Trang

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

10-12-2012 : THỨ HAI TUẦN II MÙA VỌNG


Tuần II Mùa Vọng

Bài Ðọc I: Is 35, 1-10
"Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu thoát các ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Sa mạc và hoang địa hãy vui mừng, đồng cỏ hoang hãy hoan hỉ và nở hoa; hãy nở hoa như cây thuỷ tiên, hãy tràn đầy hân hoan và niềm vui! Hoang địa sẽ được vinh quang của núi Liban, và vẻ tráng lệ của Carmel và Saron. Chính họ sẽ được thấy vinh quang của Chúa, và vẻ tráng lệ của Thiên Chúa chúng ta.
Hãy nâng đỡ những bàn tay mỏi mệt, và hãy làm vững mạnh những đầu gối rã rời. Hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối sẽ chảy nơi đồng vắng. Ðất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước. Hang dã thú nơi chó rừng ẩn náu sẽ trở thành vườn lau vườn sậy.
Nơi ấy sẽ có những con đường người ta sẽ gọi là thánh lộ, không tội nhân nào được qua đường đó; đường này sẽ thuộc về các ngươi, và những kẻ ngây thơ sẽ không lạc lối. Ðường ấy sẽ không có vết chân sư tử, và không ác thú nào đi trên đường này, chỉ những kẻ được giải phóng đi trên đó thôi. Những kẻ được Chúa cứu thoát sẽ trở về, và vào thành Sion với lời ca vang, cùng với triều thiên hân hoan trên đầu họ. Họ sẽ được niềm vui và hoan hỉ; họ không còn đau khổ và than van.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14
Ðáp: Này đây Chúa chúng ta sẽ đến và cứu độ chúng ta (Is 35, 4d).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. - Ðáp.

Alleluia: Lc 3, 4. 6
Alleluia, alleluia! - Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 5, 17-26
"Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, Chúa Giêsu đang ngồi giảng, có cả những người biệt phái và tiến sĩ luật từ các làng mạc xứ Galilêa, xứ Giuđêa và Giêrusalem đến nghe Người, và Người dùng quyền lực của Thiên Chúa chữa nhiều người. Người ta khiêng một người bất toại đến, họ tìm cách vào nhà để đặt người bất toại trước mặt Người. Nhưng không tìm được lối vào, vì dân chúng quá đông, họ liền trèo lên sân thượng và thả người bất toại xuống giữa cử toạ trước mặt Chúa Giêsu. Thấy lòng tin của họ, Người nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!"
Các luật sĩ và biệt phái bắt đầu lý luận rằng: "Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?" Chúa Giêsu biết rõ điều họ suy tính, liền nói với họ: "Sao các ngươi lại nghĩ trong lòng như vậy? Nói rằng: "Các tội của ngươi đã được tha", hay nói: "Ngươi hãy đứng dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Song (như thế là) để các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất". Người nói với người bất toại rằng: "Ta bảo ngươi, hãy chỗi dậy vác giường về nhà".
Tức thì anh ta chỗi dậy vác giường đi về nhà và ca tụng Thiên Chúa. Ai nấy đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa; họ kinh sợ và nói: "Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ lùng".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Về phương diện thể lý, anh bất toại này nghèo vì anh không làm được gì cho bản thân mình, mọi sự phải nương nhờ người khác. Thế nhưng tâm hồn anh ta rất giàu vì có một niềm tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Chính nhờ niềm tin đó đã giúp anh bám chặt vào Chúa và được chữa lành.

Cầu Nguyện:
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha, vì chúng con đã được diễm phúc làm con Cha, được sống trong ân sủng của Cha. Thế nhưng, đức tin nơi chúng con vẫn còn lu mờ vẩn đục. Niềm tin của anh bất toại này đã làm thức tỉnh chúng con. Xin cho dù giữa những thăng trầm trong cuộc sống, chúng con luôn vững tin rằng Cha vẫn hằng yêu thương che chở. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Tỉnh Thức Và Ðợi Chờ

Trong chuyện rất ngắn có tựa đề: "Ðồng Vọng Ngược Chiều" được đăng trong tuyển tập rất ngắn do Nhà Văn xuất bản. Tác giả Lã Tế Sanh có kể lại chuyện gặp gỡ vô cùng cảm động giữa hai người mù. Một lão bà mù ăn xin và một bé gái mù cũng ăn xin:
- Bên một đống rác lớn, bà lão van vỉ nài nỉ khách qua đường giúp đỡ, nhưng không có một hồi âm nào ngoài tiếng vo ve của mấy con nhặng xanh đang tranh ăn trên một chiếc lá bánh. Bà lão tiếp tục van vỉ: vẫn điệp khúc cũ, nhưng càng về sau càng thắm thiết não nề, những câu nói rời rạc như chạy ra từ cái miệng dúm dó xệch xạc của bà.
- Trong khi đó thì tại một gốc cây sấu già, một bé gái ăn xin mù lòa đang thiu thỉu ngủ, nằm lăn lóc bên cạnh, bộ ngực gầy trơ của con bé thấp thỏm. Nó gối đầu trên cái túi dúm dó khâu bằng bốn năm loại vải cũ, sờn, một cái bát sắc hoen rỉ, làn áo cáu bẩn nhầu nát. Từ sáng tới giờ chưa có gì trong bụng cho nên bé Chi đói rũ người, nó hy vọng giấc ngủ xua đuổi tan cái đói. Mọi ngày vào tầm này, mẹt ra nó cũng xin đủ tiền mua hai cái bánh mì, hôm nay xấu quảy thế nào chỉ được tờ 200 đồng mất góc.
Bỗng bé Chi giật thót người, có một bàn chân nào đó dẫm lên người nó, đang lúc đói, mệt, nó gầm lên:
- Mù à! Người ta nằm thế mà dẫm lên.
Bà lão ăn xin mù lại van vỉ:
- Bà mù! Bà mù thật cháu à! Thôi bà đã trót. Cho bà xin.
Lặng đi một lát. Bé Chi đưa hai tay sờ mặt mình, từ hai hốc mắt của nó, những giọt nước mắt mặn chác rỉ ra. Nó ngập ngừng:
- Cháu! Cháu xin lỗi bà: cháu không biết bà như thế.
Bà lão ngút ngoắc cái đầu như thể chấp nhận rồi tiếp tục đi về phía có đông người. Ngẫm ngợi điều gì đó lung lắm, bé Chi lấy trong túi áo ra tờ giấy bạc 200 đồng mất góc quả quyết:
- Bà ơi! Cháu bảo bà này (bà lão dừng ngay lại). Bà ơi! Cháu biếu bà.
Nhưng gió thổi, lá rơi vào nón, bà lão ngộ nhận cô gái trác mình, còn cô gái thì lại chờ mãi vẫn không thấy bà lão nhận tiền.
*
* *
Quí vị và các bạn thân mến,
Chuyện rất ngắn trên đây có thể gợi lên cho chúng ta một ít suy nghĩ về Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa của đợi chờ và tỉnh thức. Hai nhân vật mù trên đây quả thực có thể gợi lên cho chúng ta một thái độ đợi chờ và tỉnh thức theo đúng nghĩa của Tin Mừng.
Cụ già mù lỡ dẫm lên chân của cô gái đã có thể mở miệng khiêm tốn nói lên hai tiếng xin lỗi. Cô gái mù không những biết mở miệng xin lỗi cụ già lại còn biếu tặng cho cụ già phần mình kiếm được giữa lúc bụng không có lấy một hạt cơm. Xem ra những người mù trong câu chuyện còn sáng suốt hơn chính những người khỏe mạnh vẫn tiếp tục mù điếc trước những nỗi khổ và những lời van vỉ của những kẻ túng cùng.
Mùa Vọng là mùa của đợi chờ. Sự đợi chờ của mùa vọng xoay quanh ba biến cố: Chúa Giêsu đã đến - Ngài đang đến và Ngài sẽ đến trong ngày sau hết: Ðã đến, đang đến và sẽ đến đối với Chúa Giêsu cũng là một. Hôm qua, hôm nay và mãi mãi Ngài vẫn là một, cho nên người tín hữu Kitô luôn luôn tỉnh thức để đợi chờ ngày Ngài đến trong từng biến cố của cuộc sống.
Ðợi chờ và tỉnh thức chính là biết luôn sẵn sàng đợi chờ và đón nhận Ngài trong từng con người, nhất là những người cùng khổ. Cuộc sống như thế là một đợi chờ và tỉnh thức triền miên. Nó không cần có những biến cố lớn để trở thành đáng sống mà được dệt bằng muôn vàn những gặp gỡ từng ngày, từng phút, từng giây, trong đó, một cử chỉ nhỏ như một lời chào hỏi, một tiếng xin lỗi, một lời cám ơn, một ánh mắt chào đón, một nụ cười tươi, cũng đủ để trở thành một gặp gỡ với Chúa Kitô.

(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần II MV
Bài đọc: Isa 35:1-10; Lk 5:17-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tội lỗi

Truyền thống Do-Thái tin có một sự liên hệ giữa tội lỗi và hình phạt. Một ví dụ điển hình là chủ đề chính của các Sách Tiên Tri: vì Israel phạm tội bất trung với Thiên Chúa, nên Ngài đã dùng Assyria và Babylon như roi để sửa phạt họ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn họ bị tiêu diệt muôn đời, nhưng muốn họ ăn năn hối cải để được sống. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah cho thấy hình ảnh huy hòang khi dân chúng biết ăn năn xám hối, họ sẽ được trở về từ nơi lưu đày và được gặp gỡ Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế mà các tiên tri nói tới. Ngài có năng quyền chữa lành mọi bệnh phần hồn (tội lỗi) và phần xác.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Niềm vui vì được cứu độ
1.1/ Sự khác biệt giữa 2 cuộc sống: có Chúa và không có Chúa.
(1) Khi có Chúa can thiệp, sa mạc khô cằn trở nên vùng đất phì nhiêu: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Liban, vẻ rực rỡ của núi Carmen và đồng bằng Sharon. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.”
(2) Con người có can đảm để sống: “Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em."”
(3) Mọi bệnh tật sẽ được chữa lành: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.”

1.2/ Chỉ có những ai tay sạch lòng thanh mới được tiến về Núi Thánh: Kẻ dữ sẽ không được trở về: “Ở đó sẽ có một đường đi mang tên là thánh lộ. Kẻ ô uế sẽ chẳng được qua. Đó sẽ là con đường cho họ đi, những kẻ điên dại sẽ không được lang thang trên đó.” Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.

2/ Phúc Âm: Này anh, anh đã được tha tội rồi!
2.1/ Năng quyền chữa bệnh của Đức Kitô: Không ai có thể phủ nhận năng quyền chữa bệnh của Đức Kitô, ngay cả các Kinh-sư và Biệt-phái. Điểm đặc biệt trong trình thuật của Tin Mừng Luca hôm nay là cách thức họ đưa bệnh nhân đến với Chúa Giêsu và cuộc đối thọai giữa Chúa Giêsu với các Kinh-sư và Biệt-phái về năng quyền tha tội của Ngài.
“Một hôm, khi Đức Giêsu đang giảng dạy, có mấy người Biệt-phái và Kinh-sư ngồi đó; họ từ khắp các làng mạc miền Galilee, Judah, và Jerusalem đến. Quyền năng Chúa ở với Người, khiến Người chữa lành các bệnh tật. Bỗng có mấy người khiêng đến một bệnh nhân bị bại liệt nằm trên giường, họ tìm cách đem vào đặt trước mặt Người. Nhưng vì có đám đông, họ không tìm được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả người ấy cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giêsu.”

2.2/ Năng quyền tha tội của Đức Kitô: Cuộc đối thọai của Chúa Giêsu và các Kinh-sư cùng Biệt-phái tập trung trong đề tài chính là Chúa Giêsu có quyền tha tội không? Để chứng minh cho họ thấy Ngài vừa có quyền chữa bệnh vừa có quyền tha tội; nói cách khác, Ngài chính là Thiên Chúa; Chúa Giêsu dùng 2 niềm tin của họ để dẫn họ đến những điều họ phải chấp nhận.

(1) Niềm tin thứ nhất: tội lỗi và hình phạt. Truyền thống Do-Thái tin có sự liên hệ giữa tội lỗi và hình phạt; bệnh tật có thể là do tội của cá nhân đó hay cha mẹ anh ta, vì “đời cha ăn mặn, đời con khát nước” (Jn 9:2, 34). Sách Xuất Hành tin cơn giận của Thiên Chúa sẽ gíang xuống tới 5 đời con cháu (Exo 20:5).
(2) Niềm tin thứ hai: chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đối thọai với họ về năng quyền tha tội, khi Người bảo anh bại liệt: "Này anh, anh đã được tha tội rồi." Các Kinh-sư và các người Biệt-phái bắt đầu suy nghĩ: "Ông này là ai mà nói phạm thượng như thế? Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?" Điều họ nghĩ không sai: chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội (Isa 43:25, 55:7). Bất cứ ai tự nhận mình có quyền tha tội là phạm thượng, vì đã tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
(3) Lý luận của Chúa Giêsu: Hình phạt được tha là tội lỗi được tha. Theo thủ tục của tòa án, hình phạt chỉ ra sau khi đã kết án tội phạm; nếu chánh án tuyên bố tha bổng, đương sự không có tội gì nữa. Ngay cả trong trường hợp đang xảy ra: Nếu các Kinh-sư và Biệt-phái tin hình phạt là do tội lỗi gây ra, họ cũng phải tin nếu hình phạt (bệnh liệt) bị lấy đi, tội lỗi cũng được tha.
Chúa Giêsu thấu biết họ đang suy nghĩ như thế, nên Người lên tiếng bảo họ rằng: "Các ông đang nghĩ gì trong bụng vậy? Trong hai điều: một là bảo: "Anh đã được tha tội rồi!" hai là bảo: "Đứng dậy mà đi!" điều nào dễ hơn? Đối với họ, điều dễ là điều thứ nhất; đối với Chúa Giêsu, cả hai điều đều dễ dàng. Ngài có cả quyền chữa lành và quyền tha tội.
(4) Hệ quả thứ nhất: Đức Kitô có quyền tha tội. Chúa Giêsu nói với họ: “Vậy, để các ông biết ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Tôi truyền cho anh: Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà!" Ngay lúc ấy, người bại liệt trỗi dậy trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa.
(5) Hệ quả thứ hai: Đức Kitô là Thiên Chúa. Nếu các Kinh-sư và Biệt-phái thành tâm theo niềm tin của họ tới cùng, đó là: “Không ai có quyền tha tội ngòai Thiên Chúa;” họ sẽ nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa, vì Ngài vừa có năng quyền chữa bệnh vừa có năng quyền tha tội. Nhưng họ đã không nhận ra những gì mà tòan dân nhận ra, vì sự ghen tị của họ: “Mọi người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau: "Hôm nay, chúng ta đã chứng kiến những chuyện lạ kỳ!"”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta không thể đón Chúa với tâm hồn tội lỗi, vì Chúa là Đấng vô cùng Thánh Thiện (I Jn 1:5).
- Con người chúng ta ai cũng phạm tội; vì thế, chúng ta cần xưng thú tội lỗi trước khi được tha thứ và giao hòa với Thiên Chúa. Nếu ai nói mình không phạm tội, người đó là kẻ nói dối và sự thật không có trong họ (I Jn 1:8).
- Chúa Giêsu có quyền tha tội, và Ngài ban cho các môn đệ và các linh mục (những người kế vị) quyền cầm giữ và tháo cởi (x/c Mt 16:19, Lk 24:47, Jn 20:23). Chỉ cần chuẩn bị một thời gian ngắn và xưng thú tội lỗi, chúng ta sẽ được Chúa ngự vào lòng.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Thứ Hai tuần 2 Mùa Vọng
Sứ điệp: Người ta đã khiêng người bại liệt đến cùng Chúa Giêsu. Họ dỡ ngói và thả người ấy xuống. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu đã tỏ dấu yêu thương người bại liệt ấy. Chúa vẫn hằng sống, Ngài sẵn sàng tỏ dấu yêu thương chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đến với Chúa đem theo những người thân trong gia đình. Con đến với Chúa đem theo mọi người trên thế giới: những con người mỏng dòn và đầy khuyết điểm. Con đang rẽ qua các lo toan, qua các công việc, qua mọi cảnh huống, qua cả những mệt nhọc sau một ngày lao động, và qua cả những khuynh hướng muốn an nhàn nghỉ ngơi thoải mái, con rẽ qua và cố gắng vượt mọi khó khăn để đến với Chúa. Con biết Chúa đến không phải vì mục đích trần tục, vật chất, nhưng vì yêu chúng con và muốn giải thoát chúng con khỏi chứng bại liệt thiêng liêng, khỏi những tính hư tật xấu. Như Chúa đã tha tội cho người bại liệt, thì xin Chúa cũng thương tha thứ những yếu đuối của con và những người con yêu mến.
Chính vì Chúa nhìn thấy tình thương và lòng tin của những người khiêng, mà Chúa đã làm cho người bại liệt được khỏi. Con cũng muốn thực sự yêu thương và hy sinh giúp đỡ, để đưa người khác đến với Chúa. Xin Chúa giúp con.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để tỏ cho con biết bộ mặt thật của Thiên Chúa: bộ mặt “Yêu thương tha thứ” chứ không phải bộ mặt hình sự hay bộ mặt kết án. Ngày ngày biết bao người thuộc mọi lứa tuổi và bậc sống hằng được Chúa cho “chỗi dậy” nhờ quyền năng vô hình của ân sủng cứu độ. Xin cho con luôn biết tin tưởng và đầy lòng thống hối mà đến cùng Chúa. Amen.
Ghi nhớ:"Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng".
www.phatdiem.org

10/12/12 THỨ HAI TUẦN 2 MV
Lc 5,17-26

MONG CHỜ BẰNG LÒNG TIN
"Vì có đám đông, họ không tìm được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả người ấy cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giê-su".(Lc 5,19)
Suy niệm: Người ta thường nói: “Hữu sự vái tứ phương.” Các người thân của người bại liệt này không vái tứ phương mà họ tin, tin vào Đức Giêsu có quyền năng chữa lành mọi bệnh tật. Ngay cả khi mọi ngõ ngách vào nhà đã bị bịt kín, họ vẫn tìm ra một lối đi “không giống ai”, đó là dỡ mái nhà, đưa người bại liệt xuống “trước mặt Chúa Giêsu” để được Ngài chữa lành. Lòng khao khát được chữa lành được đức tin thúc đẩy khiến họ đã nghĩ ra những phương thức mà bình thường chẳng ai nghĩ ra, dám có những hành động mà sự thường chẳng ai dám làm. Họ đã mở một “lối đi” riêng mà chỉ những người có lòng tin mới “sáng kiến” ra. Trước lòng tin này, Đức Giêsu đã ban cho họ điều họ mong chờ, là chữa lành người bại liệt.
Mời Bạn: Mùa Vọng là mùa mong chờ: mong chờ Chúa lại đến trong vinh quang khi tưởng niệm Chúa giáng sinh trong xác phàm. Mong chờ không phải là ngồi há miệng chờ sung, mà là vạch một con đường hành động đưa mình đến với tha nhân và đưa tha nhân cùng với mình đến với Chúa. Lòng mong chờ trong niềm tin được hiện thực hoá bằng việc làm của đức tin, vì: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17).
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày suy niệm Lời Chúa, bạn hãy quyết tâm làm một việc cụ thể, dù nhỏ, để thực thi Lời Chúa đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, để chữa bệnh cho một người có khi Chúa dùng đức tin của những người khác. Xin cho chúng con có một đức tin mạnh mẽ để chúng con đưa tha nhân đến với Chúa.
www.5phutloichua.net

Đứng dậy mà đi
Mùa Vọng là thời gian trỗi dậy, ra khỏi sự bất toại và bước đi. Có những bệnh bất toại về mặt thiêng liêng, khiến tôi không đến gần Chúa được, cũng không dám đến với anh em. 
Suy nim:
Bệnh tật nơi thân xác con người
có thể tượng trưng cho một thứ bệnh tật nào đó nơi tinh thần.
Ít người mắc bệnh câm, nhưng ai cũng có kinh nghiệm về sự câm nín,
do sợ hãi của chính mình hay do bị đe dọa bắt phải im.
Ít người mắc bệnh điếc, nhưng lại có quá nhiều cuộc đối thoại
mà hai bên chẳng hiểu nhau, vì mất khả năng nghe.
Người mù không phải chỉ là người không thấy ánh mặt trời,
nhưng còn là người không dám thấy ánh sáng của sự thật,
không nhận ra hình ảnh người anh em nơi khuôn mặt kẻ thù.
Không phải ai cũng có bàn tay khô bại, không duỗi ra được,
nhưng ai cũng có lần thấy mình khó đưa tay ra để bắt tay người khác.
Đức Giêsu đã chữa cả thảy bao nhiêu bệnh nhân, chúng ta không biết.
Nhưng chắc Ngài đã không dừng lại ở việc chữa lành thân xác.
Ngài muốn một sự lành mạnh nơi toàn diện con người.
“Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai” (Is 35, 6).
Lời của ngôn sứ Isaia trong bài đọc 1 đã ứng nghiệm.
Khi anh bại liệt trỗi dậy, vác giường và đi một mạch về nhà,
chúng ta thấy niềm vui bừng tỏa trên khuôn mặt của anh và các bạn.
Cả gia đình của anh cũng sẽ ngập tràn hạnh phúc
khi thấy anh trở về, đi đứng như một người bình thường.
Nhưng có điều họ không nhận ra đó là chuyện anh được tha tội.
Đức Giêsu đã tha tội cho anh dù anh không xin,
vì điều anh quan tâm chỉ là sự bất toại thể lý.
Nhưng tâm hồn anh đã bước đi,
trước khi đôi chân anh đi được.
Sự trỗi dậy của anh là sự trỗi dậy của cả hồn lẫn xác.
Đức Giêsu có cơ hội để tỏ cho nhóm các luật sĩ và Pharisêu thấy
không nhất thiết phải đi gặp tư tế và dâng lễ đền tội mới được tha.
Chỉ bằng một lời nói đơn sơ dễ dàng, Ngài có quyền ban ơn tha thứ.
Chính việc anh bất toại được chữa lành làm chứng về quyền năng này.
Ngược với thái độ tin tưởng táo bạo của anh bất toại và các bạn,
là thái độ thụ động ngồi của các luật sĩ và Pharisêu.
Họ cứng nhắc trong suy nghĩ truyền thống của mình :
chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha tội.
Họ không tin Đức Giêsu được chia sẻ quyền ấy từ Cha,
dù họ đã tận mắt thấy anh bất toại đi được.
Mùa Vọng là thời gian trỗi dậy, ra khỏi sự bất toại và bước đi.
Có những bệnh bất toại về mặt thiêng liêng,
khiến tôi không đến gần Chúa được, cũng không dám đến với anh em.
Có những bất toại về trí tuệ khiến tôi bị kẹt
trong những định kiến, thiên kiến, thành kiến,
không dám mở ra để đón nhận những sự thật bất ngờ và đáng sợ.
Có những bất toại về tình cảm khiến tim tôi như bị cầm tù,
không sao thoát khỏi được chuyện yêu ghét oán hờn dai dẳng.
Xin Giêsu giải phóng tôi, cho tôi khỏi bất toại, để tôi được tự do.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng".
 Chữa người bất toại, Quyền tha tội.
Một buổi sáng tháng 7/1971, tại một thành phố bên Hoa kỳ, một người đàn ông đã đến nộp mình tại một trạm cảnh sát gần nhà. Ông thú nhận đã giết một người đàn bà cách đó 21 năm. Ông cho biết trong 21 năm qua, ông không bao giờ chợp mắt được mỗi khi màn đêm phủ xuống. Ông nói: “Chỉ vì một phút say sưa, tôi đã biến 21 năm qua thành một cơn ác mộng. Giờ đây sau khi thú nhận tội lỗi, tôi cảm thấy thanh thản trong lương tâm, tôi cảm thấy như được tái sinh”.
Những câu chuyện nộp mình và thú nhận tội lỗi như trên đây không phải là chuyện hiếm có trong lịch sử nhân loại. Riêng với người Kitô hữu, đó là một phần của cuộc sống đức tin. Trong những cao điểm của năm phụng vụ, lời nhắc nhở của Giáo Hội về nghĩa vụ này lại càng tha thiết hơn. Đặc biệt mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội khẩn khoản kêu mời chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giáng sinh, Chúa của Hòa bình. Làm sao chúng ta cảm nhận được bình an trong tâm hồn, nếu tội lỗi vẫn còn đè nặng lương tâm của chúng ta?
Có lẽ, vì muốn nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của Bí tích giao hòa, mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe việc Chúa Giêsu chữa lành một người bất toại. “Này anh, tôi anh đã được tha rồi”. Lời khẳng quyết của Chúa Giêsu với người bất toại cho chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của niềm tin được tuyên xưng bởi chính miệng anh và đám đông khiêng anh đến trước mặt Chúa. Thật thế, tuyên xưng niềm tin trước tiên là nhìn nhận thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Ngày nay, nhiều người đã có lý để liên kết cơn khủng hoảng đức tin với việc đánh mất ý thức tội lỗi. Quả thực khi con người không còn ý thức về tội lỗi nữa, thì điều đó cũng có nghĩa là trong sâu thẳm của tâm hồn, con người cũng không còn cảm nhận được mối liên kết của mình với Thiên Chúa nữa. Đánh mất ý thức về tội lỗi cũng có nghĩa là gạt bỏ Thiên Chúa và chối bỏ những giá trị siêu việt trong cuộc sống.
Tuyên xưng đức tin không những là nhận ra thân phận tội lỗi, bất toàn của mình, nhưng còn là nhìn nhận quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa. Chỉ một mình Thiên Chúa Đấng tạo dựng con người mới có thể tái tạo, nghĩa là tha thứ cho con người. Tha thứ đối với con người là tái lập một quan hệ đã bị phá vỡ. Còn đối với Thiên Chúa, tha thứ chính là tái tạo, là ban lại một sức sống mới đã bị đánh mất. Quyền năng tái tạo ấy của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện qua các phép lạ của Ngài, nhất là các phép lạ chữa bệnh tật con người. Qua các phép lạ ấy, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho con người, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tái tạo con người. Đó là lý do tại sao trong phép lạ chữa người bất toại, Ngài đã nói đến hành động tha thứ của Thiên Chúa.
Được Thiên Chúa tha thứ, được Thiên Chúa cứu rỗi, được Thiên Chúa tái tạo để biến thành một tạo vật mới, đó là sứ điệp quan trọng nhất mà Chúa Giêsu đã mang đến cho con người. Ngày nay, qua Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng không ngừng nói với chúng ta sứ điệp ấy. Qua Giáo Hội, Ngài không ngừng nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với các bệnh nhân và những người tội lỗi đương thời của Ngài: “Hãy can đảm lên, tôi con đã được tha”. “Ta cũng không kết án con”.
Mùa Vọng, tâm hồn chúng ta cảm thấy rạo rực hân hoan vì bầu khí chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh. Những chuẩn bị bên ngoài là cần thiết để gợi lên cho chúng ta ý nghĩa đích thực của Lễ Giáng sinh. Chúa Giêsu đã Giáng sinh là để chúng ta được sinh lại, được tái sinh. Chúng ta cần được Ngài tha thứ và tái tạo, do đó không có chuẩn bị nào cần thiết hơn là đến với Ngài trong Bí tích giải tội để được ơn tha thứ. Vào cuối đời, Đức Gioan XXIII đã ghi lại trong nhật ký của Ngài: “Có hai ngõ dẫn chúng ta vào thiên đàng: một là tấm lòng trong sạch, hai là sự thống hối. Là những con người yếu đuối mỏng dòn, không ai trong chúng ta dám nghĩ đến ngõ thứ nhất, tuy nhiên chúng ta có thể tin chắc vào ngõ thứ hai, Chúa Giêsu đã đi qua ngõ ấy”. Ngài đã mang lấy Thập giá để đền bù tội lỗi chúng ta và mời gọi chúng ta bước theo Ngài. Nhưng theo Ngài cũng có nghĩa là sám hối, chấp nhận mỗi ngày cần được thanh tẩy thêm.
Ước gì Bí tích giải tội mà chúng ta sốt sắng lãnh nhận trong mùa vọng này đem lại cho chúng ta bình an đích thực, bình an mà các Thiên thần loan báo trong đêm Giáng sinh:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 Chúng ta không có tội ư?
“Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội- Đức Giêsu bảo người bại liệt-: tôi truyền cho anh: hãy đứng dậy, vác lấy gường của anh mà đi về nhà”. Ngay lúc ấy, người bại liệt chỗi dậy trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa. (Lc. 5, 24-25)
Thật đáng kinh ngạc, Đức Kitô suốt đời bận tâm lo lắng cho các tội nhân. Thánh Mát-thêu nói với chúng ta rằng: “Chính là để cứu dân mình khỏi tội lỗi, Người đã sinh ra bởi Đức Nữ đồng trinh Maria” (Mt. 1, 21). Thánh Phao-lô quả quyết: “Đức Kitô đã chết cho chúng ta là những kẻ tội lỗi” (1Cor. 15, 3). Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Kitô đã chữa người tê liệt để cho chúng ta biết rằng: “Con Người có quyền tha tội trên trái đất”.
Khi chúng ta ý thức mình thật sự là kẻ tội lỗi, chúng ta sẵn sàng xưng thú tội lỗi, mới là bằng chứng tốt đẹp nhất.
Từ nhiều năm nay, có nhiều cái thay đổi rất lớn. Chẳng những chúng ta không xưng tội - mà có thể nói hơn nữa - càng ngày chúng ta càng mất ý thức về mình là kẻ tội lỗi. Chúng ta đã đi từ thái cực này đến thái cực kia: xưa đã thấy tội ở khắp nơi. “Nay không có tội nữa”, ngày nay người ta nghe nói như thế.
Có chắc như vậy không? Nếu chúng ta có can đảm và lương thiện xét mình một cách nghiêm chỉnh dưới ánh sáng của Tin mừng, chúng ta sẽ thấy ngay rằng chúng ta cần được tha thứ thường xuyên.
Thiên Chúa muốn chúng ta sống cho người khác, còn chúng ta lại luôn luôn chỉ nghĩ đến mình. Thiên Chúa muốn chúng ta hướng tới những người đau khổ và chia sẻ với những người xấu số hơn mình; còn chúng ta vẫn sống keo kiệt về thời giờ, tiền bạc, tình yêu. Thiên Chúa mong cho chúng ta là những chứng nhân Tin mừng trong thế gian; còn chúng ta quá e dè đỏ mặt vì mình là người Kitô hữu.
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Nếu chúng ta cho mình là không có tội, chúng ta đã tự lừa dối mình, và sự thật không có ở trong chúng ta” (1Ga. 1, 8)
Để cử hành Thánh lễ, cần phải sống trong sự thật.
J.Y.G.



Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
10 THÁNG MƯỜI HAI
Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm
‘Vô Nhiễm’ không duy chỉ có nghĩa rằng Đức Maria đã được dành cho một chỗ đặc biệt trên tất cả số còn lại của chúng ta. ‘Vô Nhiễm’ cũng không có phải là Mẹ được tách ra khỏi tất cả chúng ta – là những kẻ phải chịu di lụy của tội nguyên tổ.
Phải nói hoàn toàn ngược lại mới đúng. Mẹ đứng ở giữa cuộc chiến thiêng liêng chống lại Vua của Tối Tăm và Cha của Dối Trá – là kẻ thù của người phụ nữ và miêu duệ người phụ nữ.
Qua Sách Sáng Thế, chúng ta có thể nhìn thấy Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm với tất cả sự thật của việc Mẹ được tuyển chọn. Chúng ta có thể nhìn thấy Mẹ ở tột đỉnh của mối thù ấy: dưới chân Thập Giá Chúa Kitô trên đồi Canvê. Chính ở đó mà ‘Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi cố cắn gót chân Người’. Trả giá bằng chính mạng sống mình, Đức Kitô đem lại cho chúng ta sự chiến thắng trên Satan, trên tội lỗi và sự chết.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Is 35, 1-10; Lc 5, 17-26.

LỜI SUY NIỆM: “Và kìa có mấy người khiêng đến một bệnh nhân bị bại liệt nằm trên gường, họ tìm cách đem vào đặt trước mặt Người” (Lc 5,18).
          Trong câu chuyện mấy người cùng khiêng một người bại liệt đến với Chúa Giêsu để xin Ngài chữa lành, khi gặp trở ngại bởi đám đông họ không thể đến gần được, họ đã trèo lên mái nhà, lật mái để thòng bệnh nhân trước mặt Chúa, điều này chắc có rất nhiều người cho là khùng điên. Trong xã hội ngày hôm nay, giữa chúng ta biết bao nhiêu tổ chức từ thiện họ cũng đang làm như vậy, như là thực hiện căn nhà tình thương, căn nhà mơ ước, vượt lên chính mình, lục lạc vàng, trái tim cho em… và còn rất nhiều chương trình phục vụ người nghèo và người khuyết tật nữa, nhưng rồi có rất nhiều người lại cho đó là cách quảng bá thương hiệu để làm giàu. Còn mỗi người của chúng ta thì sao? Trong khi Giáo hội đặt chúng ta trước một nguyên tắc sống “Ưu tiên chọn lựa người nghèo”
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
10 Tháng Mười Hai
Quyền Con Người

Ngày mùng 10 tháng 12 năm 1948, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc đã long trọng tuyên bố bản tuyên ngôn quyền con người... Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử nhận loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như một nghĩa vụ trường kỳ.
Khoản 1 và 2 của bản tuyên ngôn nhân quyền đã khẳng định rằng: Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng trong phẩm giá và quyền lợi, và mỗi một cá nhân, không phân biệt chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc dân tộc hay xã hội... đều được hưởng mọi quyền lợi và tự do, được công bố trong bản tuyên ngôn.
Trong 21 khoản đầu của tuyên ngôn, chúng ta có thể kể ra những quyền cơ bản sau đây: quyền được sống, được tự do và được đảm bảo an ninh cá nhân, quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền không bị tra tấn hay chịu những hình phạt độc ác, vô nhân đạo hay chà đạp phẩm giá con người, quyền được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, quyền được nại đến sự xét xử của những tòa án quốc gia có thẩm quyền, quyền không bị bắt giữ, giam cầm hay dày ải trái phép, quyền không bị độc đoán vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, quyền được đi lại, quyền được cư trú, quyền được một quốc tịch, quyền được kết hôn và lập gia đình, quyền được sở hữu, quyền được tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do phát biểu, tự do hội họp.
Ðó là một số những quyền và tự do cơ bản của con người.
Bản tuyên ngôn nhân quyền đã được công bố một thời gian ngắn sau đệ nhị thế chiến. Thảm kịch của chiến tranh đã cho nhân loại mỗi lúc một hiểu rằng hòa bình chỉ thực sự có khi con người biết tôn trọng quyền lợi và tự do căn bản của con người. Ngược lại, nơi nào quyền con người bị phủ nhận và chà đạp, thì cho dẫu không có chiến tranh đẫm máu, người ta chỉ sống trong một thứ hòa bình giả tạo mà thôi.
Nhìn nhận và tôn trọng quyền con người là bổn phận hàng đầu của người Kitô chúng ta vì chúng ta tin nhận rằng con người đã được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa và được cứu rỗi bằng chính Máu của Ðức Kitô. Ðó là tất cả phẩm giá của con người.
Với ý thức ấy, người Kitô luôn được kêu mời để nhận ra hình ảnh và sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi người và mỗi người, nhất là những người kém may mắn, cùng khổ nhất.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Edward Desmond được đăng trên tạp chí Time số ra ngày 04 tháng 12 năm 1989, Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 vì công tác phục vụ người nghèo tại Ấn Ðộ, đã xác quyết về công cuộc của Mẹ: đó là cái nhìn tôn trọng đối với người nghèo. Ðược hỏi: ơn cao trọng nhất mà Chúa đã ban cho Mẹ là gì? Vị sáng lập dòng Nữ Tử Thừa Sai Bác Ái đã đáp gọn: "Ðó là người nghèo". Bởi vì, theo Mẹ Têrêxa, với người nghèo Mẹ có dịp ở với Chúa Giêsu 24 giờ mỗi ngày. Mẹ nói: "Họ là Chúa Giêsu đối với tôi. Tôi tin tưởng ở điều đó còn hơn là làm những điều lớn lao cho họ".
Nhìn những người nghèo, những người cùng khổ, những người bị xã hội tước đoạt mọi quyền lợi và bị đẩy ra bên lề, như chính hiện thân của Chúa Giêsu: đó phải là cái nhìn và động lực của mọi hoạt động của người Kitô chúng ta. Tôn trọng nhân quyền, bệnh vực nhân quyền là thế đó.
(Lẽ Sống)
Ngày 10 tháng 12
THÁNH MENKIAS,  GIÁO HOÀNG TỬ ĐẠO
GH.Melchiades

Sử liệu không để lại gì về đời thơ ấu của thánh nhân, song bằng vào công việc và nhân đức lúc trên ngai Giáo hoàng, người ta có thể đoán rằng buổi thiếu thời, Đức Menkias đã có một đời sống trong sạch đạo đức và một trí khôn minh mẫn. Ngài kế vị Đức Giáo Hoàng Êuxêbiô và ở Toà thánh Phêrô trong giai đoạn chót các cuộc bách hại công giáo nghĩa là khoảng từ năm 311 đến 314.
Ý thức tình trạng khó khăn, Giáo hội đang phải trải qua và nhiệm vụ cao cả của ngôi Giáo hoàng, Đức Menkias cố gắng đem hết tài lực ra làm vinh danh Chúa và dẫn dắt giáo hữu khỏi những điều sai lầm có nguy hại đến đức tin hay luân lý.
Thời ấy, lương dân có thói quen giữ chay ngày thứ năm và chủ nhật, vì tin rằng giữ chay vào những ngày đó sẽ đem lại nhiều hạnh phúc tránh được nhiều rủi ro. Thói quen ấy dần lan rộng và gây nên một phong trào đến nỗi nhiều giáo hữu ở Rôma đã đua theo. Nhận thấy các giáo hữu đã không giữ chay những ngày luật định, hơn nữa lại đã có sự lầm lạc gần như mê tín về ý nghĩa và công hiệu của việc chay tịnh, Đức Giáo Hoàng liền ra một thông điệp giảng dạy cho giáo dân hiểu rõ mục đích việc giữ chay, đồng thời ngài ngăn cấm giáo dân không được hùa theo thói tục của lương dân.
Mặc khác, đó cũng là thịnh đạt của lạc thuyết Manikê chủ trương có hai nguyên lý: một cho sự thiện và một cho sự ác. Học thuyết này cũng đã lôi cuốn được rất nhiều người mê theo, nhất là đám thanh niên và trí thức. Không thể để tình trạng này kéo dài được nữa, ngài liền gắng sức cầu nguyện xin Chúa xuống ơn và nỗ lực lấy lời lẽ khôn ngoan giảng khuyên những người con lạc đường ấy mau về nhà Cha. Kết quả thật vẻ vang, chỉ trong một thời gian ngắn, giáo đoàn Rôma lại duy nhất trong một đức tin, một chân lý và sốt sắng ganh đua nhau giữ đạo thánh Chúa.
Với tấm lòng cha chung rộng như trời bể, ngài còn nhìn rộng xem xa khắp các giáo đoàn trên thế giới, để hướng dẫn giáo hữu theo đúng con đường Chúa Kitô đã vạch. Nhận thấy bên Tây Ban Nha có sự hiểu nhầm về hai phép bí tích: rửa tội và thêm sức, Đức Thánh Cha liền gửi thư cho các Đức Giám mục Tây Ban Nha, đại ý ngài khuyên các đấng trọng quyền ưu tiên của Giáo hoàng, cũng như các thánh tông đồ xưa đã phục tùng thánh Phêrô, sau đó ngài cắt nghĩa cho các đấng hiểu rõ hiệu quả, giá trị của từng phép bí tích rửa tội và thêm sức. Ngài nhấn mạnh rằng: phép bí tích rửa tội cần thiết hơn phép thêm sức, vì nếu không chịu phép rửa tội, người ta không thể được rỗi linh hồn. Lại nhận thấy có sự lạm dụng trong việc thi hành phép thêm sức, nên ngài nhấn mạnh rằng thừa tác viên phép thêm sức phải có chức cao quý và xứng đáng, nên từ đó chỉ ai có chức Giám mục mới được ban nhiệm tích ấy.
Ngoài sự lo lắng về vấn đề đức tin và các phép bí tích, ngài còn lo chấn chỉnh hàng giáo phẩm và tăng cường số giáo sĩ. Vì thế ngài đã mở công đồng hàng tỉnh tại Nêôcêsarê để bàn về việc đó. Đồng thời ngay trong tháng chạp, ngài đã phong chức cho 11 Giám mục, 6 linh mục và 5 phó tế.
Tới khi Giáo hội được hưởng những ngày bình an do sắc lệnh của Hoàng đế Constantinô thì Đức Menkias lại nhắm mắt từ trần yên hàn trong tay Chúa Kitô ngày 10 tháng 12 năm 313. Ngài cai trị Giáo hội 2 năm 2 tháng 7 ngày.
Tuy ngài không được đổ máu ra để tuyên xưng đức tin, nhưng Giáo hội đã coi ngài như đấng tử đạo vì suốt đời ngài đã chịu nhiều đau khổ vì đạo Chúa, nhất là trong cuộc bách hại lâu dài của Mácximianô.
Thi hài ngài được mai táng trong đất thánh Calixtô trên đường đi Apia.
Ta hãy học nơi thánh Giáo hoàng Menkias lòng mạnh dạn can đảm tuyên xưng đức tin, và sốt sắng trong việc tông đồ, dù phải đau khổ hay bách hại, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì tin yêu Chúa Giêsu Kitô.
www.tinmung,net

Thứ Hai 10-12
Chân Phước Honoratus Kosminski
(1829 - 1916)

N
gài sinh ở Biala Podlaska (Ba Lan), và học về kiến trúc tại trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi Wenceslau lên 16 tuổi thì mồ côi cha. Vì bị tình nghi là có tham gia trong nhóm phản loạn, ngài bị bắt và bị cầm tù từ tháng Tư 1846 đến tháng Ba năm sau. Năm 1848, ngài gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Honoratus Kosminski. Năm 1855 ngài giúp Chân Phước Mary Angela Truszkowska thành lập dòng Nữ Tu Felix.
Năm 1860, Cha Honoratus làm giám đốc một tu viện ở Warsaw. Ngài dành mọi nỗ lực trong việc rao giảng, hướng dẫn tinh thần các đệ tử sinh và giải tội. Ngoài ra ngài còn làm việc không biết mệt cho dòng Ba Phanxicô.
Cuộc cách mạng năm 1864, nhằm lật đổ Nga hoàng Alexander III, đã bất thành đưa đến việc đàn áp các dòng tu ở Ba Lan. Các tu sĩ Capuchin bị đẩy ra khỏi Warsaw và buộc phải sống ở Zakroczym, là nơi Cha Honoratus tiếp tục sứ vụ của ngài và thành lập 16 tu hội nam cũng như nữ, mà các thành viên không phải mặc áo tu sĩ cũng như không phải sống trong khuôn viên của tu hội. Họ sinh hoạt giống như các tổ chức dòng ba bây giờ. Cho đến nay, vẫn còn mười bảy tu hội ấy hoạt động.
Các văn bản của Cha Honoratus thì vô số kể: 42 tập bài giảng, 21 tập thư tín và 52 ấn bản thần học về sự khổ hạnh, sự sùng kính Ðức Maria, về lịch sử, về mục vụ -- chưa kể các thư từ ngài viết cho các tu hội mà ngài sáng lập.
Vào năm 1906, một vài giám mục tìm cách đưa các tu hội ấy dưới thẩm quyền của họ; Cha Honoratus chống lại quyết định đó để bảo vệ sự độc lập của các tu hội, và ngài bị cách chức giám đốc vào năm 1908. Sau đó, ngài khuyên các thành viên của các tu hội hãy vâng phục quyết định của Giáo Hội dù tương lai có ra sao.
Một người đương thời với ngài cho biết, Cha Honoratus "luôn luôn bước đi trong con đường của Thiên Chúa." Vào năm 1895, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Ðại Diện cho các tu sĩ Capuchin ở Ba Lan. 
Ngài được phong chân phước năm 1988.
Lời Bàn
Chân Phước Honoratus đã làm việc hăng say để phục vụ Giáo Hội, một phần qua việc thiết lập các tu hội nhằm đáp ứng với hoàn cảnh đặc biệt của Ba Lan thời bấy giờ. Ngài đã có thể rút lui một cách cay đắng và oán hờn khi đường hướng các tu hội ấy bị tước đoạt khỏi tầm tay; nhưng ngài đã coi đó là những "niềm vui tuyệt đối." Ngài khuyên các thành viên hãy sẵn sàng và vui vẻ vâng phục, đem khả năng của mình để phục vụ Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô.
Lời Trích
Khi Giáo Hội lấy đi quyền điều khiển các tu hội của ngài và thay đổi đường hướng các tu hội ấy, Chân Phước Honoratus viết: "Ðấng Ðại Diện Ðức Kitô đã cho chúng ta biết thánh ý của Thiên Chúa, và tôi lãnh nhận mệnh lệnh này với đức tin& Anh chị em thân mến, hãy nhớ rằng đây là cơ hội để anh chị em chứng tỏ sự tuân phục một cách quả cảm đối với Giáo Hội."
www.nguoitinhuu.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét