong thế giới. Giữa một thế hệ muốn chối bỏ Thiên Chúa. Một thế hệ vong thân và đảo điên trong vô luân mất an bình. Người Kitô hữu đã phải làm gì? Và đã làm được gì? Gioan đã chu toàn nhiệm vụ tiền hô cho Ðấng Cứu Thế. Còn chúng ta, bao giờ sứ mệnh của chúng ta mới hoàn tất?

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, được mang danh là một Kitô hữu, sứ mệnh chúng con cũng thật cao cả và cũng thật nặng nề. Chúng con có thể an tâm được không khi chung quanh chúng con và thậm chí chính trong con người chúng con còn có những tranh chấp, gian tà? Chúng con có thể bình yên được không khi anh chị em chúng con vẫn còn hận thù, ganh ghét?
Lạy Chúa Giêsu, chúng con phải làm gì? Chúng con phải làm gì để xây dựng hòa bình? Chúng con phải làm gì cho nước tình yêu được lan tràn trên mặt đất để anh chị em chúng con sống trong an vui hạnh phúc? Lạy Chúa, chúng con không thể "bình chân như vại" khi sứ mệnh của chúng con chưa hoàn tất. Xin Chúa giúp chúng con. Amen.
 (Vertas Asia)

Chúng Ta Hãy Dọn Ðường
(Barúc 5,1-9; Philip 1,4-6.8-11; Luca 3,1-6)
Suy Niệm:
Chúa nhật 1 mùa vọng đã loan báo ngày Chúa đến. Người sẽ trở lại khi thời gian đã mãn. Người sẽ đến trong vinh quang và lấy vinh quang biến đổi chúng ta nên con cái của sự trường sinh bất tử. Bài đọc sách Barúc hôm nay còn nói đến việc ấy. Nhưng chủ yếu của lời Chúa này là việc dọn đường Chúa đến. Chúng ta sẽ được nghe tiếng nói của Gioan Tẩy Giả. Ông được Phụng vụ mùa Vọng nhắc nhiều, vì ông là tiên tri cuối cùng của Cực Ước, và sứ mạng của ông là hoàn tất việc Cứu Ước chuẩn bị ngày Chúa đến.
Hơn nữa, ông còn là người giới thiệu và trỏ cho mọi người thấy Ðấng Cứu Thế đã đến. Tiếng nói của ông vì thế có khả năng giúp đỡ chúng ta dọn đường Chúa đến và nhận ra Người. Nhưng phải nói như thư Phaolô còn trực tiếp hơn nữa vì nhắm thẳng vào ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Chúng ta xin ơn Chúa soi sáng để biết hiểu và thi hành Lời Chúa hôm nay.

1. Ðây Là Ngày Thiên Chúa làm Nên
Trước hết, chúng ta hãy mở sách Barúc. Ðó là một tác phẩm rất ngắn, chỉ gồm tất cả năm chương. Tác giả tự coi như là "Thư ký" của tiên tri Giêrêmia, nên văn phẩm của ông được tính vào ngay sau phần "Ai ca" của sách Giêrêmia. Tác giả còn giới thiệu bản văn của mình như là một bức thư gửi từ Babylon trong buổi lưu đày về con cái Israen còn ở lại Giêrusalem, để họ thống hối ăn năn, suy nghĩ lại về đường lối ăn ở, hầu nhận được Lời Hứa cứu độ và giải thoát. Bài đọc hôm nay loan báo Tin Mừng cứu độ này.
Nhưng dần dần khoa chú giải Kinh Thánh đã nhận ra sự thật không đơn sơ như thế. Sách Barúc là một tác phẩm của một cây viết vô danh. Nói đúng hơn, đó là văn phẩm hỗn hợp đã do một người đạo đức nào đó ở giữa thế kỷ thứ hai ghép thành. Tác giả đã lấy nhiều bản văn khác nhau để làm nổi bật một lời kinh thú tội thống hối, đọc trong một buổi lễ xá tội nào đó. Tuy nhiên ý tưởng và lời văn ở mọi chương đều đạo đức sâu xa và trình bày rất khôn khéo. Chương thứ năm cũng là chương cuối cùng trong sách Barúc mà chúng ta đọc hôm nay, chứng tỏ điều ấy.
Vậy, muốn hiểu, chúng ta phải đọc đoạn văn tiên tri này trong bối cảnh "giả định" của tác giả. Tức là ở đây chúng ta có những lời Chúa muốn an ủi dân Người khi họ thống hối ăn năn. Người loan báo cho họ về ngày vinh quang sau lưu đày, ngày cứu độ sau đau thương, ngày ân thưởng sau cuộc đời lao nhọc. Ðối với chúng ta, đó là ngày Chúa lại đến.
Ngày ấy, chính Thiên Chúa sẽ làm ra chứ không phải ai khác. Người sẽ lấy vinh quang bất diệt của Người choàng lên Giêrusalem, tức là trên chúng ta và tất cả tạo vật, sự vinh quang ấy cũng là sự công chính thánh thiện mà Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại được cứu độ khiến tên của Giêrusalem mới tức là của nhân loại mới, sẽ là Hòa bình và vinh quang, Hòa bình vì có sự công bằng của Chúa, và vinh quang nhờ có lòng thương xót của Người. Tất cả những điều này nói lên rằng chính Chúa là tác giả của thời đại sau này. Chính Người sẽ làm ra cảnh trời mới, đất mới. Những nét đẹp, nét tốt của thời đại mai sau hoàn toàn là của Chúa. Do đó Nước Trời sẽ đến không bao giờ thay đổi và suy vi nữa, vì tất cả sẽ được bao bọc trong vinh quang thánh thiện đời đời của Thiên Chúa.
Tự nhiên chúng ta muốn hỏi: như vậy, loài người chúng ta không đóng góp gì được vào ngày Chúa đến sao? Chắc chắn có phần nào đó mà chúng ta sẽ nói sau. Nhưng cũng chắc chắn, phần đóng góp của chúng ta sẽ không đáng kể sánh với ơn ban của Chúa. Có thể nói trời với đất xa nhau bao nhiêu thì phần trao ban của Chúa còn vượt xa phần lãnh nhận của chúng ta bấy nhiêu và hơn nữa. Chúng ta hãy cứ nói như Barúc: ngày vinh quang sau này của chúng ta khi Chúa Kitô hiện đến hoàn toàn là công trình của Chúa. Người đem vinh quang thánh thiện đến biến đổi chúng ta và tất cả nên thành trì "hòa bình của công bình và vinh quang của thương xót".
Thành trì ấy được đứng lên mỏm cao để thấy con cái khắp nơi, nhân loại khắp xứ tuôn về. Khi xưa, tội lỗi đã làm chúng phiêu bạt ra đi tiều tụy, bây giờ Thiên Chúa công chính thánh thiện đưa tất cả về vinh quang như trên một ngai vua.
Không những thế, Thiên Chúa còn cho bạt núi, lấp sông để đường đi của con cái Chúa được vững chắc trong vinh quang. Ðang khi ấy cỏ cây bên đường sẽ rợp bóng, tỏa hương và ánh sáng quang vinh phổ... xuống... Ðoàn người trở về với Chúa, đi về nhà Cha, tuôn về gặp Chúa thật là ngoạn mục và sung sướng...
Chúng ta có thể bảo đây là những lời thơ. Nhưng cũng là những lời ấp úng trước một cảnh tượng chưa thể nào tưởng tượng được. Trong ngày ấy, Chúa sẽ thánh hóa dân Người, sẽ quy tụ dân Người lại, sẽ làm cho cảnh vật thiên nhiên được chia sẻ sự vui mừng tự do của con cái Thiên Chúa. Bằng ấy ý tưởng đúc nên bài sách Barúc hôm nay. Những ý tưởng ấy nằm trong nhiều trang Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước. Ðó là nội dung Lời Hứa ngàn đời của Chúa về thời đại người viếng thăm, về ngày Chúa trở lại với Dân Người.
Và Lời Hứa của Người bền vững trung kiên. Ðã bao lần Chúa thi hành trong lịch sử Do Thái. Nhưng đó mới chỉ là những lần tập dượt cho ngày Ðức Giêsu Kitô Giáng Sinh làm người. Và Hội Thánh từ ngày được Ngài sáng lập không mang nhiều màu sắc của Giêrusalem trong bài sách Barúc đó sao? Nhưng Giêrusalem đích thực mà sách này muốn loan báo là Giêrusalem thiên quốc, là Hội Thánh sau này trên Trời, là Dân Chúa trong vinh quang của Ngày Chúa đến. Chúng ta đang vọng ngày đó, đang chờ Chúa Kitô trở lại. Chúng ta sung sướng hân hoan nghĩ về Ngày Chúa sẽ làm ra, không phải để mơ mộng, nhưng để cầu xin Chúa ban cho mình được tham dự ngày vinh quang ấy và nhất là để chuẩn bị. Và muốn làm công việc này, chúng ta hãy nghe Lời Tin Mừng trong sách Luca.

2. Chúng Ta Hãy Dọn Ðường

Tác giả khai mạc cuộc đời hoạt động của Gioan Tẩy Giả một cách rất long trọng. Ðã đành ông muốn viết sử có đầu có đuôi và một cách khoa học. Ông phải đặt các biến cố vào lịch sử có các niên hiệu chắc chắn. Nhưng vì sao khi kể việc Ðức Giêsu ra giảng đạo, ông không viết một cách long trọng như vậy? Thực ra trong những chương đầu tiên của tác phẩm Tin Mừng mang tên ông, tác giả Luca thuật những chuyện về Gioan chen lẫn với những chuyện về Ðức Giêsu. Ông viết về Gioan để làm nổi bật Ðức Giêsu thế nên không phải vì Gioan mà ông viết bản văn long trọng chúng ta đọc hôm nay. Bản văn này có ý giới thiệu Ðức Giêsu. Nó là tiền đề đưa vào những câu chuyện về Ðức Giêsu, giống như Gioan chỉ là tiền hô của Ngài.
Vậy chính vì Ðức Giêsu mà chúng ta có bản văn long trọng hôm nay. Tác giả Luca muốn cho chúng ta thấy cuộc đời hoạt động của Ngài đã được khai mạc cách trọng thể nhờ việc Gioan bắt đầu rao giảng phép rửa thống hối. Luca đặt việc này vào khung cảnh Lịch sử đạo đời để chúng ta có sẵn khung cảnh lịch sử này mà hiểu biết về các hoạt động của Ðức Giêsu, vì khi Gioan bắt đầu rao giảng, thì Ðức Giêsu cũng đã sẵn sàng xuất hiện.
Bấy giờ là năm thứ 15 triều hoàng đế Tibêrô cai trị Ðế quốc La Mã, rộng lớn như cả thế giới. Ở đất Do thái, về đời có Philatô trấn nhiệm xứ Giuđê và Hêrôđê làm quận vương xứ Galilê. Về đạo có thượng tế Hanna và Caipha. Chúng ta có thể thắc mắc vì sao lại có hai thương tế, điều chẳng bao giờ thấy trong lịch sử Dân Chúa. Nói đúng ra, bấy giờ là thời thượng tế Caipha; nhưng thực quyền lại nằm trong tay nhạc phụ là Hanna. Ông này cũng là Thượng tế. Ông đã từ chức nhượng lại cho con rể, nhưng thực tế vẫn nắm quyền, ít ra về vấn đề ảnh hưởng. Do đó, không phải vô lý mà tác giả Luca đã viết: Bấy giờ là thời thượng tế Hanna và Caipha. Ông đã viết sự thật và là sự thật đau đớn!
Cũng như ông đã hữu ý khi nói đến những nhà cầm quyền đời lúc bấy giờ. Ông kể tên Philatô và Hêrôđê cai trị hai vùng đất của Dân Chúa; và ông cũng nói đến Philíp và Lysania, trấn nhiệm hai phần đất kề cận mà dân cư lại là kẻ ngoại. Phải chăng tác giả Luca đã không muốn nói rằng: môi trường hoạt động của Chúa Giêsu sẽ là cả Dân Chúa và cả Dân ngoại? Người sẽ mang ơn cứu độ đến cho mọi người chẳng kỳ là Do Thái hay Hy Lạp.
Vậy sau khi đã kể hai tọa độ không gian và thời gian, tác giả bắt đầu viết sử. Người ta thấy Gioan nhận được lời Chúa. Kiểu nói này làm chứng ông lãnh được sứ mạng tiên tri từ trời cao. Ông không làm việc tự ý. Khi ông đang ở trong sa mạc thì được gọi; tức là sứ mạng đã được trao cho ông đang lúc ông sống cho Chúa và tận hiến đời mình cho Người.
Tác giả Luca nói rằng ông đến giảng ở miền sông Giođan, trong khi Ðức Giêsu sẽ không hoạt động ở đây. Phải chăng Luca không muốn phân biệt hoạt động của hai Ðấng, khi viết như vậy? Ý muốn phân biệt thật rõ khi tác giả nói: phép Rửa của Gioan chỉ để được tha thứ tội khiên, chứ chưa tha thứ tức thời đâu. Ðó là công việc chuẩn bị, dọn đường theo lời sách Isaia: tiếng của Người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi.
Những lời này có khác với những lời mà Barúc đã công bố không? Nhà tiên tri ngày xưa nói rằng: chính Chúa san phẳng đường lối cho dân được cứu độ. Còn ở đây, dường như đó lại là việc của chúng ta. Sự thật, lời sách Isaia không phải chỉ có bấy nhiêu. Luca đã có lý để tiếp tục trích dẫn. Bốn câu nữa đã được thêm vào hai câu trên. Và những câu này cho thấy việc lấp đầy hạ thấp để đường đi được phẳng lỳ sẽ là công trình của Chúa; nhưng Người đã làm gì khi người ta có thái độ thống hối ăn năn. Chính Chúa đã làm ra đường lối cứu độ, nhưng con người phải tỏ thiện chí muốn lãnh nhận. Và đường lối phẳng lỳ mà Chúa làm ra đòi lấp đầy hạ thấp tức là Chúa vẫn nâng cao những người phận nhỏ và hạ xuống những phường tự cao tự đại. Ðề tài này luôn được Luca yêu thích. Có lẽ chính nó đã khiến Luca trích hết lời sách Isaia, đang khi Mátthêu và Marcô đã dừng lại ở hai câu đầu.
Nhưng điều quan trọng hơn cả mà Luca muốn nhấn mạnh để kết thúc đoạn văn hôm nay, là việc mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Không những ông nhấn mạnh tư tưởng "mọi người" tức là tính cách phổ cập của ơn Ðức Giêsu dành cho hết thảy chúng ta; Nhưng ông cũng muốn nhắc đó là công trình của Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta. Và như vậy Luca cũng như Barúc muốn nói với chúng ta hãy trông đợi ngày Chúa đến như là ơn cao cả. Người sẽ làm cho những ai có thái độ thống hối ăn năn và khiêm nhường khó nghèo. Tác giả Tân Ước chỉ khác nhà tiên tri Cựu Ước ở chỗ trỏ cho chúng ta thấy Ngày ấy đã đến trong lịch sử rõ rệt, nơi Ðức Giêsu Kitô. Nhưng ngay trong đoạn văn này, Luca còn mượn lời của Gioan để bảo chúng ta phải chờ đợi nữa, vì tuy Ðức Giêsu đã đến, nhưng chưa phải mọi người đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta còn phải vọng đến ngày ấy nữa. Và chúng ta phải nghe lời thư Phaolô để dọn đường cho Chúa.

3 Và Tiếp Tục Cho Ðến Hoàn Thành
Trong đoạn thư này, Phaolô nói rằng luôn luôn Người cầu nguyện cho giá dân Philíp một cách vui sướng.
Chúng ta hãy chú trọng đến sự hân hoan toát ra từ những lời thư này. Phaolô không có gì phải lo cho giáo dân Philip cả. Từ ngày nhận được Tin Mừng đến nay, họ vẫn tốt, không những họ đã thông phần vào việc rao giảng Tin Mừng khi họ đón nhận ơn Chúa kêu gọi; mà họ còn phấn đấu sống Tin Mưng ấy và giúp đỡ Phaolô cũng như các giảng viên Tin Mừng. Nghĩ đến họ, Phaolô như rộn lòng trìu mến lên. Giống như Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô luôn rộn lòng yêu mến cứu chuộc chúng ta.
Vậy Phaolô luôn cầu nguyện cho giáo dân Philip, không phải vì họ đang gặp những khó khăn nào, mà chỉ vì Người vui sướng thấy giáo đoàn đó tốt lành, cần được cầu nguyện để "một công trình thiện hảo như vậy sẽ tiếp tục cho đến hoàn thành trong ngày của Ðức Giêsu Kitô". Tức là dù nếp sống đạo đã tốt lành đến đâu, cũng vẫn còn phải tiến bộ để được kiện toàn trong Ngày Chúa trở lại. Chính vì vậy mà Phaolô phải cầu nguyện cho giáo dân Philip được lòng mến dẫy tràn nhiều hơn mãi mãi về trí tri và thông hiểu để biết biện phân ra điều ưu hảo mà ăn ở cho vô phương trách cứ, hầu dư đầy hoa quả công chính nhờ Ðức Giêsu Kitô.
Những lời súc tích này rõ ràng có tính cách khuyên nhủ và dạy dỗ, Ðó là cả một chương trình sống đạo phải đi đôi với việc cầu nguyện cho mình được ơn cứu độ trong ngày Chúa đến. Ðành rằng đời sống mai sau là việc Chúa làm mà chúng ta phải cầu xin để Người ban cho chúng ta. Nhưng Người đã khởi sự ban khi cho chúng ta được đón nhận Tin Mừng. Bây giờ hằng ngày cho đến khi Chúa trở lại chúng ta phải cầu nguyện để luôn được thêm lòng mến, lòng tin, để biết ăn ở một cách ưu hảo hầu sau này sẽ vô phương trách cứ và dư đầy hoa quả thánh thiện. Chúng ta không thể làm được những việc ấy nếu không khiêm nhường và cố gắng.
Thánh lễ này là nơi để chúng ta khiêm nhường đón nhận ơn Chúa. Chúng ta phải thấy mình còn tội lỗi và yếu ớt. Chính Mình Máu Thánh Chúa sẽ vừa tẩy sạch tâm hồn và củng cố sự sống. Nhờ Chúa Giêsu Kitô chúng ta có thể bước đi trên đường, tuy nhiều gồ ghề nhưng có thể vẫn cảm thấy phẳng lì khi chúng ta nhiều lòng mến trông đợi ngày Chúa đến.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 2 Mùa Vọng, Năm C
Bài đọc: Bar 5:1-9; Phi 1:4-6, 8-11; Lk 3:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: 
Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời con người.

Tình thương và uy quyền của Thiên Chúa vẫn ấp ủ và bảo vệ con người; nhưng để cảm nhận được, con người cần có con mắt đức tin và trái tim đầy tình yêu. Nhiều người nghĩ họ có thể đi tìm vinh quang cho cuộc đời mà không cần biết đến Thiên Chúa; nhưng thực tế đã chứng minh đó chỉ là vinh quang nhất thời, giả tạo, và không mang lại niềm vui cũng như bình an đích thực cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật tầm quan trọng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống con người và sự cần thiết phải sửa dọn tâm hồn để có thể lãnh nhận Ngài. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Baruch nhận ra sự khờ dại của toàn thể con cái Israel khi họ từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại bang và vinh quang giả tạo của trần thế. Hậu quả là mất nước, Đền Thánh bị phá hủy, và vua quan cũng như dân chúng phải chịu lưu đày cực khổ. Tiên-tri cũng nhận ra tình thương và uy quyền của Thiên Chúa: nếu toàn dân chịu xám hối và ăn năn trở lại, Thiên Chúa sẽ hủy bỏ tang phục mà họ đang mặc trên mình. Ngài sẽ mặc cho họ áo choàng công chính, đội triều thiên vinh quang, và chiếu dọi ánh vinh quang vĩnh cửu của Ngài trên họ. Trong Bài Đọc II, Phaolô, sau khi đã có kinh nghiệm về hạnh phúc của một người được Thiên Chúa hoàn toàn chiếm hữu, đã chia sẻ niềm vui và cầu nguyện cho các tín hữu cũng sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc như ông; nhưng họ phải hoàn toàn đặt trọn niềm tin yêu nơi Đức Giêsu Kitô và cố gắng sống tinh tuyền thánh thiện trong khi chờ đợi ngày Ngài đến. Trong Phúc Âm, Gioan Tiền Hô được Thiên Chúa trao sứ vụ dọn đường cho Đấng Thiên Sai tới bằng việc kêu gọi con người sửa dọn tâm hồn và thay đổi cuộc sống. Khi Đấng Thiên Sai xuất hiện, chỉ những người đã chuẩn bị tâm hồn sẽ được "nhìn thấy" ơn cứu độ của Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi.
1.1/ Thiên Chúa là Đấng giải thoát con cái Israel: Tác giả của Sách tiên-tri Baruch được nhiều học giả cho là thư ký của tiên-tri Jeremiah. Sách này có thể được viết trong Thời Lưu Đày hay sau đó, khi tác giả có cơ hội suy nghĩ nhiều về tình thương của Thiên Chúa dành cho con cái Israel, dù họ đã bất trung phản bội Ngài.
(1) Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương: Tác giả nhìn lại lịch sử Israel và cảm nhận được uy quyền của Thiên Chúa. Ngài điều khiển các thế lực chính trị để sửa phạt và bắt con cái Israel đi lưu đày trước khi cho họ trở về. Mục đích của việc sửa phạt là để mở mắt cho họ nhìn thấy tình thương và uy quyền của Ngài dành cho họ. Sách Baruch có nhiều tư tưởng tương tự với Sách tiên-tri Jeremiah, một trong những điều tương tự là tác giả ví Jerusalem như một người vợ mất chồng là Thiên Chúa, và mất con cái là tất cả dân chúng bị lưu đày. Sự khổ nhục này bị các Dân Ngoại chê trách làm cho niềm đau càng quặn thắt hơn.
Trình thuật hôm nay nói về việc Thiên Chúa sẽ đổi ngược số phận hoàn toàn của bà mẹ Jerusalem trong ngày Ngài ra tay cứu độ. Ngài sẽ cho toàn thể địa cầu nhìn thấy vinh quang của Jerusalem: "Hỡi Jerusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa, và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng. Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi."
Hai bài học quí giá Ngài dạy cho con cái Israel: Thứ nhất, "vinh quang phát xuất từ lòng kính sợ Thiên Chúa." Tất cả các vinh quang ngoài Thiên Chúa chỉ tạm thời và gây ra mọi nỗi ô nhục cho họ. Thứ hai, "bình an xây dựng trên công chính." Nếu họ không tuân hành những Lề Luật Thiên Chúa dạy và đối xử công bằng với mọi người, chiến tranh sẽ lan tràn và nhân loại không bao giờ được bình an.
(2) Con cái Israel được trở về vinh quang từ nơi lưu đày: Có hai áp dụng cho lời tiên tri này. Thứ nhất, là cuộc hồi hương của con cái Israel vào năm 538 BC theo chiếu chỉ của hoàng-đế Ba-tư là Cyrus. Cuộc trở về này tuy vui mừng, nhưng không vinh quang huy hoàng như trình thuật diễn tả hôm nay: "Xưa chúng bị quân thù áp giải, phải rời ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi, chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng." Thứ hai, tác giả có lẽ muốn nói tới vinh quang của Israel trong ngày Đấng Thiên Sai ngự đến.

1.2/ Israel phải chuẩn bị để đón Đấng Thiên Sai: Để những điều này xảy ra, con cái Israel phải chuẩn bị tâm hồn, ăn năn xám hối về những lỗi lầm họ đã xúc phạm tới Thiên Chúa, và đặt trọn vẹn niềm tin yêu nơi Ngài. Tác giả viết: "Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Israel tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa."
Khi Đức Chúa lãnh đạo dân Người trở về, Israel sẽ được thịnh vượng và bình an: "Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm sẽ toả bóng che rợp Israel, vì Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người."

2/ Bài đọc II: Thiên Chúa hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi con người.

2.1/ Thiên Chúa khởi sự mọi điều nơi con người: Lá thư gởi cho các tín hữu Philip được viết từ nơi lao tù. Đây là cộng đoàn có thể nói rất được yêu mến bởi thánh Phaolô. Hai điều ngài muốn chia sẻ với họ: Thứ nhất, Thiên Chúa là Đấng bắt đầu hành trình đức tin nơi con người, khi Ngài ban cho con người hiểu được những gì thánh Phaolô rao giảng về Đức Kitô để họ tin vào Ngài. Không những thế Ngài còn nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của các tín hữu để họ có thể trung thành cho đến hơi thở cuối cùng. Thánh Phaolô xác tín với họ điều này: "Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Giêsu Kitô quang lâm." Nói cách khác, từ khởi sự cho đến hoàn thành niềm tin của con người đều do bởi ơn thánh của Thiên Chúa. Thứ hai, Thiên Chúa cho con người tham gia vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Theo kinh ngiệm của Phaolô, sứ vụ rao giảng Tin Mừng không phải là một bổn phận; nhưng là một ân huệ Thiên Chúa ban cho các tín hữu được cộng tác với Ngài trong việc làm cho Nước Chúa trị đến.

2.2/ Đời sống công chính là hiệu quả ơn thánh của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người: Thánh Phaolô cầu xin 2 điều cho các tín hữu Philipphê:
(1) Thiên Chúa ban lòng mến: Tình yêu của Đức Kitô là động lực thúc đẩy thánh Phaolô và các tín hữu làm mọi sự, ngài nói: "Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Giêsu Kitô. Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, cùng với kiến thức và tất cả mọi thấu hiểu."
Lòng mến là điều kiện tiên quyết thúc đẩy việc học hỏi: khi yêu ai hay thích điều gì, con người sẽ tìm mọi cơ hội để tìm hiểu, để biết về điều đó hay người đó hơn. Nếu không có sự thúc đẩy của tình yêu, con người sẽ không bận tâm để tìm hiểu. Càng tìm hiểu bao nhiêu, con người càng có kiến thức nhiều. Khi các tín hữu càng yêu mến Đức Kitô, họ sẽ ra sức tìm hiểu để biết Ngài, và càng hiểu về Đức Kitô bao nhiêu, họ càng thấu hiểu những gì liên quan tới Ngài. Điều này sẽ giúp cho con người nhận ra những sai lầm giả trá của thế gian.
(2) Các tín hữu sống thánh thiện: Đức tin không bao giờ ở mức độ thuần tri thức, nhưng thúc đẩy con người tới chỗ hành động. Lại một lần nữa, thánh Phaolô chứng tỏ ơn cứu độ đến với con người không chỉ bởi niềm tin, nhưng còn tùy thuộc vào việc làm để chứng tỏ niềm tin của các tín hữu. Hai điều các tín hữu phải làm trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm là phải giữ mình sạch tội, và phải cố gắng để càng ngày càng trở nên tinh tuyền thánh thiện hơn. Chỉ như thế, các tín hữu mới có thể "đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa."

3/ Phúc Âm: Tất cả phải chuẩn bị đường cho Đức Kitô đến.
3.1/ Tình hình chính trị và tôn giáo trong thời Đức Kitô nhập thể: Phần đầu của trình thuật hôm nay, thánh Luca muốn nhấn mạnh đến tính cách lịch sử của biến cố Đức Kitô Nhập Thể trong hậu trường của thế giới:
- Tình hình thế giới: Toàn vùng Cận Đông thời đó đều nằm dưới sự cai trị của đế quốc Rôma, năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tiberius.
- Tình hình nước Palestine: Khi Herode Cả chết, ông chia vương quốc thành 3 miền cho 3 con của ông cai trị: Herode Antipas làm tiểu vương miền Galilee, người em là Philíp làm tiểu vương miền Ituraea và Trachonitis, Herode Archelaus điều khiển miền Judah, cùng với Pontius Pilate làm tổng trấn miền Judah.
- Tình hình tôn giáo: Hannah là thượng tế về hưu, nhưng có thế lực rất mạnh. Caiaphas, con rể của Hannah là thượng tế đương quyền; nhưng bị lệ thuộc rất nhiều vào Hannah.
Sống dưới sự đô hộ của đế quốc Rôma, trong thời kỳ đất nước bị chia ba, lại thêm bè phái trong hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo; con dân Israel mong đợi Đấng Thiên Sai tới để giải phóng họ khỏi những thế lực này.

3.2/ Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả: Trong thời kỳ khó khăn như vậy, Thiên Chúa vẫn nhớ tới con người, Ngài sai Gioan Tẩy Giả tới để mang Tin Mừng cho con người, như trong trình thuật hôm nay: "Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Zachariah là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Jordan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội."
Bổn phận của Gioan Tẩy Giả được sai tới là để chuẩn bị tâm hồn cho mọi người đón nhận Thiên Chúa. Sứ vụ của ông đã được loan báo trước trong sách ngôn sứ Isaiah: "Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng."
Không phải ai cũng có khả năng đón nhận món quà vô giá Thiên Chúa gởi đến là Người Con Một của Ngài. Để có thể nhận ra và đón nhận Ngài, con người phải chuẩn bị tâm hồn cùng với ơn thánh của Thiên Chúa. Điều Gioan khuyên dân chúng đây không phải là những chuẩn bị bề ngoài, mà là tâm hồn bên trong. Con người phải loại trừ những kiêu căng, ích kỷ, mọi thứ tham lam... trước khi họ có thể nhận ra ơn cứu độ của Thiên Chúa."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự cho con người. Để được vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trong cuộc đời, chúng ta cần phải biết kính sợ và tin tưởng hoàn toàn nơi Ngài.
- Để có thể đón nhận Thiên Chúa, con người cần biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng: tránh xa tội lỗi, luyện tập nhân đức để càng ngày càng trở nên tinh tuyền thánh thiện.
- Ơn cứu độ không chỉ dành cho một dân tộc hay một số người; nhưng mở rộng đến cho mọi dân tộc và mọi người. Chúng ta được mời gọi để cộng tác với Thiên Chúa trong việc mang ơn cứu độ đến cho mọi người.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Chúa Nhật 2 Mùa Vọng, năm C
Suy niệm: Gioan được tuyển chọn làm sứ ngôn của Chúa. Ông kêu gọi người ta trở về con đường ngay thẳng để đón nhận ơn cứu độ.
Với ơn gọi Kitô hữu, chúng ta cũng được trao sứ mệnh rao giảng sự công chính của Thiên Chúa. Xây dựng con đường chân lý hòa bình trong thế giới. Giữa một thế hệ muốn chối bỏ Thiên Chúa. Một thế hệ vong thân và đảo điên trong vô luân mất an bình. Người Kitô hữu đã phải làm gì? Và đã làm được gì? Gioan đã chu toàn nhiệm vụ tiền hô cho Ðấng Cứu Thế. Còn chúng ta, bao giờ sứ mệnh của chúng ta mới hoàn tất?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, được mang danh là một Kitô hữu, sứ mệnh chúng con cũng thật cao cả và cũng thật nặng nề. Chúng con có thể an tâm được không khi chung quanh chúng con và thậm chí chính trong con người chúng con còn có những tranh chấp, gian tà? Chúng con có thể bình yên được không khi anh chị em chúng con vẫn còn hận thù, ganh ghét?
Lạy Chúa Giêsu, chúng con phải làm gì? Chúng con phải làm gì để xây dựng hòa bình? Chúng con phải làm gì cho nước tình yêu được lan tràn trên mặt đất để anh chị em chúng con sống trong an vui hạnh phúc? Lạy Chúa, chúng con không thể "bình chân như vại" khi sứ mệnh của chúng con chưa hoàn tất. Xin Chúa giúp chúng con. Amen.
Ghi nhớ :"Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
www.phatdiem.org

09/12/12 CHÚA NHẬT TUẦN 2 MV – C
Lc 3,1-6

ĐỂ THẤY ƠN CỨU ĐỘ
"Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa."(Lc 3,5-6)
Suy niệm: Người nhà nông, khi làm vườn, thường phát quang, nghĩa là chặt bớt những tán cây lớn nhằm cho mảnh đất trồng trọt có thể tiếp xúc đầy đủ với ánh nắng mặt trời. Mặc dù mặt trời luôn chiếu sáng, nhưng để tiếp nhận ánh quang, cần phải dẹp đi những gì gây cản trở. Cũng vậy, ơn cứu độ, Thiên Chúa đã sắm sẵn cho nhân loại, nhưng để “nhìn thấy”, người ta cần phải “phát quang” – nói theo Phúc Âm, đó là lấp những hố sâu, bạt những núi cao, uốn cho ngay những khúc quanh co… Việc “phát quang” cũng chẳng đơn giản, vì nó đòi người ta cắt tỉa chính mình. Như Dakêu, sau khi ông đứng lên tuyên bố mình sẽ cho người nghèo phân nửa tài sản, và đền bù gấp bốn cho những người bị ông làm thiệt hại, sau hành động hào phóng ấy, Chúa Giêsu bảo: “Hôm nay nhà này có ơn cứu độ” (x. Lc 19,1-10).

Mời Bạn: Những gì đang cản trở khiến bạn không “nhìn thấy ơn cứu độ? Kiêu căng? Tham lam? Đam mê lạc thú? Bạn xin ơn Chúa giúp nhận diện những cản trở rồi can đảm để “phát quang” chúng.

Sống Lời Chúa: Dành thời gian duyệt xét toàn bộ đời sống của bạn để nhận diện những nết xấu của mình và quyết tâm sửa bỏ ít là một tật xấu chủ yếu trong Mùa Vọng này.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đem ơn cứu độ đến cho người thế, cụ Simêôn đã mãn nguyện khi nhìn thấy ơn cứu độ; xin cho con biết say mê điều Chúa mang đến, để tích cực tìm kiếm và can đảm dẹp đi những cản trở, hầu nhìn thấy ơn cứu độ Chúa ban.
www.5phutloichua.net

Có lời Thiên Chúa phán
 Sám hối là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người cùng dọn các con đường thành đại lộ. Ðiều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau đớn.

Suy nim:
Mỗi lần mùa Vọng đến, ta lại gặp Gioan.
Một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường.
Hoang địa là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống.
Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành,
trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình,
nhưng ông đã kiên nhẫn chờ đợi nhiều năm tháng,
cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông.
Lời của Ngài đưa ông ra khỏi hoang địa
để đến với mọi vùng ven sông Giođan mà gặp con người.
Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố.
Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.
Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông
sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ.
Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời:
một hoàng đế Tibêriô, hai thượng tế Khanna và Caipha,
một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng trấn vùng Giuđê,
một Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này.
Gioan đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy.
Lịch sử dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ.
Gioan biết mình là Tiền Hô cho Ðấng Cứu Thế,
và ông cố làm tròn sứ mạng của mình trước lịch sử.
Gioan mời dân chúng sám hối.
Không thể tiếp tục sống như xưa nữa.
Ðã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ.
Ông kêu gọi cả nước hãy sửa sang đường sá,
để đón lấy Vua Mêsia, đấng ông không dám cởi dây giày.
Ðường quan trọng là đường vào cõi lòng.
Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc.
Có những lũng sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu.
Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn.
Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người.
Phải sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay.
Phải san cho phẳng, bạt cho thấp...
Sám hối là dọn con đường của lòng mình
và mời mọi người cùng dọn các con đường thành đại lộ.
Ðiều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau đớn.
Vấn đề không phải chỉ là đi xưng tội qua loa,
nhưng là dẹp bỏ những chướng ngại trong tâm hồn,
để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.
Gioan đã là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu.
Chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối.
Làm ngôn sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình:
đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu chẳng trừ ai.
Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống.
Ơn cứu độ đã đến từ hai mươi thế kỷ nay,
nhưng vẫn thiếu những con đường phẳng phiu, ngay thẳng,
để Thiên Chúa có thể đến gặp con người.
Xin Thánh Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới
trên những nẻo đường quen thuộc của nhân loại.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Ðấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con;
xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
 Hãy Dọn Ðường Chúa
Thomas Newton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng trong làng văn thế giới dạo thập niên 1960. Chàng theo Anh Giáo, nhưng sống như người vô thần. Một ngày nọ, khi tình cờ đi ngang qua một nhà thờ Công giáo, chàng được ơn Chúa thúc đẩy ghé vào nhà thờ trong chốc lát. Từ trước tới nay, Thomas Newton cũng có đôi lần đi nhà thờ, nhưng vì tò mò và vui chung, vui bạn nhiều hơn là vì lòng tin. Mặc dù chàng cũng đã được cha mẹ cho Rửa Tội từ ngày còn bé.
Sau này, khi Thomas Newton đã theo đạo Công giáo và gia nhập dòng Sitô khổ tu, Thomas Newton đã kể lại biến cố ấy như sau:
Khi bước vào trong nhà thờ, điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi, đó là tôi trông thấy một cô gái duyên dáng tuổi chừng 15-16 đang quì cầu nguyện một cách vô cùng sốt sắng, không hề để ý đến chuyện gì xảy ra xung quanh, kể cả việc tôi bước vào nhà thờ. Tôi rất đỗi ngạc nhiên trước sự kiện một thiếu nữ từng ấy tuổi lại quì cầu nguyện trong ngôi thánh đường vắng lặng này một cách hết sức tự nhiên và say đắm trong lời cầu như thể bị mất hút trong tâm hồn.
Dĩ nhiên cô gái nọ vào nhà thờ không phải là để cho người ta ngắm nghía, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Và nàng đã cầu nguyện chăm chú sốt sắng như các thánh trong một ngôi thánh đường trống rỗng.
Cuộc gặp gỡ và đối thoại thân tình ấy của thiếu nữ nọ với Thiên Chúa trong khung cảnh hoàn toàn vắng lặng của ngôi thánh đường hôm đó là một trong các nhân tố dẫn đưa Thomas Newton đến chỗ gặp gỡ Chúa và theo đạo Công giáo sau này. Ngôi thánh đường Công giáo vắng lặng nọ đã là một mãnh đất sa mạc nơi con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa giữa lòng xã hội loài người nhiều bôn chôn giao động này.
Qua bài đọc Chúa Nhật II Mùa Vọng hôm nay, Mẹ Giáo Hội cũng kêu gọi chúng ta hãy biết tạo ra sa mạc trong tâm lòng mình, và đi vào để gặp gỡ Thiên Chúa (Br 5,1-9) là một số lời sấm ngôn liên quan đến ơn cứu độ. Theo truyền thống Kinh Thánh, Baruc đã là bạn, kiêm thư ký của ngôn sứ Giêrêmia. Nhưng thật ra sách Baruc là một tổng hợp của các văn bản thần học góp nhặt đó đây, và được soạn chung lại bằng tiếng Hy-lạp vào thế kỷ II (trước tây lịch).
Sách Baruc được truyền thống Công giáo công nhận là có linh ứng và được xếp vào các tác phẩm có linh ứng. Ngôn sứ Baruc muốn khẳng định với dân Do thái rằng: "Cuộc sống và niềm hạnh phúc là những điều còn có thể hiện thực được sau những năm tháng họ đã phải sống trong đắng cay, tủi nhục tăm tối của kiếp sống lưu đày".
Ðể diễn tả sứ điệp hy vọng và tin tưởng ấy, ngôn sứ dùng một số hình ảnh biểu tượng như chiếc áo, tên gọi và các kỳ công vĩ đại Thiên Chúa làm. Trong Kinh Thánh, chiếc áo ám chỉ phẩm giá của con người, khi giới thiệu thành thánh Jérusalem là biểu tượng của toàn dân Chúa trong chiếc áo mới rực rỡ của mừng vui, chứ không phải chiếc áo tang sô của buồn sầu, như ngôn sứ Baruc cố ý loan báo cho dân Do thái biết việc Thiên Chúa sẽ trao ban trở lại cho họ phẩm giá là dân riêng Ngài chọn, và chấm dứt cách sống khổ nhục họ phải chịu trong thời lưu đầy. Chiếc áo tang sô của sầu thương diễn tả thời gian và khung cảnh sống lưu đầy và khổ nhục. Hình ảnh chiếc áo mới mừng vui trên đây hé mở cho chúng ta thấy ý nghĩa việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử nhân loại khi cho Ðức Kitô Nhập Thể làm người.
Chúa Giêsu Kitô mặc lấy chiếc áo yếu hèn của thân phận con người, mặc lấy chiếc áo rách nát tả tơi, hôi thối của tội lỗi từng làm biến dạng con người, khiến cho nó không còn giống Thiên Chúa nữa. Vì đã đánh mất đi phẩm giá của con người là được làm con Thiên Chúa và là thụ tạo tuyệt diệu nhất trong mọi loài thụ tạo. Chúa Giêsu mặc lấy nó để đánh đổi cho loài người chiếc áo mới, chiếc áo mừng vui lại được làm con Thiên Chúa và giống hình ảnh Ngài. Với phẩm giá mới ấy, thành thánh Jérusalem đại diện cho dân Chúa cũng mang một tên gọi mới.
Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh thì việc đặt tên cho một người hay cho một vật, có nghĩa là tuyên bố người đó hay vật đó quyền sở hữu của mình. Nó cũng có nghĩa là người đó hay vật đó được che chở, yêu thương và săn sóc. Jérusalem từ nay sẽ được Thiên Chúa đặt tên cho là "Hòa Bình của công chính và vinh quang của lòng thương xót". Dân riêng của Thiên Chúa từ nay sẽ là một dân tộc diễn tả sự an bình công chính, nhân từ, lòng thương xót và vinh quang mà Thiên Chúa thực hiện thiên quốc thiên linh của Ngài. Vương quốc mà Thiên Chúa cống hiến cho nhân loại ngay từ bây giờ trên trần gian này bằng biến cố Ðấng Thiên Sai Nhập Thể làm người.
Trong tên gọi mới này cũng tiềm ẩn tên gọi Jérusalem mà Thiên Chúa sẽ dành riêng cho Ðấng Cứu Thế. Giêsu trong tiếng Do thái có nghĩa là Ðấng Cứu thế, ơn cứu rỗi. Công trình cứu độ và giải phóng ấy được Thiên Chúa ra tay thực hiện và trao ban cho dân Ngài với sự cộng tác của mọi loài mọi vật, y như trong biến cố Xuất Hành khỏi Ai cập thời xa xưa. Thiên Chúa sẽ ra tay gạt bỏ tất cả mọi chướng ngại, khó khăn trên đường vào sa mạc, để dẫn đưa dân Ngài về miền đất hứa thẳng băng không còn gồ ghề, sa mạc khô cằn nóng cháy sẽ nở hoa sinh tươi râm mát. Ngày đi đày tủi nhục đau buồn bao nhiêu, thì ngày hồi hương cứu độ tươi vui và vinh quang rạng rỡ bấy nhiêu. Tin vui cứu độ ấy cũng được Thiên Chúa tỏ lộ cho thánh Gioan Tẩy Giả trong sa mạc, và thánh nhân rong ruổi khắp các nẻo đường vùng sông Jordan để lớn tiếng rao truyền phép rửa thống hối tha tội.
Trong chương II Phúc Âm của thánh sử Luca ghi lại các biến cố cứu độ ấy trong khung cảnh lịch sử của thế giới về chính trị và tôn giáo thời bấy giờ. Ơn gọi và hoạt động loan báo Tin Mừng của thánh Gioan Tẩy Giả xảy ra vào năm thứ XV dưới thời hoàng đế lên ngôi năm thứ XIV và quan toàn quyền Judéa lúc đó là Pontio Philatô. Quan Philatô bắt đầu nhiệm vụ của mình tại Palestina từ năm 26-36 (sau tây lịch).
Ðất Palestina hồi ấy cũng gồm ba châu quận, do ba quận Chúa cai trị là Hérôđê Antipa, Philipphê và Alexandria. Hai thượng tế trị vì thời này là thượng tế Anna quản nhiệm năm 14-16 (sau tây lịch). Nhưng ảnh hưởng của ông vẫn tiếp tục, sau đó ông trối cho người con rể là thượng tế Caipha trị vì năm 18-36 (sau tây lịch).
Tuy nhiên, điểm thánh sử Luca nêu bật ở đây không phải là các biến cố lịch sử, chính trị và xã hội, mà là ý nghĩa thần học của lịch sử. Thánh Luca muốn khẳng định rằng: "Chính Lời của Thiên Chúa tạo ra lịch sử". Tất cả mọi biến cố, mọi nhân vật, mọi thời đại cách tiếp nối các quyền bính và giới lãnh đạo của trần gian. Trong đó Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người để cống hiến ơn cứu độ cho nhân loại. Lời thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng diễn tả trước sứ điệp được Ðức Giêsu Kitô loan báo sau này. Muốn được ơn cứu rỗi, con người phải lãnh nhận bí tích thanh tẩy thống hối, phải hoán cải tâm hồn, thay đổi lối sống, canh cải tư tưởng và cung cách hành xử của mình. Bởi vì Ðấng Thiên Sai đã hiện diện giữa lòng trần gian.
Sa mạc nơi thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa thống hối là một điểm thần học nổi bật khác của truyền thống Kinh Thánh. Trong Kinh Thánh, sa mạc là nơi con người chịu thử thách, nhưng cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa. Sa mạc khô cằn nóng cháy ban ngày và giá lạnh ban đêm là hình ảnh cuộc sống con người không có bóng dáng và sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của đá cát, con người đói khát và lạc hướng, nhưng chính tình trạng đó giúp con người ý thức được cái bé bỏng, hư không, vô nghĩa của đời mình. Bởi vì nó chỉ là gì? Nếu không phải là cát bụi hư vô. Nhận thức ấy khiến cho con người từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng, ngạo mạn của mình, coi mình là thần thánh và có thể tự giải thoát lấy mình. Thái độ và tâm tình ấy khiến cho con người rộng mở tâm hồn mình để cho hành động và ơn thánh Chúa hoạt động và hướng dẫn. Ðường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con người đến gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ của Ngài. Trong cuộc sống thiêng liêng, càng năng biết vào sa mạc, chúng ta càng được sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa sâu đậm hơn.
Sông Jordan cũng là hình ảnh thần học nổi bật khác trong trình thuật Phúc Âm thánh Luca; Jordan là con sông của hai thời giao ước. Nó là chứng tích của các biến cố lịch sử tràn đầy ý nghĩa của dân tộc Do thái. Nước sông Jordan là nước thanh tẩy của cuộc sống phục sinh và của bí tích rửa tội.
Hình ảnh nổi bật sau cùng trong trình thuật Phúc Âm thánh Luca là hình ảnh thánh Gioan Tẩy Giả, vị nguyên sứ của hai thời giao ước. Người đã nhận được Lời Chúa trong sa mạc, thánh nhân loan báo rằng: "Chính Ngôi Lời Thiên Chúa là động lực hướng dẫn dòng lịch sử nhân loại, chứ không phải con người là các chương trình do loài người đưa ra". Do đó, càng biết san bằng các chướng ngại ngăn cách, chúng ta càng nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta càng dễ nhận ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu trong đời ta và giữa lòng thế giới.
Trong chương I thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta một con đường, một cách thế giúp chuẩn bị hữu hiệu cho ngày Chúa trở lại. Ðó là luôn kiên trì sống tình yêu thương bác ái, biết vun trồng lòng tin, cậy, mến và khả năng bén nhạy để giúp nhận ra đâu là thánh ý Chúa và điều đẹp lòng Ngài. Sống được như thế là tín hữu sinh hoa trái thiêng liêng phong phú và thực hiện được bổn phận làm con cái Chúa, làm thành phần dân riêng mới của Ngài.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hàng Ngày’ của Radio Veritas Asia)

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
9 THÁNG MƯỜI HAI
Linh Hồn Tôi Nhảy Mừng Trong Chúa
Nỗi chờ mong của Đức Nữ Trinh, Đấng “được sủng ái giữa các người phụ nữ” (Lc 1,42), đúc kết tất cả niềm hy vọng mà Dân Thiên Chúa đã đặt vào các lời hứa được trao cho các tổ phụ. Và xuyên qua dân Israel, niềm hy vọng của toàn thể nhân loại được kết đọng lại trong nỗi chờ mong vĩ đại này.
Chúng ta cũng hãy trân trọng thái độ chờ mong trong đức tin của Đức Maria, một đức tin cắm rễ sâu trong lịch sử dân tộc và trong niềm hy vọng của toàn thể loài người. Chúng ta hãy nắm vững ý nghĩa của nó khi chúng ta hành trình qua các thế kỷ. Đó là một con đường được thiết lập vững chắc trên niềm hy vọng cứu độ đến từ chỉ một mình Thiên Chúa.
Đức Maria được chúc phúc bởi vì Mẹ tin vào sự hoàn thành những lời Chúa nói cùng Mẹ (Lc 1,45). Mẹ biết rằng Thiên Chúa sẽ không bỏ lời hứa của Người. Mẹ ‘vui mừng’ và đồng thời Mẹ ‘được chúc phúc’ bởi Thiên Chúa. Hai tình trạng hiện hữu ấy không thể tách rời – vì cái trước là hệ quả của cái sau.
Lời chúc phúc, được Thiên Chúa nói lên, luôn luôn là nguồn sự sống và do đó cũng là nguồn đem lại niềm vui. Trong toàn bộ Thánh Kinh, niềm vui đến xuyên qua việc trao ban và thông truyền sự sống, cả thể lý lẫn thiêng liêng. Hễ ai được Thiên Chúa ‘chúc phúc’ bằng sự sống của Ngài, thì người ấy cũng ‘mừng vui’.
Đức Maria vui mừng chờ mong món quà sự sống. Nhưng chính sự sống ấy cứu độ Mẹ và làm cho Mẹ mừng vui. Vì sự sống ấy là chính Con Thiên Chúa.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Nhật II Mùa Vọng;

Br 5, 1-9; Pl 1, 4-6.8-11; Lc 3,1-6.
LỜI SUY NIỆM: “Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối, để được ơn tha tội” (Lc 3,2b-3).
          Hôm nay chúng ta cũng được như Gioan Tẩy Giả là được  Chúa Giêsu phán: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa trông đợi niềm hạnh phúc. Muốn được đạt điều này. Trước tiên chúng ta phải sống với niềm tin và hy vọng như tiên tri Simêon, “ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, trong âm thầm và cầu nguyện. Ông vững tin điều linh báo của Thánh Thần là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. Ông đã mong chờ từng ngày, và cuối cùng chính tay ông đã được bồng ẵm Đấng Cứu Thế. Với cách sống âm thầm và cầu nguyện của chúng ta, với ơn Chúa Thánh Thần sẽ giúp cho nhiều người sống chúng quanh chúng ta sẽ nhận biết Chúa và cùng chung hưởng niềm vui hạnh phúc như chúng ta.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
09 Tháng Mười Hai
Thế Nào Là Cầu Nguyện?

Một chàng thanh niên nọ khao khát sống đời tận hiến và cầu nguyện, đến nỗi anh đã xa lánh tất cả mọi người và mọi sự, để đến gõ cửa một đan viện nọ... Anh được vị tu viện trưởng chấp nhận tức khắc.
Trong những ngày đầu, anh quan sát cách sống của các tu sĩ: Sau những giờ cầu nguyện lâu dài, tất cả mọi người đều bắt tay vào công việc: người thì cày cuốc, người thì gặt hái, người thì miệt mài trong công tác dịch thuật. Thấy thế, chàng thanh niên đâm ra thất vọng. Anh đến trình bày ý nghĩ của mình với đan viện phụ như sau: "Thưa cha bề trên, con cứ tưởng ở đây chúng ta chỉ có một sinh hoạt duy nhất đó là cầu nguyện. Ðằng này, con lại thấy các thầy phải vất vả lo cho những nhu cầu vật chất quá nhiều". Vị tu viện trưởng mỉm cười gật đầu và nói với anh: "Có lẽ con có lý... Nếu con cảm thấy việc làm tay chân không cần thiết, thì con cứ vào phòng đóng cửa lại và tiếp tục cầu nguyện".
Nghe thế, chàng thanh niên hớn hở trở về phòng đóng cửa lại và cầu nguyện. Chỉ sau vài giờ cầu nguyện, anh cảm thấy mệt mỏi, bụng anh cũng cảm thấy cồn cào vì đã đến giờ ăn trưa. Nhưng chờ mãi mà vẫn không thấy ai đến gọi anh vào nhà cơm, người thanh niên mới đến hỏi vị đan viện phụ: "Thưa bề trên, hình như hôm nay các thầy không dùng bữa?". Cha bề trên mỉm cười đáp: "Các thầy đã ăn cả rồi". "Thế sao không ai đến gọi con đi ăn cả?", người thanh niên hỏi. Cha bề trên mới trả lời: "Sáng nay con đã chẳng đến nói với cha là chúng ta chỉ có một sinh hoạt duy nhất là cầu nguyện đó sao? Cha nghĩ rằng các thầy khác lao động nhiều cho nên cần phải có ăn uống, ngủ nghỉ. Còn con, con muốn sống như các thiên thần, nghĩa là không làm việc, không ăn uống mà chỉ biết suốt ngày cầu nguyện, cho nên cha đã dặn các thầy là đừng đến gọi con dùng bữa".
Nghe thế, người thanh niên chợt hiểu được thế nào là sống tận hiến, thế nào là cầu nguyện. Con người không chỉ cầu nguyện bằng nhữg giây phút ưu biệt dành cho Chúa, mà còn bằng cả những sinh hoạt từng ngày như làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ, giải trí... Cầu nguyện chính là tìm thấy Thánh ý Chúa và Nước Ngài trong cuộc sống mỗi ngày.
Mùa Vọng là mùa thức tỉnh.
Chúng ta cảm thấy được thôi thúc để dành nhiều thì giờ cho việc cầu nguyện hơn. Thánh Kinh nói: Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, ngày thứ 7, Ngài nghỉ ngơi: đó cũng là hình ảnh của đời người. Cuộc sống là một chuỗi làm việc xen lẫn với nghỉ ngơi. Có một thì giờ cho tất cả mọi sự, có một thì giờ để ngủ nghỉ... Có những giây phút ưu biệt trong ngày dành cho việc cầu nguyện, có những thời gian ưu biệt trong năm dành cho việc cầu nguyện. Thời gian ưu biệt ấy không có mục đích nào khác hơn là để giúp cho con người được tỉnh thức hơn, được sẵn sàng hơn, được tươi mát hơn để gặp gỡ Chúa trong từng phút giây của cuộc sống, trong mọi sinh hoạt hằng ngày.
Cuộc sống cần có tổ chức, cần có những ngăn kéo, nhưng những ngăn kéo ấy phải được thông thương với nhau. Ngăn kéo của sự cầu nguyện phải được liên kết với ngăn kéo của những sinh hoạt hằng ngày. Ngăn kéo của những sinh hoạt hằng ngày phải được nối liền với ngăn kéo của sự cầu nguyện.
Tổ chức cuộc sống như thế tức là biến tất cả cuộc sống thành một lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện triền miên ấy có những phách mạnh dành cho những giây phút thân mật chuyện vãn với Chúa, nhưng những phách mạnh ấy chỉ được làm nổi bật nhờ những âm thầm gặp gỡ Ngài trong từng sinh hoạt, trong từng biến cố của cuộc sống.
(Lẽ Sống)

Lectio: Chúa Nht II Mùa Vng (C)

Chúa Nht, 9 Tháng 12, 2012
Lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả
Dọn đường cho Chúa đến
Lc 3:1-6

1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo sự thinh lặng trong chúng con để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Văn bản Tin Mừng của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng nói với chúng ta về Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ, sống trong hoang địa dọn đường cho Chúa.  Trong nhiều thế kỷ, người ta đã sống trong kỳ vọng về sự giáng thế của Đấng Mêssia, và ách đô hộ của người La Mã ngày càng nặng nề hơn bao giờ đã làm gia tăng ước muốn sự hiện đến của Đấng Giải Thoát, Đấng Cứu Độ.  Sự hiện diện của Gioan trong hoang địa là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa một lần nữa đến thăm dân Người.  Sự cứu chuộc đã đến trong tầm tay!
Luca cẩn thận đặt việc xuất hiện của Gioan Tẩy Giả trong bối cảnh chính trị-xã hội và tôn giáo thời bấy giờ.  Về mặt chính trị-xã hội, Philatô là quan tổng trấn xứ Giuđêa, Hêrôđê là thủ hiến xứ Galilêa, Anna và Caipha là các thượng tế.  Sau đó, bằng cách dùng một văn bản Kinh Thánh, Luca đặt Gioan trong bối cảnh tôn giáo của kế hoạch Thiên Chúa và nói rằng ông đến để chuẩn bị cho việc thực hiện niềm hy vọng xuống thế làm người của Đấng Thiên Sai.
  
b)  Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 3:1-2:  Đặt việc làm của Gioan trong thời gian và không gian
Lc 3:3:  Tóm tắt các hoạt động chính trị của Gioan
Lc 3:4:  Ánh sáng Kinh Thánh làm sáng tỏ các hoạt động của Gioan

c) Tin Mừng:

1 Đời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philípphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế; có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.
Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng:
"Có tiếng kêu trong hoang địa:
Hãy dọn đường Chúa,
hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng,
hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi;
con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng,
con đường gồ ghề hãy san cho bằng.
Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý:

Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.

a)  Điều gì trong bài Tin Mừng này đã làm bạn hài lòng nhất hoặc đánh động bạn nhất?  Tại sao?
b)  Gioan xuất hiện ở đâu và khi nào?  Ý nghĩa của việc xác định thời gian và không gian này là gì?         
c)  Các tài liệu tham khảo Kinh Thánh về sự hiểu biết những hoạt động của Gioan có ý nghĩa gì?  
d)  Hoang địa, đường, lối, thung lũng, núi, đồi, đường quanh co, đường gồ ghề:  để hiểu rõ hơn về các hoạt động của Chúa Giêsu, những hình ảnh này có ý nghĩa gì?” 
e)  Sứ điệp của bài Tin Mừng này đối với chúng ta ngày nay là gì?

5.  Chìa khóa dẫn đến bài đọc

Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề.


a)  Bối cảnh về xưa và nay  

*  Luca đặt các hoạt động của Gioan Tẩy Giả vào năm thứ mười lăm đời hoàng đế Tibêriô, đế quốc La Mã.  Tibêriô ở ngôi hoàng đế từ năm 14 đến năm 37 sau Công Nguyên.  Vào năm 63 trước Công Nguyên, hoàng đế La Mã đã đem quân xâm chiếm vùng Paléstine và áp đặt một chế độ nô lệ hà khắc đối với người dân.  Các cuộc nổi dậy của dân chúng liên tục theo nhau tiếp nối, đặc biệt trong miền Galilêa, nhưng đã bị trấn áp dã man bởi binh lính La Mã.  Từ năm thứ tư trước Công Nguyên đến năm 6 sau Công Nguyên, trong thời gian đó Áckhêlao làm thủ hiến, bạo loạn đã xảy ra trong miền Giuđêa.  Vì việc này đã buộc thánh Giuse và đức Maria trở về Nagiarét trong xứ Galilêa mà không về làng Bétlêhem xứ Giuđêa (Mt 2:22).  Vào năm thứ 6 sau Công Nguyên, thủ hiến Áckhêlao đã bị truất phế và xứ Giuđêa trở thành một tỉnh thuộc địa của La Mã mà quan tổng trấn được chỉ định trực tiếp bởi Hoàng Đế Rôma. Philatô là một trong các vị quan tổng trấn này.  Ông ta cai trị từ năm 25 đến năm 36.  Điều thay đổi này trong chế độ chính trị đã mang lại thời kỳ khá yên ổn, nhưng thỉnh thoảng cũng có những vụ nổi dậy, điển hình là tên phiến loạn Baraba (Mc 15:7) và cuộc đàn áp trực tiếp bởi người La Mã (Lc 13:1), đã là những nhắc nhở về mức độ vô cùng nghiêm trọng của tình hình.  Bất cứ một va chạm nhỏ nào cũng đủ để tạo ra ngọn lửa của cuộc nổi dậy!  Yên ổn chỉ là một thỏa thuận tạm ngưng, một cơ hội được tạo ra bởi lịch sử, bởi Thiên Chúa, để người ta nhìn lại cuộc hành trình họ đã thực hiện (xem Lc 13:3-5) và do đó, tránh được sự hủy diệt hoàn toàn.  Người Rôma rất tàn nhẫn.  Bất kỳ cuộc nổi dậy nào sẽ báo hiệu sự phá hủy của Đền Thờ và Dân Tộc (Ga 11:48; xem Lc 13:34-35; 19:41-44).   
  
*  Trong bối cảnh này, vào khoảng năm 28 sau Công Nguyên, Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một ngôn sứ trong hoang địa.  Luca nói về sự kỳ vọng lớn phát sinh trong dân chúng liên quan đến việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả, là người đã công bố phép rửa hoán cải cho sự tha thứ tội lỗi.  Ngày nay cũng có một khát vọng lớn cho sự chuyển đổi và làm hòa với Thiên Chúa, tự biểu lộ theo nhiều cách khác nhau:  sự tìm kiếm ý nghĩa đời sống, cuộc tìm kiếm tâm linh, phong trào quốc tế của Diễn Đàn Xã Hội Thế Giới “Một thế giới khác là điều có thể”, và nhiều phong trào tôn giáo khác nữa.  Các cán sự xã hội và các chính trị gia đang tìm kiếm một thế giới nhân bản hơn và do đó xác nhận lòng khát vọng hoán cải và hòa giải với Thiên Chúa.  Mùa Vọng là thời gian thích hợp để hồi phục trong chúng ta lòng mong ước cho sự thay đổi, cho sự hoán cải và cho việc đến gần Thiên Chúa hơn.

b)  Lời bình luận về văn bản:

Lc 3:1-2:  Nhắc nhớ lại những tiên tri xưa
Phương cách mà Luca giới thiệu lời rao giảng của Gioan thì tương tự như những lời tựa cuốn sách của các tiên tri xưa.  Những lời này đề cập đến tên của các vị vua vào thời gian hoạt động của các tiên tri. Này nhé, ví dụ, sách tiên tri Isaia (Is 1:1), sách tiên tri Giêrêmia (Gr 1:1-3), sách tiên Hôsê (Hs 1:1), sách tiên tri Amốt (Am 1:1) và các tiên tri khác.  Luca làm điều tương tự như vậy để nói rằng nếu cả 500 năm không có một tiên tri nào, thì giờ đây một tiên tri mới đã xuất hiện với tên là Gioan, con ông Giacaria và bà Êlisabéth.  Luca lo lắng với việc đặt các sự kiện này trong thời gian và không gian.  Ông giới thiệu tên của quan tổng trấn và các thủ hiến và mô tả những nơi Gioan làm việc.  Thật ra, lịch sử cứu độ không tách biệt lịch sử loài người và lịch sử cá nhân.
Mối quan tâm này của Luca, gợi lên sự tò mò của chúng ta.  Ngày nay, khi một người được thụ phong linh mục hay khấn trọn, thông thường thì in một tấm thiệp thánh ghi nhớ ngày và nơi chốn lễ thụ phong hoặc lễ khấn và một câu nói có ý nghĩa từ Kinh Thánh hay của một vị thánh được ghi vào để thể hiện tầm quan trọng của việc thụ phong hay lễ khấn trong đời của người ấy.  Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ bắt gặp một thấm thiệp thánh nói rằng, ví dụ, “Vào năm thứ năm dưới triều đại tổng thống Bush, tổng thống của Hiệp Chủng Quốc; ông Blair là thủ tướng của vương quốc Anh; ông Prodi là thủ tướng nước Ý, ông Zapatero là thủ tướng nước Tây-ban-nha; và Giáo Hoàng Joseph Ratzinger, được gọi là Đức Thánh Cha Biển Đức thứ 16, tôi đã thụ phong chức linh mục để loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, ban ánh sáng cho người mù lòa, để giải thoát kẻ bị áp bức và công bố năm Hồng Ân của Chúa!” Tại sao Luca lại chọn cung cấp các ngày của lịch sử cứu rỗi cùng với những ngày của lịch sử nhân loại?     

Lc 3:3:  Ăn năn thống hối và sự tha thứ
Gioan đi khắp miền sông Giođan rao giảng phép rửa sám hối để cầu ơn tha tội.  Ăn năn (tiếng Hy Lạp làmetanoia) có nghĩa là thay đổi, không chỉ trong hành vi đạo đức của một người, mà cũng còn trong tâm lý của người ấy nữa.  Thay đổi trong cách suy nghĩ của người ta!  Mọi người nhận thức được rằng cách suy nghĩ của họ bị ảnh hưởng bởi “men của người Pharisêu và men của Hêrôđê” (Mc 8:15), đó là bởi lời tuyên truyền của chính quyền và bởi các viên chức tôn giáo, đã sai trái và phải sửa đổi.  Sự tha thứ mang đến sự hòa giải với Thiên Chúa và với những người chung quanh.  Bằng cách này, Gioan đang công bố một phương cách mới cho người ta liên kết với Thiên Chúa.  Sự hòa giải cũng sẽ là dấu ấn của việc rao giảng của Chúa Giêsu:  hòa giải đến những “bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22).

Lc 3:4-6:  Định nghĩa sứ vụ của Gioan
Luca trích dẫn văn bản sau đây từ lời tiên tri Isaia để giúp độc giả hiểu rõ hơn về ý nghĩa lời rao giảng của Gioan:  “Có tiếng hô:  ‘Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa.  Giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta.  Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu; bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy vì rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán’” (Is 40:3-5).  Trong văn bản này, tiên tri Isaia công bố sự trở lại của dân chúng từ nơi lưu đày về lại Paléstine và ông mô tả nó như thể đó là một cuộc Xuất Hành.  Giống như người dân trở về từ việc nô dịch ở Babylon, rời bỏ đất Ai Cập và một lần nữa bước chân vào sa mạc.  Đối với Luca, Chúa Giêsu bắt đầu một cuộc xuất hành mới được chuẩn bị bằng lời rao giảng của Gioan trong hoang địa.  Các sách Tin Mừng của Mátthêu (Mt 3:3) và Máccô (Mc 1:3) cũng trích dẫn cùng một đoạn của sách tiên tri Isaia, nhưng các ông chỉ trích dẫn phần đầu (Is 40:3).  Luca trích dẫn đầy đủ bản văn đến điểm mà tiên tri Isaia nói rằng:  “và mọi người phàm sẽ cùng thấy vinh quang của Thiên Chúa” (Is 40:5).  Câu nói “mọi người phàm” có nghĩa là tất cả nhân loại.  Sự khác biệt nhỏ này cho thấy mối quan tâm của Luca cho các giáo đoàn, rằng các tiên tri đã dự báo việc mở rộng này đến cho các dân ngoại!  Chúa Giêsu đã đến không chỉ riêng cho người Do Thái mà để cho “mọi người phàm” có thể nhìn thấy quyền năng cứu độ của Thiên Chúa.  Luca viết sách Tin Mừng của ông cho giáo đoàn ở Hy Lạp, mà hầu hết là những dân ngoại đã tòng giáo. 

c)  Phần phụ chú để giúp hiểu rõ hơn bài Tin Mừng:

Gioan, vị tiên tri – Từ thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên, lời tiên tri đã chấm dứt.  Có lời chép rằng: “ngôn sứ cũng chẳng còn” (Tv 74:9).  Người ta phải sống trong kỳ vọng của lời ngôn sứ được hứa hẹn bởi Môisen (Đnl 18:15; 1 Mcb 4:46; 14:41).  Thời gian chờ đợi dài đăng đẵng này đã kết thúc với sự xuất hiện của Gioan (Lc 16:16).  Người ta đã không coi Gioan là kẻ nổi loạn như Baraba, hoặc giống như một Kinh sư hay người Pharisêu, nhưng như là một ngôn sứ được mong mỏi bởi tất cả mọi người (Lc 1:76).  Nhiều người nghĩ rằng ông là Đấng Cứu Thế.  Ngay cả trong thời thánh Luca, vào những năm 80, vẫn còn những người nghĩ rằng Gioan là Đấng Cứu Thế (Cv 19:1-6).

Gioan xuất hiện và công bố:  “Hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã gần kề!” (Mt 3:2).  Ông đã bị bỏ tù vì lòng can đảm của mình trong việc tố cáo các tội lỗi của người ta và của những kẻ cầm quyền (Lc 3:19-20).  Khi Chúa Giêsu nghe được tin Gioan đang ở trong tù, Người đã trở về Galilêa và công bố cùng một sứ điệp như Gioan:  “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.  Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15)  Chúa Giêsu tiếp tục công việc nơi Gioan bỏ dở và tiến xa hơn.  Phần Cựu Ước kết thúc với Gioan và trong Chúa Giêsu phần Tân Ước bắt đầu.  Ngay cả Chúa Giêsu còn nói:  “Ta nói cho anh em biết:  trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan; tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông” (Lc 7:28).      

Nội dung lời rao giảng của Gioan (Lc 3:7-18) – Gioan thu hút đám đông dân chúng bằng lời rao giảng về phép rửa của sự hoán cải và tha thứ tội lỗi.  Điều này cho thấy rằng người ta đã sẵn sàng để thay đổi và muốn liên kết với Thiên Chúa trong một đường lối mới.  Gioan tố cáo tội lỗi và lên án những kẻ có đặc quyền.  Ông nói rằng: là con cháu của Abraham thì không có bảo đảm gì cũng như không có bất kỳ lợi thế nào trước mặt Thiên Chúa.  Ông nói:  Đối với Thiên Chúa, hòn đá và con cháu Abraham đều như nhau, bởi vì “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham!” (Lc 3:8).  Điểm lợi thế của một người trước nhãn quan của Thiên Chúa thì không phải là đặc quyền làm con cháu của ông Abraham mà là các hành động đã nảy sinh hoa trái tốt lành.  

Luca nói về ba loại người đến hỏi ông Gioan:  “Chúng tôi phải làm gì?”:  của đám đông (Lc 3:10), của những kẻ thu thuế (Lc 3:12) và của các binh lính (Lc 3:14).  Câu trả lời cho đám đông thì đơn giản:  “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy!” (Lc 3:11)  Đây là một câu trả lời rõ ràng:  chia sẻ của cải là điều kiện để nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa và để vượt qua từ thời kỳ Cựu Ước sang Tân Ước.  Trong câu trả lời của ông cho những người thu thuế (Lc 3:13) và binh lính (Lc 3:14), Gioan yêu cầu điều tương tự, nhưng áp dụng cho tình cảnh của họ.  Những người thu thuế thì không được đòi hỏi những gì quá mức ấn định.  Việc khai thác người dân bởi các kẻ thu thuế đã là một bệnh dịch trong xã hội thời bấy giờ.  Các binh lính không được hà hiếp ai, cũng không tống tiền người ta, và phải an phận với số lương của mình.

Vào những năm 80, khi Luca đang viết sách Tin Mừng, nhiều người vẫn còn cho rằng Gioan là Đấng Cứu Thế (Xem Cv 19:3; 13, 15).  Luca trích dẫn lời của Gioan để giúp người đọc đặt để hình ảnh của Gioan trong khuôn khổ của lịch sử cứu độ.  Ông Gioan thừa nhận rằng Chúa Giêsu là Đấng mạnh mẽ hơn.  Sự khác biệt giữa ông và Chúa Giêsu là ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ được truyền qua Chúa Giêsu.  Luca cho thấy rằng khái niệm của ông Gioan về Đấng Cứu Thế cũng chưa hoàn hảo.  Đối với Gioan, Đấng Mêssia sẽ là một vị thẩm phán nghiêm khắc, sẵn sàng để ban ra sự phán xét và hình phạt (Lc 3:17).  Có lẽ đó là lý do tại sao ông Gioan, sau đó, đã gặp khó khăn trong việc nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêssia (Lc 7:18-28), bởi vì Đức Giêsu đã không hành xử giống như một vị phán quan nghiêm khắc trừng phạt.  Thay vì đó, Người lại nói:  “Ta không phán xét ai cả!” (Ga 8:15; 12:47).  Thay vì phán xét và trừng phạt, Chúa Giêsu cho thấy sự dịu dàng, đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với họ.

6.  Cầu Nguyện với Thánh Vịnh 15 (14)
Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong nhà Chúa?
Lạy CHÚA, ai được vào ngụ trong nhà Chúa,
được ở trên núi thánh của Ngài?

Là kẻ sống vẹn toàn,
luôn làm điều ngay thẳng,
bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng lưỡi chẳng vu oan,
không làm hại người nào,
chẳng làm ai nhục nhã.
Coi khinh phường gian ác,
trọng ai kính CHÚA TRỜI,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
cho vay không đặt lãi,
chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay.
Phàm ai làm những điều này
không hề nao núng chuyển lay bao giờ.

7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin chúng con, trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét