Trang

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

19-12-2012 : THỨ TƯ TUẦN III MÙA VỌNG


Ngày 19 tháng 12
Mùa Vọng
Lc 1,5-25

Bài Ðọc I: Judic 13, 2-7, 24-25a
"Thiên Thần báo trước việc Samson sinh ra".
Bài trích sách các Thẩm Phán.
Ngày ấy có một người đàn ông, bởi đất Sara và thuộc chi họ Ðan, tên là Manuel, có người vợ son sẻ.
Thiên Thần Chúa hiện ra nói với bà ấy rằng: "Ngươi son sẻ không con; nhưng sẽ được thụ thai, và hạ sinh một con trai.
Vậy ngươi hãy cẩn thận, đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch.
Vì ngươi sẽ được thụ thai, và hạ sinh một con trai.
Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó; nó là người được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ; chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Phi-li-tinh."
Bà nầy đi nói với chồng rằng: "Có một người của Thiên Chúa đến cùng tôi, với diện mạo Thiên Thần, rất đáng sợ.
Tôi hỏi người ấy là ai, bởi đâu đến, gọi tên gì.
Người ấy không muốn nói cho tôi biết.
Nhưng lại trả lời rằng: "Rồi đây, ngươi sẽ được thụ thai và hạ sinh một con trai: hãy cẩn thận, đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch.
Vì con trẻ sẽ là người được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ trong lòng mẹ, cho đến ngày nó chết".
Bà đã hạ sinh một con trai, và gọi tên là Samson.
Hài nhi lớn lên, và Chúa đã chúc phúc cho nó.
Và thần tri Chúa bắt đầu ở với nó.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv. 70, 3-4a, 5.6ab, 16-17
Ðáp: Xin cho miệng tôi chứa chan lời khen ngợi, để tôi ca tụng vinh quang của Chúa.
Xướng 1) Lạy Chúa, xin hãy nên núi đá trú ẩn và thành trì kiên cố cho tôi, để cứu tôi: Vì Chúa là núi đá và thành trì của tôi. Lạy Chúa, xin giựt tôi khỏi bàn tay gian ác. - Ðáp.
2) Vì Chúa là Ðấng tôi mong đợi, lạy Thiên Chúa của tôi! Lạy Chúa là Ðấng tôi cậy trông, từ thời còn niên thiếu. Từ lòng mẹ, tôi nương tựa nơi Chúa, từ dạ mẹ, Chúa là Ðấng bảo vệ tôi. - Ðáp.
3) Tôi sẽ thuật lại quyền năng Thiên Chúa, lạy Chúa, tôi ghi nhớ sự công chính của một mình Chúa, lạy Chúa, Chúa đã dạy tôi từ thời còn niên thiếu, các kỳ công Chúa, tôi cao rao đến bây giờ. - Ðáp.

Alleluia:
Alleluia, alleluia - Hỡi gốc Giê-sê, Chúa đang đứng như báo hiệu của chư dân, xin hãy đến cứu thoát chúng tôi, và đừng trì hoãn nữa.- Alleluia.

Phúc Âm: Lc 1, 5-25
"Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabéth.
Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì.
Nhưng họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương.
Ðang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương.
Bấy giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án.
Giacaria thấy vậy hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông.
Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng: "Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi.
Elisabéth  vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan.
Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra.
Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa.
Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị.
Giacaria thưa với Thiên Thần rằng: "Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?"
Thiên Thần liền đáp: "Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy.
Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng".
Dân chúng đang trông đợi Giacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh.
Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh.
Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm.
Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà.
Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: "Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người đời.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Tư tế Giacaria không còn khả năng sinh con vì cả hai ông bà đã cao niên. Sự sống của họ đang đi đến ngõ cụt. Gia đình này là biểu tượng cho thế giới loài người không có Chúa, một thế giới cằn cỗi không có sự sống. Nhưng nhờ Con Một Chúa đến làm cho gia đình Giacaria phát sinh sự sống mới. Thế giới muốn có sự sống, hãy đón nhận lấy Ðức Giêsu Kitô.

Cầu Nguyện:
Lạy Cha, xin hãy đến viêng thăm gia đình chúng con. Xin hãy đến với thế giới hôm nay. Chỉ có sự hiện diện của Cha mới biên đổi sự cằn cỗi thành sinh lực dồi dào. Chỉ trong Cha, chúng con mới có niềm vui, niềm hạnh phúc đích thực. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Gioan Tẩy Giả sinh ra


Gioan Tẩy Giả Sinh Ra

Trong bài đọc I hôm nay, sách Thẩm Phán cũng kể lại việc thiên thần Chúa hiện ra với người vợ có chồng là Manuel thuộc chi họ Dan, và nói với bà rằng: "Người son sẻ không có con, nhưng sẽ được thụ thai và sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch vì ngươi sẽ thụ thai hạ sinh một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó, nó sẽ được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Philitinh. Bà hạ sinh một con trai và con trẻ sinh ra tên là Samson".
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay nêu lên hai ý tưởng:
- "Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được". Hai người đàn bà son sẻ vợ của Zacharia và Manuel, tuổi đã già vậy mà sinh được hai người con là Gioan tẩy Giả và Samson. Theo tục lệ Á Ðông xưa của chúng ta có nói: "Nữ thập tam, nam thập lục". Nghĩa là người nữ khoảng mười ba đến bốn mươi tuổi là cơ thể bắt đầu biến đổi để có thể chuẩn bị trở thành một người mẹ. Luật Giáo Hội xác định mười sáu tuổi, mà đa số các quốc gia chấp nhận mười tám tuổi là tuổi trưởng thành cho nữ giới để có thể kết hôn. Khả năng sinh con của người đàn bà có thể kéo dài từ đó đến quãng đời từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi. Qua khỏi tuổi năm mươi thì hầu như không thể thụ thai được nữa. Lẽ dĩ nhiên phải năm mươi đến sáu mươi tuổi thì mới gọi là đã già, lại càng không thể có hy vọng sinh con cái được nữa. Hơn nữa khi nhìn vào trường hợp của Abraham, ông được mệnh danh là cha của kẻ tin. Mặc dầu Sara vợ ông đã già nhưng được thiên thần báo tin sẽ sinh một con trai trong lúc tuổi già. Abraham đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng mà ông tôn thờ: "Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được".
- Muốn hiến thánh cho Thiên Chúa để lo việc phụng sự Ngài, Thiên Chúa đòi hỏi con người phải cộng tác với Người: "Ngươi hãy cẩn thận, không uống rượu và thức ăn có men, cũng đừng ăn những món gì không thanh sạch". Tất nhiên chúng ta cũng không hoàn toàn hiểu theo nghĩa đen nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng nữa.
Mùa Vọng là mùa chuẩn bị mừng Chúa Cứu Thế đến, chúng ta không chỉ sửa soạn sạch sẽ, tô vôi, sơn quét lại ngôi thánh đường thân yêu trong Giáo Xứ, làm hang đá thật đẹp, thật lộng lẫy để Chúa Hài Nhi nằm nhưng chúng ta còn phải lo quét dọn tâm hồn, trang hoàng hang đá và làm cho ngôi thánh đường nhỏ bé xinh xinh ở trong tâm hồn chúng ta luôn sạch sẽ để như chiên bò ngày xưa thở hơi ấm áp cho Chúa nơi hang đá giá lạnh trần gian. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm tình đón Chúa như lời thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng: "Núi đồi hãy san cho bằng, hố sâu hãy lấp cho đầy, đùng quanh queo hãy uốn cho ngay thẳng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Lạy Chúa, không có gì mà Chúa không làm được. Xin cho chúng con nhận biết Quyền Năng của Chúa để chúng con luôn sống trong tin yêu và hy vọng trong cuộc đời. Lạy Chúa, để dấn thân phục vụ Nước Chúa cho rộng lớn, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết dùng tự do, thời giờ, tâm trí và tài năng riêng của mỗi người mà Chúa đã ban cho để tham dự vào việc mở mang nước Chúa mà không một đắn đo suy tính thua thiệt theo kiểu nhân loại. Amen.
 (Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 19 tháng 12, MV
Bài đọc: Judg 13:2-7, 24-25; Lk 1:5-25.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Hy vọng trong thất vọng.

Mùa Vọng là mùa của hy vọng và của những lời hứa được ứng nghiệm và hòan thành. Những gì Thiên Chúa hứa qua những lời chúc lành của các tổ-phụ được hòan thành, và các lời tiên báo của các tiên-tri qua các thời đại được ứng nghiệm. Thời gian chờ đợi thường làm cho con người mệt mỏi và ngã lòng trông cậy; nhưng Thiên Chúa có kế họach và thời gian của Ngài. Một điều chắc chắn là những gì Thiên Chúa hứa sẽ xảy ra; còn chuyện khi nào xảy ra, không ai biết được.
Cả hai Bài đọc hôm nay đều tường thuật hòan cảnh sinh con của hai cha mẹ đã cao niên và không thể có con theo luật tự nhiên. Họ hòan tòan thất vọng và xấu hổ với mọi người; nhưng Thiên Chúa đã can thiệp và cho có con. Bài đọc I trong Sách Thủ Lãnh tường thuật về hòan cảnh sinh ra của Thủ-Lãnh Sampson. Tin Mừng Luca tường thuật về hòan cảnh sinh ra của Gioan Tẩy Giả. Mục đích của các tác giả là để chứng minh chân lý: “Không có điều gì là không thể đối với Thiên Chúa;” và để dẫn con người tới một niềm hy vọng lớn lao hơn, một phép lạ cả thể hơn, một niềm hy vọng duy nhất có thể giải thóat con người khỏi tội lỗi và sự chết: đó là sự giáng sinh của Đấng Cứu Thế.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Hòan cảnh sinh ra của Thủ-Lãnh Sampson.
1.1/ Tin Mừng được loan báo:
(1) Cha mẹ của Sampson: Sách Thủ Lãnh nói vắn tắt về cha mẹ của Sampson như sau: “Có một người đàn ông ở Zorah, thuộc chi tộc Dan, tên là Manoah. Vợ ông son sẻ và không sinh con. Sứ giả của Đức Chúa hiện ra với người vợ và nói với bà: "Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai.””
(2) Con trẻ Sampson được thánh hiến ngay từ lòng mẹ: Sứ-thần nói với người mẹ: “Vậy bây giờ Bà phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch. Vì này bà sẽ có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một Nazirite của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Israel khỏi tay người Philistines."
Nazarite là người được dành riêng và thánh hiến đặc biệt cho Thiên Chúa, được mô tả chi tiết trong Num 6:2-21. Mặc dù không thấy được đề cập đến bất cứ người nào trước Sampson; tuy nhiên, nó hiện hữu trước thời gian của Moses. Lời thề của người Nazarite bao gồm 3 điều: (1) không được uống rượu và thức uống mạnh; (2) không được cắt tóc trong suốt thời gian thề hứa; và (3) không được tiếp xúc với xác chết. Khi thời gian thánh hiến hết, người Nazarite phải đến cửa đền thờ để dâng lễ vật như được mô tả bởi các tư tế. Sau đó, ông phải cắt tóc và quăng vào lửa khi thầy tư tế dâng lễ vật giao hòa.
(3) Phản ứng của bà mẹ: Bà đi vào và nói với chồng rằng: "Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi; hình dáng của người như hình dáng một sứ giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ đâu tới; và danh tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi. Nhưng người nói với tôi: "Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai; bây giờ bà phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch, vì con trẻ ấy sẽ là một Nazirite của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó chết."”

1.3/ Tin Mừng được ứng nghiệm: “Bà sinh được một con trai và đặt tên là Sampson. Đứa bé lớn lên, và Đức Chúa chúc lành cho nó. Thánh Thần Đức Chúa bắt đầu tác động trên Sampson tại Trại Dan giữa Zorah và Eshtaol.” Sampson lớn lên với sức mạnh phi thường và giải phóng dân khỏi sự áp bức của người Philistines.

2/ Phúc Âm: Hòan cảnh sinh ra của Gioan Tẩy Giả
Tin Mừng Luca tường thuật vắn tắt về cha mẹ của Gioan Tẩy Giả, Ông Zechariah và Bà Elizabeth, như sau: “Thời vua Herode cai trị miền Judah, có một vị tư tế thuộc nhóm Abijah, tên là Zechariah; vợ ông là Elizabeth cũng thuộc dòng tộc tư tế Aaron. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. Nhưng họ lại không có con, vì bà Elizabeth là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên.”

2.1/ Tin Mừng được loan báo
(1) Cha của Gioan Tẩy Giả: “Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông: Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài. Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Zechariah bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông: "Này ông Zechariah, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: Bà Elizabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời.”
(2) Con trẻ Gioan Tẩy Giả được chọn và thánh hiến ngay từ lòng mẹ: Sứ-thần Gabriel nói: “Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa; rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần.” Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả được loan báo rõ bởi Sứ-thần: “Em sẽ đưa nhiều con cái Israel về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy Thánh Thần và quyền năng của ngôn sứ Elijah, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa."
(3) Phản ứng của ông Zechariah: Vì ông nghĩ mình không thể có con theo luật tự nhiên, nên ông thưa với sứ thần: "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi." Sứ thần đáp: "Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi."

2.2/ Tin Mừng được ứng nghiệm: “Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. Ít lâu sau, bà Elizabeth vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. Bà tự nhủ: "Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời."”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có kế họach và thời gian của Ngài. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào Kế Họach của Thiên Chúa qua sự mặc khải của Đức Kitô và các sứ giả của Ngài.
- Thiên Chúa cho con người vào đời và chuẩn bị cho mỗi người một sứ vụ trong Kế Họach của Ngài. Chúng ta phải hòan tất sứ vụ Ngài giao phó.
- Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể xảy ra. Chúng ta phải đặt trọn vẹn niềm tin vào Ngài.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Ngày 19/12
Sứ điệp: Thánh Gioan Tẩy Giả đã được sinh ra trong thời kỳ ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét đã cao niên và son sẻ. Chính Chúa đã can thiệp. Chúa cũng hằng ngày can thiệp vào cuộc sống của ta để ta sinh hoa trái trước mặt Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã can thiệp cách đặc biệt để Thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra và trở nên vị tiên tri dọn đường cho Chúa cách trung thành. Con và gia đình con được hồng ân trở thành con Chúa. Đó chính là nhờ sự can thiệp đầy tình yêu thương của Chúa. Chúa đã giáng trần, đã chịu bao nhiêu thương khó, chịu nạn và sống lại vinh quang. Chúa đã hạ mình xuống thân phận tôi đòi để chúng con được sống sự sống của chính Thiên Chúa.
Chúa lại ban các tông đồ, các vị chủ chăn, để giúp chúng con sống cuộc đời làm con Chúa. Chúa lại còn can thiệp bằng cách thánh hiến các linh mục vì chúng con. Con còn gặp biết bao anh chị em thánh thiện, làm gương sáng và dắt dìu nhau về cùng Chúa. Con quên sao được ơn sống đạo của ông bà cha mẹ trong gia đình con. Chúa đang dùng nhiều cách để giúp con sống thân tình với Chúa mỗi ngày một hơn. Con chúc tụng tạ ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang đến với con và đang muốn dùng con để Chúa đến với các linh hồn xung quanh. Ngày ngày Chúa vẫn can thiệp vào cuộc sống của con. Ngày ngày Chúa vẫn thanh tẩy con như thanh tẩy Thánh Gio-an. Còn hơn thế nữa, ngày ngày Chúa vẫn dùng Mình Máu Chúa mà nuôi dưỡng thánh hóa con. Con cũng muốn sống theo gương Thánh Gio-an. Con muốn trung thành dọn đường cho Chúa đến với mọi người. Xin Chúa giúp con. Amen.
Ghi nhớ: "Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra".
www.phatdiem.org
19/12/12 THỨ TƯ TUẦN 3 MV
Lc 1,5-25

THÁI ĐỘ SẴN SÀNG CỦA Ê-LI-SA-BÉT
Ít lâu sau, bà Elisabet có thai, bà ẩn mình năm tháng. Bà tự nhủ :"Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời."(Lc 1,24-25)

Suy niệm: Một câu chuyện có hậu, đẹp như cổ tích. Song trước khi có hậu thì nó đã...không có hậu mà đầy kịch tính! Nghĩa là nó vốn éo le: hai ông bà đều là người tốt lành trước mặt Thiên Chúa và người xung quanh; thế nhưng họ không có con, vì bà Êlisabét là người hiếm hoi. Vả lại cả hai đều cao tuổi rồi. Điều gì đã diễn ra trong tâm hồn Êlisabét gần ngót cả đời người, ít là kể từ khi bà kết hôn? Làm vợ mà không được làm mẹ, trong xã hội Do Thái thời ấy, chắc chắn là “một nỗi hổ nhục trước mặt người đời”. Trong nỗi hổ nhục này, Êlisabét đã có thái độ ra sao? Cùng với chồng mình, bà vẫn sống “công chính trước mặt Thiên Chúa”, vẫn vâng giữ “mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì”. Cuối cùng, niềm vui đã đến. Niềm vui không ầm ĩ (c. 24), nhưng ngập tràn cõi lòng Êlisabét: Bà có thai và sắp được làm mẹ; hơn nữa, đứa con của bà được trao cho một vai trò rất đặc biệt trong chương trình của Thiên Chúa!

Mời Bạn: Nhìn lại bao lần mình phản ứng bốc đồng, kêu ca than oán khi gặp điều bất như ý xảy đến với mình. Chúa có cách của Ngài để rút điều tốt lành ra từ những gì tệ hại. Như Êlisabét, bạn hãy kiên trung tin tưởng vào Chúa.

Sống Lời Chúa: Hiện tại, bạn còn “cay đắng” với Chúa về điều gì? Hãy hóa giải bằng cách cầu nguyện chân thành cởi mở với Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con vẫn trung thành với Chúa dù gặp nghịch cảnh, xin ban con niềm vui được Chúa ở cùng con và thương cứu độ.

www.5phutloichua.net


Chuẩn bị sẵn sàng
 Như Gioan, ngay từ khi tôi chưa hiện hữu trong lòng mẹ, Thiên Chúa đã nghĩ đến tôi, và biết tên tôi. Tôi có chỗ rất riêng trong chương trình của Chúa.

Suy nim:
Ở nước Do Thái, vợ chồng lấy nhau mà không con nối dõi
là một điều bất hạnh, thậm chí là một hình phạt của Thiên Chúa.
Chúng ta không rõ hai ông bà Dacaria và Êlisabét
đã sống với nhau bao lâu mà không có con.
Chỉ biết bây giờ ông đã cao niên rồi, và bà đã quá tuổi sinh sản (c. 7).
Hai vợ chồng già đã kiên nhẫn cầu xin và chờ đợi trong nhiều năm.
Có vẻ Đức Chúa ngoảnh mặt đi, không nghe lời họ,
dù cả hai đều thuộc dòng tộc tư tế Aharon và rất mực đạo đức (cc. 5-6).
Bây giờ họ có còn hy vọng nữa không?
Chính khi ta thất vọng, thì Chúa đến loan báo Tin Vui (c. 19).
Tư tế Dacaria may mắn trúng thăm, nên ông được vào Nơi Thánh
để lau hương án và dâng hương mới.
Tại nơi thâm nghiêm này, khi ông lo việc tế tự,
ông được sứ thần Chúa báo tin về đứa con sắp chào đời của mình.
Gioan, nghĩa là Đức-Chúa-thi-ân, sẽ là món quà ông được tặng.
Nhưng Gioan sẽ còn là món quà cho nhiều người Ítraen,
vì Gioan có sứ mạng giải hòa dân tộc ông với nhau và với Chúa.
Một con người chưa được mang thai và chào đời,
nhưng về người ấy, Thiên Chúa đã có bao ước mơ và dự tính.
Ngài cho Gioan được đầy Thánh Thần từ trong lòng mẹ (c. 15).
“Làm cho kẻ ngỗ nghịch trở về nẻo chính đường ngay,
và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (c. 17).
Đó là những việc Gioan sẽ làm sau này trong tư cách là Êlia mới.
Dacaria có vẻ không tin vào lời sứ thần,
Có vẻ ông không còn nuôi hy vọng có một đứa con (c. 18).
Ông quên mất chuyện Ápraham đã sinh con trong lúc tuổi già.
Là một tư tế hẳn ông phải biết có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn
đã sinh con làm thủ lãnh đất Ítraen (Tl 13, 2; 1Sm 1-2; St 16, 1).
Việc ông bị câm là một hình phạt, nhưng ông không bị loại trừ.
Thinh lặng chín tháng là thời gian ông chờ đợi để lời hứa nên trọn.
Từ khi bà Êlisabét có thai, bà ẩn mình một thời gian.
Bà chưa muốn cho ai hay biết chuyện này.
Niềm vui bất ngờ đến với bà, người được hưởng hạnh phúc làm mẹ.
“Chúa đã làm cho tôi như thế đó,
khi Ngài đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”
Mỗi một trẻ thơ chào đời đều có nét của Gioan.
Chẳng người nào thấy ánh mặt trời mà lại nằm ngoài ý Thiên Chúa.
Như Gioan, ngay từ khi tôi chưa hiện hữu trong lòng mẹ,
Thiên Chúa đã nghĩ đến tôi, và biết tên tôi.
Tôi có chỗ rất riêng trong chương trình của Chúa.
Chúa có một sứ mạng rất riêng cho tôi hôm nay.
Thời nào cũng cần Gioan, cần những người kêu gọi hoán cải.
Nhân loại thời nay cần những người dọn đường sáng tạo,
có khả năng mở những con đường mới đi vào lòng thế nhân.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng,
cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con ?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra".
Truyền tin cho Zakaria
Bài tin mừng hôm nay làm nổi bật tác động cứu độ của Thiên Chúa: Thiên Chúa không bỏ rơi ý định cứu độ của Ngài, nhưng Ngài chuẩn bị và thực hiện bằng những bước vững chắc suốt chiều dài lịch sử- cho đến Gioan, vị sứ giả sống sát thời Đấng Mêsia.
Việc Thiên Chúa can thiệp tích cực trong mầu nhiệm cứu độ chính là biểu hiện của tình thương hải hà. Thiên Chúa can thiệp và cứu độ chỉ có nghĩa là Ngài quá xót thương con người mà thôi. Bởi đó, càng nhìn lại những sự kiện, những hoàn cảnh hay những con người đã giúp thực hiện việc cứu độ, chúng ta càng nhận thấy vai trò sự cứu độ viên mãn. Đây là một điểm quan trọng, bởi vì đứng trước hoạt động lớn lao của Thiên Chúa, con người thời này thường có thái độ phản kháng khi cho rằng Thiên Chúa xử sự bằng cách giữ phần chủ chốt tức là đã coi thường con người, trong khi lẽ ra họ phải bày tỏ tâm tình khiêm tốn, thán phục và biết ơn Thiên Chúa. Đấng đã yêu thương, đã dấn thân và làm mọi sự chỉ vì hạnh phúc cho con cái mình.
Sống mùa vọng, ước gì chúng ta biết nhận ra tác động của Thiên Chúa trong đời mình và trong lịch sử nhân loại, đồng thời biết hướng theo lời mời gọi hoán cải tâm hồn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
www.gplongxuyen.net
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
19 THÁNG MƯỜI HAI
Một Sự Tuôn Chảy Đặc Biệt Của Tình Yêu
Chúa Cha đã chuẩn bị một thân thể cho Chúa Con nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng là Tình Yêu. Mầu nhiệm Nhập Thể nói lên một sự tuôn tràn đặc biệt của tình yêu này: Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Trinh Nữ ở Na-da-rét – là Đức Ma-ri-a.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng bao phủ cô. Vì thế, Hài Nhi mà cô sinh hạ sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).
Chúa Thánh Thần, với quyền năng của Người, tác động trước hết trong tâm hồn Đức Maria. Bằng cách này, đức tin của Mẹ đã trở thành nguồn của mầu nhiệm Nhập thể. “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Tl 13, 2-7. 24-25a; Lc 1, 5-25.

LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện truyền tin cho ông Dacaria. “Một sứ thần của Chúa hiên ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Dacaria bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông: Này ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan” (Lc 1,11-13).
          Trong câu chuyện truyền tin này, Ông Dacaria có được hai niềm vui. Niềm vui đầu tiên là ông bốc trúng thăm vào Đền Thờ để dâng hương lên Thiên Chúa thay cho toàn dân. Ông dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin cho toàn dân sớm có Đấng Mêsia để cứu dân Người, và niềm vui thứ hai là ông sẽ là cha của vị Tiền Hô, dọn đường cho Đấng Mêsia. Ông rời Đền Thờ với cả một Mùa Vọng cho đến khi mọi việc trở thành sự thật như lời sứ thần loan báo. Ước gì mỗi một người trong chúng ta luôn sống tinh thần Mùa Vọng từng ngày, để luôn được đổi mới mọi mặt.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
19 Tháng Mười Hai
Hợp Tác Là An Toàn

Ngày nay, khi đi trên các nẻo đường của nước Thụy Sĩ, người ta lại nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó trình bày hai chiếc xe hơi, một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều, những người ngồi trên hai xe đang chào nhau, cười với nhau. Người lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.
Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ: "Hợp tác là an toàn". Ðiều này muốn nói lên rằng giúp đỡ lẫn nhau, đối sử với nhau như người cộng sự, bằng tình bằng hữu là một đảm bảo cho một cuộc hành trình không nguy hiểm.
Tinh thần hợp tác không những chỉ đảm bảo cho một cuộc sống bình yên trên các lộ trình, mà cũng còn là một đảm bảo cho một cuộc sống bình yên ở mọi vị trí trong xã hội. Có tinh thần hợp tác là đặt kẻ khác vào chính vị trí của mình, quan tâm tới họ như quan tâm tới chính mình, kính trọng, yêu mến, giúp đỡ họ như kính trọng, yêu mến giúp đỡ chính mình vậy.
(Lẽ Sống)
Ngày 19

Từ thuở đời đời, từ những ngày ở Nadarét, ở Bêlem, ở Giêrusalem, Thiên Chúa không thay đổi cách tiến hành. Người tiếp tục đến với chúng ta, ngay nơi chúng ta không chờ đợi Người. Người để chúng ta nhận ra Người nơi gương mặt của người nghèo khó, người đói khát, người tù tội, người bé mọn trong những người bé nhỏ. Người cho chúng ta gặp gỡ Người trong một lời nói làm xúc động, qua một cử chỉ đem lại can đảm, qua một cái nhìn đem lại sức sng.
 
Thiên Chúa chúng ta là một Thiên Chúa ẩn dật cho chúng ta nhận ra Người trên khuôn mặt của một trẻ thơ bập bẹ nói giữa đêm tối. Chúng ta ưa thích những xác thực và những chương trình không lộn xộn. Nhưng làm sao kế hoạch hoá sự xut hiện của Thiên Chúa trong cuộc đời, nếu không đứng trước mặt Người với hai bàn tay và tâm hn m ra và hỏi Người: việc y sẽ xảy ra cách nào?
 
Mùa Vọng đề ra cho chúng ta cuộc phiêu lưu về sự chờ đợi nồng nhiệt theo gương Đức Maria, là cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, phục vụ bà con trong sự đơn sơ của đời sng hàng ngày. Lúc đó, vui biết bao được cảm thấy Chúa đến cư ngụ trong chúng ta. Cũng vui biết bao được dâng lên lời tạ ơn, vì Chúa đếngiữa một đêm khuya và trong sự thinh lặng, dn đến sự thờ phượng đích thực.
 
Bernadette Mélois

Augustinô Nguyễn Văn Mới (1806-1839)

Augustinô Nguyễn Văn Mới là một nông dân, Dòng Ba Ða Minh; sinh năm 1806 tại Phú Trang, Nam Ðịnh; tử vì đạo ngày 19 tháng 12 năm 1839, tại Cổ Mễ. Ngài nổi tiếng vì lòng sốt sắng, và bác ái mặc dầu rất nghèo nàn. Ngài bị xử giảo (thắt cổ) chết vì từ chối không bước qua thập giá. Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn năm vị anh hung tử đạo: Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu, Đaminh Bùi văn Úy, Augustinô Nguyễn văn Mới, Tôma Nguyễn văn Đệ và Stêphanô Nguyễn văn Vinh lên bậc Chân Phước. Ngày 19.6.1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong các vị lên bậc hiển thánh. Ngày Lễ kính 19 tháng 12.
Đọc truyện các Thánh Tử đạo Việt Nam, không ai có thể quên được một chứng tá tập thể của hai thầy giảng, ba giáo dân ở trong tù. Năm vị cùng bị giam chung với cha Tự và ông trùm Cảnh, nhưng hai vị này tử đạo trước (5.9.1838). Dù sống trong ngược đãi, dù bị kiểm soát gắt gao, năm vị đã gắn bó với nhau trong tình anh em tha thiết, cùng sống đức tin kiên vững và nỗ lực làm chứng cho Thiên Chúa bằng lời nói, gương sáng và bằng chính mạng sống mình.

1. Thánh Phanxicô Xavie HÀ TRỌNG MẬU, Thầy giảng dòng ba Đaminh (1790-1839)

Thầy giảng Phanxicô Xavie Mậu không những phải chọn lựa giữa cái chết và cuộc sống, thầy còn phải chọn lựa giữa cái chết và việc làm quan triều đình. Không một chút lưỡng lự, thầy trả lời vị tổng đốc: "Tôi không ham quyền, tôi chỉ muốn chết vì đạo."

Phanxicô Xavie Hà Trọng Mậu cất tiếng chào đời năm 1790 tại làng Kẻ Diền, tỉnh Thái Bình. Cậu được cha mẹ cho đi tu, trở thành thầy giảng và đi giúp nhiều giáo xứ. Khi cha Phêrô Tự bị bắt, thầy Mậu đang coi họ Nội, thuộc xứ Kẻ Mốt. Được tin cha và thầy Úy bị đưa về Lương Tài, thầy liền đến đó nghe ngóng tin tức. Giáo hữu gửi thầy trọ ở nhà một lương dân phía bên kia sông, vì nghĩ rằng lính sẽ không khám xét đến. Ai ngờ, chính người chủ nhà đi báo cho quan kiếm tiền thưởng, thế là thầy bị bắt.

Thầy bị dẫn đến dinh quan Lương Tài. Có mặt cha Tự ở đó. Quan hỏi thầy là ai, thầy đáp: "Thưa quan, tôi là một môn đệ thân tín của cha đây". Cha Tự ra dấu nhắc thầy đừng khai rõ, may ra có thể chuộc về được chăng, nhưng thầy nói nhỏ với cha: "Xin cha thương nhận con là môn sinh, để con cũng được tử đạo với cha."

Kể từ ngày cha Tự và ông trùm Cảnh bị đem đi xử trảm, thầy Mậu trở thành cột trụ nâng đỡ bốn người còn sót lại, là thầy Úy, các anh Mới, Vinh và Đệ. Thầy nhắc anh em sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ nhau. Thầy đại diện anh em viết thơ ra ngoài, hoặc trả lời với các quan. Đặc biệt thầy động viên anh em hăng hái làm việc tông đồ ngay trong nhà tù. Trong hồ sơ phong thánh, cha Huấn đã dựa vào các thơ của thầy làm chứng rằng: "Thầy Mậu vẫn dạy giáo lý cho các tù nhân, và rửa tội được bốn mươi bốn người. Trong đó có một tử tội tên Hưng mới học đạo một tháng thì đến ngày xử, anh xin quan hoãn lại ít giờ để rửa tội, sau đó vui vẻ tiến ra pháp trường...".

Khi quan nói: "Kẻ nào chết vì không chịu bước qua thập giá là ngu dại, không biết thương cha mẹ già." Thầy giải thích: "Thưa quan, cha mẹ sinh chúng tôi, nhưng ngay cha mẹ chúng tôi có ở trên đời, cũng là nhờ quyền năng của Chúa." Khi quan tuyên đọc bản án xử tử, thầy bình tĩnh đáp lại: "Thưa quan, chúng tôi mong ước về với Chúa, như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của Đức vua."

2. Thánh Đaminh BÙI VĂN ÚY Thầy giảng dòng ba Đaminh (1812-1839)

"Nếu tôi cả gan bước lên thánh giá, thì tôi xúc phạm đến Chúa và bất hiếu với cha mẹ. Vì song thân sinh ra tôi, đã dạy tôi trung thành với niềm tin cho đến chết."

Thầy Đaminh Úy đã đặt trọn niềm tin của mình trong truyền thống tiên tổ. Không biết cha mẹ căn dặn thầy trung kiên dù phải tử đạo vào lúc nào, khi mới có bách hại hay khi vào thăm trong tù? Nhưng rõ rệt là với thầy, phản bội đức tin là phản lại những người đã nhọc công vun trồng niềm tin cho mình.

Đaminh Bùi văn Úy sinh năm 1812 tại họ Tiền Môn, làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái Bình. Từ bé cậu đã được gia đình gửi vào nhà xứ sống với cha Tự. Sau khi học thành thầy giảng thầy luôn hoạt động bên cha tại giáo xứ Kẻ Đanh rồi Kẻ Mốt (Bắc Ninh), thì bị bắt, lúc đó thầy mới 26 tuổi. Bất cứ ai gặp thầy Úy đều công nhận thầy hiền lành, có lòng yêu mến Chúa đặc biệt và là người trợ thủ đắc lực của cha Tự trong công tác, nhất là khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ. Ước mơ lớn nhất của thầy là được đóng vai "Lê Lai thế mạng" để cha Tự khỏi bị bắt. Khi đào hang trú ẩn, thầy làm hai ngăn rồi tình nguyện ở ngăn bên ngoài. Thầy nói với mọi người: "Nếu các quan đến truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp mình để cha khỏi bị bắt, hầu cha có thể giúp anh chị em."

Ngày 29.6.1838, lính đến vây làng Kẻ Mốt, đã bắt thầy Úy chung với cha Tự. Cha dự định khai thầy chỉ là giáo hữu vào làm bếp để đỡ nguy hiểm, nhưng thầy nói: "Xin cha cứ nói con là thầy giảng, may ra cùng được phúc tử đạo với cha"

Rồi thầy xin xưng tội để chuẩn bị tâm hồn. Một lần tương kế tựu kế, quan nói dối thầy: "Cha Tự xuất giáo rồi, sao anh còn cố chấp thế?" Thầy bình tĩnh trả lời: "Vô lý, cha tôi không bao giờ làm vậy, mà dù có thực như thế, tôi cũng không chịu xuất giáo đâu."

Lần khác, quan như muốn dạy khôn thầy: "Anh còn trẻ, hãy nghĩ lại và khôn hơn một chút, ta chỉ yêu cầu anh bước qua một khúc gỗ mà." Thầy Úy đáp: "Đúng là khúc gỗ, thưa quan, nhưng khúc gỗ đó lại tượng trưng cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ sao nếu tôi giày đạp lên ảnh vẽ hình cha mẹ tôi?" Hôm khác, khi bị dụ dỗ bước qua thánh giá, thầy khẳng khái nói: "Thưa quan, quan có dám bước qua mặt đức vua không, mà lại bảo tôi bước qua mặt Chúa tôi? Nhưng dù quan có bước qua mặt vua, thì tôi cũng không bước qua mặt Chúa tôi được."

Quan nghiêm nghị phán: “Tên phạm thượng, ta sẽ chém đầu mi." Người chiến sĩ đức tin vui vẻ reo lên:
"Anh em ơi, tôi sắp được chém rồi".

Nhưng phúc trường sinh đến với thầy không quá sớm như vậy.

3. Thánh Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI Nông dân dòng ba Đaminh (1806-1839)

Tuy là một tân tòng mới theo đạo, anh Augustinô Mới đã biểu lộ một đức tin kiên cường, không thua kém gì những Kitô hữu vững tin nhất.

Augustinô Nguyễn văn Mới sinh năm 1806 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nông dân ngoại giáo. Đến tuổi trưởng thành, anh đến làng Đức Trai, xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) để làm thuê làm mướn. Tiếp xúc với giáo hữu ở đây, càng ngày càng thấy mến đạo, và xin theo học giáo lý. Năm 31 tuổi, anh được cha Tự rửa tội và đặt tên thánh bổn mạng là Augustinô.

Mấy năm sau, cha Tự cũng chủ sự lễ thành hôn cho anh với một thiếu nữ trong xứ. Theo các lời chứng trong hồ sơ phong thánh, anh Augustinô Mới sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi tối. Dù có ngày lao động vất vả đến mãi khuya mới về, anh cũng không quên kinh Mân Côi kính Đức Mẹ.

Ngày 29-6-1838, khi quân lính bao vây làng Kẻ Mốt và bắt cha Tự, họ buộc toàn dân phải ra đình điểm danh, rồi bước qua thánh giá. Một số tín hữu nhanh chân lẫn tránh được, một số nhát gan thực hiện lời yêu cầu của lính. Các anh Mới, Vinh và Đệ cương quyết không chịu đạp lên thánh giá, nên bị bắt và áp giải chung với cha Tự, ông trùm Cảnh và hai thầy Úy và Mậu lên giam tại Bắc Ninh.

4. Thánh Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ Thợ may dòng ba Đaminh (1811-1839)

Hai mươi tám tuổi đời, một người vợ ba người con, đó là mối ưu tư trắc trở của anh Tôma Đệ trong những ngày bị giam cầm. Không thể bỏ đức tin, nhưng tương lai của người vợ trẻ và đàn con dại sẽ ra sao? Trong nhiều ngày anh suy nghĩ và tha thiết cầu nguyện xin Chúa soi sáng. Cuối cùng anh tìm được an bình trong tâm hồn, phó thác tất cả trong bàn tay Chúa quan phòng. Anh nói với người vợ đến thăm:

"Đừng khóc mình ạ. Mình về dạy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng Chúa. Tôi đã dâng mình và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho tôi thêm sức mạnh để nhẫn nại đến cùng."

Ra đời trong một gia đình Công giáo tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình năm 1811, Tôma Nguyễn văn Đệ vì lý do sinh kế, theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề thợ may và được mọi người yêu chuộng. Anh rất nhiệt tình với việc trong xứ trong họ. Hầu hết cờ quạt, đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh. Khi kinh tế gia đình ổn định, anh lập gia đình, ra ở riêng và sinh hạ được ba người con.

Ngày 29.6.1838, quân lính vây làng Kẻ Mốt, và ép buộc mọi người trên 18 tuổi phải đạp lên thánh giá. Anh lẩn trốn ra phía sau nhà. Đến khi quân lính xồng xộc vào nhà lùng bắt, anh biết mình không thể tránh được nữa, liền giã từ vợ, dặn đưa con về bên ngoại, ôm hôn từng đứa rồi ra trình diện. Đến trước thánh giá, anh Đệ quỳ xuống cầu nguyện lớn rằng: "Lạy Chúa, sẽ không bao giờ con bước qua mặt ngài."

Quân lính áp giải anh Tôma Đệ cùng với cha Tự ông trùm Cảnh, hai thầy Úy, Mậu và các anh Mới và Vinh về giam tại Bắc Ninh.

5. Thánh Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH Tá điền dòng ba Đaminh (1813-1839)

Thánh Stêphanô Vinh là một trường hợp hy hữu, trong danh mục các thánh tử đạo Việt Nam. Khi bị bắt, anh mới chỉ là dự tòng chưa được rửa tội. Nhưng với những hiểu biết ít ỏi về đạo, anh đã kiên trì làm chứng cho chân lý. Mặc dù khi vô tù anh mới chính thức gia nhập đạo, rồi thành hội viên dòng ba Đaminh, nhưng anh không thua kém ai về lòng can đảm tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.

Stêphanô Nguyễn văn Vinh sinh năm 1813 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình. Sống trong một gia đình ngoại giáo rất nghèo, một miếng đất cũng không có, anh Vinh quanh năm phải làm thuê làm mướn cho các gia đình Kẻ Mốt (Bắc Ninh). Trường học duy nhất anh ham thích và theo được là các lớp giáo lý, nơi anh tập đánh vần và học truyền khẩu. Đặc biệt anh đem các điều học ở đó ra thực hành trong cuộc sống. Có điều là người ta không biết vì sao anh chưa được rửa tội. Mọi người đều mến thương anh vì anh đơn sơ, chất phác, khỏe mạnh và thật thà. Trong công việc anh không bao giờ làm cho qua loa chiếu lệ, ai thuê việc gì, anh cũng chu toàn tốt đẹp không cần kiểm soát, không có gì để chê trách. Cho đến khi bị bắt (lúc 26 tuổi) anh vẫn sống độc thân chưa lập gia đình.

Ngày 29.6.1838, khi quan quân vây bắt cha Tự ở Kẻ Mốt, và bắt mọi người phải đạp qua thánh giá, chàng thanh niên 25 tuổi này đã anh dũng nói thẳng với họ rằng: "Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật."

Vì lời nói này, quan quân tưởng anh là người trong đạo, thế là họ bắt anh Vinh và áp giải về trại giam Bắc Ninh chung với cha Tự, ông trùm Cảnh, thầy Úy, thầy Mậu, anh Mới và anh Đệ. Chính tại đây, anh Vinh được diễm phúc làm người Kitô hữu, được hân hạnh làm con Cha Thánh Đaminh. Suốt hành trình tử đạo, anh là một nhân chứng trầm lặng, chỉ đồng tình với các vị khác, nhưng gông cùm, xiềng xích và tra tấn không lần nào có thể làm anh sa ngã hay thối chí. Chọn quan thầy Stêphanô trong tù, anh cương quyết noi theo vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội đến hơi thở cuối cùng.
Lời An Ủi Ấm Lòng

Sau một tháng dọa nạt tra khảo bảy chiến sĩ đức tin nhưng vô hiệu, ngày 27.7.1838, quan tỉnh Bắc Ninh đệ án vào triều xin xử giáo cha Tự và ông trùm Cảnh, còn năm vị kia quan cho là nhẹ dạ tin theo, nên xin đánh mỗi người một trăm roi rồi phát lưu vào Bình Định. Luật vua thời đó xử giảo các phù thủy, đồng cốt, còn những kẻ a dua chỉ bị đánh đòn và phát lưu ba trăm dặm. Thế nhưng vua Minh Mạng cho rằng tội theo đạo Gia-tô thuộc loại nặng hơn, nên quyết định xử chém hai vị trên ngay tức khắc, còn tất cả sẽ bị xử giảo sau một năm nếu không chịu thay đổi ý kiến.

Ngày 5.9.1838, khi biết tin cha Phêrô Tự và ông trùm Cảnh đã bị chém tại pháp trường Kinh Bắc, năm vị trong ngục buồn bã nhớ thương. Thầy Mậu kêu gọi anh em ngồi lại bên nhau cùng đọc kinh, vừa khích lệ nhau, vừa ôn lại những lời khuyên của cha mình. Sau đó ba buổi tối, như chính các vị thuật lại, trong lúc họ đang cầu nguyện, thì bất ngờ tất cả đều thấy như cha Tự hiện ra ngay bên an ủi họ: "Các con đừng buồn, chắc chắn các con sẽ còn được chết vì đạo. Tuy nhiên, các con sẽ còn phải qua một thời gian thử thách nữa, để xứng đáng với phúc trọng này." Có thể đó chỉ là giấc mơ chứ không phải sự thật, cũng có thể đó là lời nhắn nhủ cuối cùng của vị linh mục, nhưng kể từ ngày đó họ hết sầu buồn, tìm lại được can đảm để nêu gương ngay trong cảnh quẫn bách ở trong trại giam.
Tuyên Khấn Trong Ngục Tù

Ấn tượng ghi nét sâu đậm vào lòng năm vị chứng nhân là lời cha Tự trong ngày lãnh phúc tử đạo. Cha mặc áo dòng và nói với mọi người về chiếc áo đó. Trước đây bốn vị, đến khi vào tù có thêm anh Vinh, đã mặc áo dòng ba Thánh Đaminh, nhưng chưa ai khấn cả. Thầy Mậu liền viết thơ cho cha Huấn dòng Đaminh để bày tỏ niềm ước nguyện được hiệp thông với dòng cách trọn vẹn. Thầy viết:
"Chúng con tất cả là năm tập sinh của dòng ba Đaminh, nhưng chúng con không thể giữ chay đủ các ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy được, nên chúng con xin cha thương rộng phép chuẩn chước cho sự thiếu sót đó. Qua thơ này, chúng con xin tuyên khấn trọn đời. Vì chúng con không thể đọc lời tuyên khấn trong tay cha được, nên bằng những dòng viết này chúng con coi như thực sự tuyên khấn trước mặt cha vậy, xin cha cho phép."

"Để tôn vinh và ngợi khen Thiên chúa toàn năng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con là Phanxicô, Đaminh, Augustinô, Tôma và Stêphanô, trước mặt cha Huấn, đại diện cha Hermosilla, giám đốc dòng ba hãm mình Thánh Đaminh chúng con xin hứa và ước ao giữ lề luật và tập tục của dòng cho đến chết."

Những chữ "cho đến chết" trong ngục tù khi đó chắc hẳn phải có âm vang đặc biệt đối với các vị. Được nối kết với truyền thống hơn sáu trăm năm truyền giáo của Thánh Phụ và một dòng tu lớn trong Giáo hội, từ nay năm anh em tích cực hơn với việc tông đồ. Dưới sự điều hành của thầy Mậu, năm hội viên dòng ba chia nhau tiếp xúc gặp gỡ các bạn tù, giới thiệu với họ về Thiên Chúa, cắt nghĩa giáo lý, rồi dẫn họ đến thầy Mậu lãnh nhận bí tích rửa tội. Ít ra các vị đã rửa tội được bốn mươi bốn người. Ngục tù giờ đây trở thành nguyện đường, hằng ngày vang lên những lời chúc tụng Thiên Chúa, lời cầu nguyện cho Giáo hội và cho mọi người, mọi giới được đầy tràn ơn lành của Ngài.
Làm Chứng Trước Quan Quyền

Thấm thoát hơn một năm đã trôi quan, triều đình quyết định lại việc xử giảo cả năm người. Ngày 19.8.1839 quan cho điệu tất cả ra tòa, vẫn để thánh giá một bên, bên kia là dụng cụ tra tấn. Quan nói: "Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ con." Thầy Mậu đại diện anh em trả lời: "Chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu hay giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng."

Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy thánh giá và cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa."

Thất vọng, quan cho lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: "Bọn này không thể tha thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu."

Ngày 24.11, năm vị phải ra toà một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo. Thầy Mậu thay mặt anh em nói với quan: "Chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chung muôn loài, là Vua trên hết các vua, là Đấng chúng tôi mong được đổ máu ra để chứng tỏ lòng trung thành và yêu mến."

Như Nai Rừng Mong Mỏi Tìm Về Suối Nước Trong Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông nói: "Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha." Sau ông lại nói: "Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng tha." Nhưng các vị chứng nhân đức tin không dễ bị mắc lừa, họ bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu. Có lẽ do ảnh hưởng những lời kinh Giáo hội trong mùa Vọng, đón chờ Chúa giáng sinh, thầy Mậu nói với quan những lời kinh Thánh vịnh 41 (c 1-2): Thưa quan, chúng tôi ước mong về Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của nhà vua."

Biết không thể làm nao núng ý chí sắt đá của những con người này được nữa, quan liền truyền đem đi xử với bản án như sau: "Bọn gian ác theo Gia-tô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt, vẫn ngoan cố không chịu bước qua thập giá, nay chúng bị xử giảo"

Trên đường ra pháp trường, thầy Mậu rảo chân bước đi trước, các anh khác bước theo sau, tất cả đều tỏ ra hân hoan kiên cường. Dân chúng hiếu kỳ đi xem rất đông và xì xào với nhau là các vị này bị giết oan. Theo gương thầy Mậu, các chứng nhân tươi cười với mọi ngườỉ: "Anh em chúng tôi đang tiến về thiên đàng đây." Khi tới nơi xử, mỗi vị bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết cổ các vị bằng giây thừng cho đến lúc tắt thở. Các tín hữu đem thi thể các vị về an táng ở họ đạo mình. Thánh Mậu ở Kẻ La, Thánh Úy ở Đồng Tiến, Thánh Mới ở Phượng Vĩ, Thánh Đệ ở Phong Cốc và Thánh Vinh ở Hương La, tất cả đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.

Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn năm vị anh hung tử đạo: Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu, Đaminh Bùi văn Úy, Augustinô Nguyễn văn Mới, Tôma Nguyễn văn Đệ và Stêphanô Nguyễn văn Vinh lên bậc Chân Phước.
Ngày 19.6.1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong các vị lên bậc hiển thánh.

Lễ Nhớ: Ngày 19 tháng 12

(ST
Lời bất hủ: Trong hồ sơ phong thánh các đấng viết về anh Mới như sau: "Anh Augustinô sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi tối, dù có ngày lao động vất vả đến đêm khuya mới về, anh cũng không quên đọc kinh Mân Côi kính Ðức Mẹ". Trong làng có nhiều người nhát gan bước qua Thập Giá..nhưng anh Mới, Vinh, Ðệ .cương quyết không bước qua đạp lên Thánh Giá, nên bị bắt và áp giải chung với cha Tự, ông trùm Cảnh, và hai thầy Uý và Mậu lên giam tại Bắc Ninh.
www.tinmung.net
Thứ Tư 19-12
Tôi Tớ Thiên Chúa Berthold ở Ratisbon
(c. 1272)

S
inh ở Ðức vào khoảng năm 1220, ngay từ khi còn trẻ, Berthold người xứ Ratisbon đã gia nhập dòng Phanxicô khi mới được thành lập. Ngài đạo đức, chịu khó sống kham khổ, và được hướng dẫn bởi vị linh hướng nổi tiếng là cha David người xứ Augsburg. Nhận thấy Berthold có khoa ăn nói nên cha David đã khuyến khích và giúp vị linh mục trẻ tuổi này trau dồi thêm khả năng đó.
Không bao lâu khắp Ðế Quốc Ðức, ai ai cũng biết tiếng Cha Berthold là một người rao giảng đại tài. Qua sự rao giảng của cha, lời Chúa đánh động những tâm hồn chai đá. Hàng ngàn người đổ về để nghe ngài giảng. Có khi, số người lên đến hơn 100,000, và ngài phải leo lên toà giảng được dựng trên một cái cây cao để mọi người có thể nghe được. Ngày nay, một cánh đồng thật lớn ở Bohemia vẫn còn được gọi là Cánh Ðồng Cha Berthold, vì ngài đã giảng thuyết ở đây. Nhiều người được ơn trở lại, thay đổi đời sống, sám hối tội lỗi. Và họ xây một tu viện và một nguyện đường ở Ratisbon để dâng kính Thánh Maria Mađalêna. Ngày nay tu viện và nhà thờ này vẫn còn đó và do các Nữ Tu Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn trông coi.
Cha Berthold có ơn tiên tri và đã tiên đoán đúng nhiều thiên tai và biến cố trong thời ấy. Sau khi ngài từ trần ở Ratisbon năm 1272, ngôi mộ ngài trở nên trung tâm hành hương. Tinh thần của ngài vẫn sống động trong các bài giảng, mà nhiều bài ấy vẫn thích hợp trong thời đại chúng ta.
www.nguoitinhuu.com



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét