Trang

Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2012

15-12-2012 : THỨ BẢY TUẦN II MÙA VỌNG


Thứ Bảy Tuần II Mùa Vọng

Bài Ðọc I: Hc 48, 1-4. 9-11
"Elia sẽ đến lần thứ hai".
Trích sách Huấn Ca.
Bấy giờ Elia như lửa hồng xuất hiện. Lời ông nóng bỏng như ngọn đuốc cháy phừng. Ông đem cho họ một mùa đói khát, và số người hiềm ghét ông đã hao đi, vì chúng nó chẳng giữ được giới răn Chúa. Do lời Chúa phán, ông đóng cửa trời và ba lần khiến lửa từ trời xuống. Elia, người được vinh quang nhờ các việc lạ lùng đã làm, và ai có thể tự hào được vinh quang như người? Người đã được cất đi trong bầu lửa, trong xe bởi ngựa lửa kéo đi. Người đã nên dấu chỉ sự đe phạt qua các thời đại, để làm nguôi cơn thịnh nộ Chúa, để giao hoà cha với con, và chấn hưng lại những chi họ Giacóp. Phúc cho những ai thấy ngài và được hân hạnh thiết nghĩa với ngài.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4).
Xướng: 1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con. - Ðáp.
2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình. - Ðáp.
3) Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa, Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài. - Ðáp.

Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ngày của Thiên Chúa gần đến; này đây, Người sẽ đến cứu chúng ta. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 17, 10-13
"Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi xuống núi, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu rằng: "Tại sao các luật sĩ lại nói Elia phải đến trước đã?"
Chúa Giêsu trả lời: "Thật Elia phải đến để chấn hưng mọi sự. Và Thầy bảo các con, Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ".
Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Những người Do Thái đang mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng khi Gioan rao giảng về Ngài, họ lại không chấp nhận. Ðiều làm họ không nhận ra vì họ nghĩ rằng Ðấng Cứu Thế sẽ đến theo nghĩa chính trị, sẽ giải thoát họ khỏi cái khổ trần gian. Nhưng Gioan rao giảng về Ðấng quá bình thường đến nỗi họ không thể chấp nhận và còn chống đối.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, các vua chúa trần gian thì ăn mặc gấm vóc lụa là, có kẻ hầu người hạ... còn Chúa, Chúa là vua cả vũ trụ có trọn quyền hành trong tay, thế mà Chúa lại sống rất bình thường, khiêm hạ. Chính sự bình thường đó khiến con người không nhận ra dung mạo Chúa nữa. Xin Thánh Thần Chúa hướng dẫn chúng con biết nhìn ra dung mạo của Ðức Giêsu qua những người anh em hèn mọn trong chúng con. Amen.

Họ Không Nhận Ra Ngài

Lời Chúa đối với mỗi người đều có một ý nghĩa riêng áp dụng cho người đó trong cuộc sống hiện tại của mình. Chúa Thánh Thần là Ðấng soi sáng cho chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về chân lý niềm tin, cho nên Ngôi Ba được gọi là Thần Chân Lý và mỗi người đều múc lấy ý nghĩa sống cho mình qua Lời Chúa. Tuy nhiên, vì trình độ mỗi người khác nhau, vì hoàn cảnh mỗi nơi mỗi khác cho nên có thể hiểu Lời Chúa sai lệch đi.
Chúa Giêsu trao quyền rao giảng Lời Chúa cho Giáo Hội qua thánh Phêrô, vị đại diện tối cao của Giáo Hội tiên khởi và kế tiếp là trao cho các Tông Ðồ cho đến ngày nay. Cho nên chúng ta thấy trong Do Thái giáo, các luật sĩ là những người cắt nghĩa luật Chúa và họ đã nói với các môn đệ Chúa Giêsu: "Elia phải đến trước đã". Theo truyền thuyết, Elia là một tiên tri đại diện cho các tiên tri trong Cựu Ước, không chết nhưng được đưa về trời và sau này ông sẽ trở lại và các luật sĩ cắt nghĩa: Cần phải đợi Elia trở lại đã.
Chúa Giêsu cũng xác nhận với các môn đệ: "Thật, Elia phải đến để chấn hưng mọi sự". Elia ấy chính là Gioan Tẩy Giả đã rao giảng sự ăn năn thống hối, hãy sửa lối đi cho ngay thẳng, lối đi quanh queo hãy san cho bằng. Những nơi gồ ghề, hố sâu hãy lấp cho bằng thì mọi người sẽ thấy ơn cứu độ. Gioan tiền hô đã đi trước để dọn đường cho Chúa Kitô sẽ đến sau, Ngài đến để mang ơn cứu độ xuống cho trần gian và một số môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu để xem Ngài, đồng thời Gioan cũng đã xác định vị thế của mình trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Con người của Gioan Tẩy Giả thật là khiêm nhường trong vị thế của ông: "Còn tôi, tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người". Gioan Tẩy Giả mang sứ mệnh như tiên tri Elia trong Cựu Ước nhưng cũng là một con người ăn chay hãm mình trong rừng vắng, khiêm nhường, đơn sơ trong công việc dọn đường cho Ðấng Cứu Thế sẽ đến.
Thật là một tấm gương cao quí đáng cho chúng ta bắt chước noi theo. Gioan Tẩy Giả không cao trọng nhờ sự lạ lúc sinh ra nhưng cao trọng do sứ mệnh dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến mà ông đã làm trong sứ mệnh của mình. Trong ngục tối, ông dám nói thẳng sự thật, dám làm chứng nhân cho Thiên Chúa ở giữa trần gian.
Chúa Kitô đến mang sứ mệnh cứu rỗi của Thiên Chúa Cha. Người ta không nhận ra Người, và người ta cũng đối xử với Ngài như các tiên tri trong Cựu Ước, đó là bắt bớ, đánh đập, hành hạ và sau cùng bị lãnh bản án tử hình treo trên thập giá một cách nhục nhã đau thương.
Bao nhiêu năm tháng chờ đợi Ðấng Cứu Thế đến, trải dài trong Cựu Ước vậy mà khi Ngài đến con người đã không nhận ra Ngài. Mỗi người chúng ta đôi lúc cũng đã không nhận ra Ngài trong cuộc sống, chúng ta vẫn nhớ Lời Chúa nhắc với chúng ta: "Ai làm cho một kẻ bé mọn nhất trong anh em ấy là làm cho chính Ta".
Những kẻ bé mọn đó là ai? Thưa, họ là những người mà Chúa Giêsu đã nói: :Ta đói các con cho Ta ăn, Ta khát các con cho Ta uống. Ta rách rưới các con đã cho áo mặc. Khi Ta ở tù các con đã viếng thăm". Lời nói của Chúa Giêsu làm mỗi người trong chúng ta suy nghĩ và tự nhận: Ailà anh em tôi? Không phải những ai xa lạ, không phải là những ai ở xa để rồi chúng ta không thấy được. Không phải là những bậc giàu có sang trọng trong xã hội, những người thiếu thốn, những người chạy gạo ăn bữa hôm lo bữa mai, những người không có thân nhân bà con, không mái nhà che mưa che nắng vào những trưa hè nóng oi bức, vào những cơn mưa tàn tã của thời tiết thu đông.
Mỗi người trong chúng ta tự hỏi như người luật sĩ và biệt phái trong Phúc Âm hỏi Chúa Giêsu: "Nhưng ai là anh em tôi?" Chúng ta cùng nhau xin Chúa cho chúng ta biết rõ, cảm nhận một cách sâu xa hơn câu trả lời của mình trong Mùa Vọng này để chúng ta đi đến niềm nở với người anh chị em, cùng nhau nắm chặt bàn tay thân ái đón mừng Chúa đến.
Lạy Chúa, Gioan Tẩy Giả đến để chuẩn bị cho Chúa mang ơn cứu độ đến. Xin cho mỗi người trong chúng con chuẩn bị tâm hồn trong sáng hân hoan để đón Chúa đến trong chúng con và trong gia đình thân yêu của chúng con. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết yêu thương nhau, chia sẻ cho nhau tất cả tinh thần và vật chất để trọn niềm vui mừng đón chờ Chúa đến. Amen.

(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần II MV
Bài đọc: Sir 48:1-4, 9-11; Mt 17:10-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tiên Tri Elijah và Gioan Tẩy Giả

Tiên-tri Elijah sống vào thời Vua Ahab (874-853 BC), một thời kỳ hưng thịnh về vật chất, nhưng đời sống tâm linh sa sút trầm trọng. Nhà Vua đã cưới công chúa Ideven, ái nữ của Vua Sidon, lại còn tuyên bố thờ thần Baal. Chính Vua đã lập một bàn thờ để kính Baal trong đền thờ Vua đã xây cất tại Samaria (I Kgs 16:30-33). Vì Vua mà hầu hết dân chúng đã bỏ Thiên Chúa để tôn kính các thần ngọai bang. Tiên-tri Elijah được Thiên Chúa sai tới để khiển trách Vua và khuyên dân phải ăn năn trở lại cùng Thiên Chúa.
Gioan Tẩy Giả sống vào thời Nước Do-Thái bị đô hộ bởi Đế-quốc Roma và tòan dân đang mong đợi Đấng Thiên Sai đến giải phóng dân tộc khỏi tay Đế-quốc và lên ngôi cai trị dân chúng. Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa sai tới để chuẩn bị đường cho Đấng Cứu Thế, và người ta tuôn đến với ông để nghe giảng, thú nhận tội lỗi, và chịu Phép Rửa để được tha tội.
Hai ông có nhiều điểm giống nhau: ăn uống nghiệm nhặt, ở trong sa mạc, mặc áo lông lạc đà. Lời rao giảng như lửa đốt cháy lòng người. Sứ vụ của các ông là chuẩn bị đường cho Thiên Chúa đến: các ông chuẩn bị bằng lời rao giảng để mang lòng cha ông trở lại cùng con cháu. Các Bài đọc hôm nay tập trung vào cuộc đời của 2 ông. Bài đọc I nói về cuộc đời của Tiên-tri Elijah. Phúc Âm nói về cuộc đời của Gioan Tẩy Giả. Chúa Giêsu tuyên bố và các môn đệ nhận ra: Gioan Tẩy Giả chính là Tiên-tri Elijah mà truyền thống Do-Thái đã tin ông phải đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Cuộc đời Tiên-tri Elijah

1.1/ Sự xuất hiện của Tiên-tri Elijah: Ông xuất hiện trong đám lửa (Sir 49:1) và ra đi cũng trong đám lửa (Sir 49:4). Lời rao giảng của ông cũng nóng cháy như lửa: “Ông là vị ngôn sứ chẳng khác nào ngọn lửa, lời của ông tựa đuốc cháy bừng bừng.”
Ít có Tiên tri nào làm được nhiều phép lạ như ông: Một số các phép lạ của Elijah làm được kể lại trong Sách Các Vua:
(1) Tiên-tri đóng cửa trời không cho mưa rơi xuống trong 3 năm trong thời Vua Ahab. Sách Đức Huấn Ca nhắc lại những gì xảy ra trong Sách Các Vua (x/c I Kgs 17:1-18:46): “Ông khiến cho nạn đói hoành hành trong dân, và do lòng nhiệt thành, ông làm cho số dân giảm bớt. Ông dùng lời Thiên Chúa mà đóng cửa trời.”
(2) Tiên tri truyền cho hũ bột của Bà góa thành Zarephath sẽ không vơi cho tới khi Chúa làm cho mưa trở lại; vì Bà đã tin tưởng làm bánh cho tiên tri ăn (I Kgs 17:14).
(3) Tiên-tri cũng nhân danh Thiên Chúa làm cho đứa con trai của Bà sống lại sau 3 lần nằm trên nó (I Kgs 17:1-24).
(4) Tiên-tri cầu nguyện và khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi của lễ hy sinh trong cuộc thách thức với các tiên tri của thần Baal và thần Aserah, để chứng minh Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa độc nhất (I Kgs 18:23-38).
(5) Ba lần, Tiên-tri khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi 3 người sĩ quan và 150 quân lính của các ông, được sai tới để bắt Tiên-tri về trình diện Nhà Vua. Chỉ lần thứ tư, khi người sĩ quan năn nỉ thay vì truyền lệnh, người sĩ quan và 50 lính của ông mới thóat chết bởi lửa từ trời (II Kgs 1:1-15); sau đó Tiên-tri mới chịu đi xuống gặp Vua Ahaziah.
Trong tất cả các Tiên-tri của Cựu-Ước, Tiên-tri Elijah được coi là Tiên-tri sáng giá nhất, vì các phép lạ ông đã làm như lời Sách Đức Huấn Ca tôn vinh Tiên-tri: “Thưa ông Elijah, ông đã làm bao việc lạ lùng, ông thật là vinh quang hiển hách! Ai có thể tự hào được nên giống như ông?”

1.2/ Sự ra đi của Tiên tri Elijah: Sau khi đã hòan tất sứ vụ, Tiên-tri đã không phải chết như bao người, nhưng đã được Thiên Chúa mang đi như lời Sách Đức Huấn Ca nói hôm nay: “Ông đã được cất lên giữa đám lửa xoáy như cơn lốc, trên chiếc xe do những ngựa đỏ như lửa kéo đi.” Thiên Chúa mang Tiên-tri đi đâu không ai biết. Nhiều người nói ông được Thiên Chúa giấu trên một ngọn núi cao. Truyền thống Do-Thái tin ông không chết, và ông sẽ trở lại trước Ngày Đấng Thiên Sai đến, để chuẩn bị đường cho Ngài. Họ cũng tin Mose không chết; do đó, trong Đền Thờ, họ luôn đặt hai ghế trống: một cho Mose và một cho Elijah.

1.3/ Sự trở lại của Tiên-tri Elijah: Vì Tiên-tri Elijah không chết, nên ông sẽ trở lại như trình thuật của Sách Đức Huấn Ca hôm nay: “Trong những lời khiển trách vào thời sẽ đến, ông đã được nêu danh, để làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa trước khi cơn thịnh nộ bùng lên, để đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu, và tái lập các chi tộc Jacob. Phúc cho ai được nhìn thấy ông, và cho kẻ được an nghỉ trong tình yêu Thiên Chúa, vì cả chúng tôi, chắc chắn cũng sẽ được sống (Sir 48:10-11). Tiên-tri Malachi cũng tường thuật sự trở lại của Tiên-tri Elijah trong phần Phụ-chương (Mal 3:23-24).

2/ Phúc Âm: Gioan Tẩy Giả chính là Tiên-tri Elijah.
Trình thuật của Thánh-sử Matthêu chúng ta đọc hôm nay là sau biến cố “Chúa Giêsu biến hình” trên Núi Tabor. Các môn đệ đã được nhìn thấy Chúa Giêsu biến hình và đàm đạo với Moses và Elijah. Là người Do-Thái, các môn đệ biết rõ truyền thống tin về Tiên-tri Elijah. Vì thế, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu: "Vậy tại sao các Kinh-sư lại nói Elijah phải đến trước?" Người đáp: "Ông Elijah phải đến để chỉnh đốn mọi sự. Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Elijah đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế." Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu muốn nói với các ông hai việc:
(1) Truyền thống đúng trong việc tin Elijah đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế: Chính Gioan Tẩy Giả đã tự nhận mình là sứ giả đến dọn đường cho Đấng Cứu Thế khi bị chất vấn bởi các Kinh-sư và Biệt-phái: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaiah đã nói.” Cách ông dọn đường là sửa sọan tâm hồn mọi người để họ xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng có những người Do-Thái cứng lòng không tin ông. Vua Herode đã truyền chém đầu ông vì ông đã dám nói sự thật để bảo vệ luân lý gia đình. Sau khi đã nghe những lời cắt nghĩa của Chúa Giêsu, các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gioan Tẩy Giả chính là hiện thân của Tiên-tri Elijah.
(2) Truyền thống sai trong việc hiểu về cách Tiên-tri Elijah (Gioan Tẩy Giả) và Đấng Cứu Thế sẽ dùng để chinh phục nhân lọai: Họ tin là các ngài sẽ dùng sức mạnh để hủy họai những người không tin; nhưng các Ngài lại dùng đau khổ và hy sinh để chinh phục những người không tin. Chúa Giêsu không đến để tiêu diệt những kẻ tội lỗi, nhưng đến để chinh phục họ về cho Thiên Chúa bằng yêu thương tha thứ và bằng cái chết đau khổ của Ngài. Như thế gian đã dùng quyền lực để giết chết Gioan Tẩy Giả, họ cũng dùng quyền lực để giết Đấng Cứu Thế.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Các Tiên-tri được sai tới là vì dân chúng đã lạc xa đường lối của Thiên Chúa. Bổn phận của các Ngài là dùng lời rao giảng và phép lạ kèm theo để đưa dân trở về với Thiên Chúa.
- Cách đưa con người về với Thiên Chúa không bằng dùng sức mạnh để bắt ép và tiêu diệt, nhưng bằng lời rao giảng về sự thật, yêu thương, và tha thứ.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Thứ Bảy tuần 2 Mùa Vọng
Sứ điệp: Đứng trước lịch sử hoặc các sự kiện xảy ra trong đời, chúng ta thường hời hợt và cắt nghĩa nông cạn. Ta cần phải tìm hiểu Thánh Ý Chúa. Hãy đến để hỏi Chúa Giêsu như các môn đệ xưa.
Cầu nguyện: Chúa ơi, Chúa có đau lòng không, khi Chúa đến giữa Dân Chúa mà Dân Chúa không nhận ra Chúa là Đấng phải đến ? Chỉ vì họ đã cắt nghĩa lời hứa của Chúa Cha một cách hẹp hòi. Họ cứ chờ đợi Ê-li-a phải đến trước.
Trong cuộc sống con, chắc chắn con không từ chối tiếp nhận Chúa đến với con  dưới hình ảnh một vị Vua uy nghi. Nhưng hằng ngày Chúa đến với con thật  sự, mà con lại dửng dưng. Con không thấy hấp dẫn và cần thiết mấy. Nhiều khi con còn coi như bị mất giờ nữa. Nếu con hiểu được sự hiện diện cao siêu của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, chắc mỗi lần đến với Chúa, con phải chuẩn bị kỹ lưỡng. Nếu con hiểu được sự hiện diện của Chúa trong những người nghèo khổ, chắc con đã không khinh miệt họ. Chúa đang đến với con qua những lần con gặp gỡ những ai bệnh tật, nhưng con ít khi nhìn ra Chúa.
Vâng, lạy Chúa Giêsu, các thánh khác chúng con ở chỗ: các ngài luôn nhận ra Ý Chúa trong bất cứ cảnh sống nào, và luôn nhận ra khuôn mặt của Chúa trong bất cứ người nào.
Xin cho Mùa Vọng năm nay mang lại cho con sự khôn ngoan chân thật của Chúa để con biết nhận ra Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Xin cho con luôn thấu hiểu Thánh Ý Chúa đầy tình yêu thương trong mọi cảnh sống. Amen.
Ghi nhớ: "Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông".
www.phatdiem.org
15/12/12 THỨ BẢY TUẦN 2 MV
Mt 17,10-13

SỨ MẠNG NỐI TIẾP SỨ MẠNG
Chúa Giê-su nói :"Ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phariddau khổ vì họ như thế." Bấy giờ, môn đệ hiểu Người muốn nói về Gio-an Tẩy Giả. (Mt 17,12-13)
Suy niệm: Trong lịch sử nước Mỹ, có hai vị tổng thống, Lincoln và Kennedy, giống nhau một cách kỳ lạ từ cuộc sống, sự nghiệp cho đến cái chết. Người ta liệt kê được hàng chục điểm tương đồng giữa hai bậc danh nhân đó. Trong lịch sử cứu độ cũng có hai nhân vật như thế: Nói đến Gioan Tẩy Giả lại nhớ tới ngôn sứ Êlia. Êlia bị truy nã săn đuổi bởi bà hoàng độc ác Ideven (1V 19,1tt). Gioan cùng chung số phận: bị chém đầu do sự xúi xiểm của Hêrôđia, người phụ nữ lăng loàn (Mt 14,3tt). Gioan không chỉ nối tiếp sứ mạng của “Êlia, người phải đến”. Cuộc sống và cả cái chết của ông còn là một chứng từ cho Đấng phải đến sau ông: Con Người, tức là Đức Ki-tô, sẽ phải chịu đau khổ giống như thế.
Mời Bạn: Liệt kê những điểm giống nhau không phải để mua vui, mà để nhận ra điều Đức Kitô muốn gửi gắm cho bạn: sứ mạng của bạn là tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, là trở thành chứng nhân trung thành cho Ngài trong cuộc sống của bạn, sao cho mọi người nhìn vào công việc bạn làm mà nhận ra sự hiện diện của Ngài.
Chia sẻ: Tính cách nào của Chúa Giêsu đánh động bạn nhất và bạn muốn thể hiện trong cuộc sống của bạn nhất?
Sống Lời Chúa: Trước khi làm một công việc gì, bạn tự hỏi nếu là Giê-su, Ngài sẽ làm công việc này như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, được phụng sự Chúa là vinh dự, được thuộc về Chúa là hạnh phúc đời con. Xin biến đổi con trở nên hiện thân trung thực và sống động của Chúa. Amen.
www.5phutloichua.net

Ê-li-a đã đến rồi
Thế giới hôm nay vẫn cần những ngôn sứ như Gioan, làm chứng bằng lời giới thiệu và bằng đời sống. Lời giới thiệu hấp dẫn nhờ đời sống thanh liêm. Đời sống thu hút nhờ lời giới thiệu soi sáng. 

Suy nim:
Các nhà thông luật, dựa trên ngôn sứ Malaki,
nói rằng Êlia phải đến trước để dọn đường cho Chúa (c. 10),
để “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu,
và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3, 1. 24).
Đức Giêsu nhất trí với họ, nhưng nhấn mạnh:
“Êlia đã đến rồi, và họ đã không nhìn nhận ông,
nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn” (c. 12a).
Theo Đức Giêsu, chẳng cần phải đợi Êlia nữa.
Gioan Tẩy giả chính là Êlia (c. 13).
Gioan đã đến để chỉnh đốn mọi sự (c. 11).
Đời ông đã là một tiếng kêu to trong hoang địa.
Ông mời mọi người sinh hoa trái diễn tả lòng sám hối ăn năn.
Dân chúng đã đổ xô đến với ông như đến với một ngôn sứ,
để thú tội và nhận phép rửa của ông ở sông Giođan.
Ông trở nên nổi tiếng đến độ có người tưởng ông là Đấng Mêsia.
Gioan đã không bao giờ nhận mình là Đấng Cứu thế.
Ông chỉ xin được cúi xuống cởi dây giày
cho Đấng đến sau ông, nhưng cao trọng hơn ông.
Kết cục của đời ông là bị cầm tù (Mt 11, 2),
và sau đó là một cái chết bi đát và đột ngột (Mt 14, 10-12).
Đầu ông rơi dưới tay của Hêrôđê, người vừa sợ, vừa kính nể ông.
Vào Mùa Vọng, chúng ta lại được Đức Giêsu nhắc đến cái chết
của người đã giới thiệu Ngài với chính đồng bào của mình.
Gioan đã chu toàn nhiệm vụ của tiếng, nhưng ông không phải là lời.
Ông là ngọn đèn, nhưng không phải là ánh sáng (Ga 1, 8; 5, 35).
Bạo quyền có thể làm cho tiếng phải im, ngọn đèn phải tắt,
nhưng lời chứng của Gioan thì vẫn còn mãi trong dòng lịch sử cứu độ.
Ông đã sống một đời sống tuyệt vời, hoàn toàn xóa mình,
nên nhân loại hôm nay, qua ông, có thể tin vào Đức Giêsu.
Êlia đã chịu nhiều đau khổ.
Gioan và Đức Giêsu cũng không được nhìn nhận (c.12b).
Số phận của các ngôn sứ trong mọi thời đại đều như nhau.
Họ chịu khổ vì phải nói hay làm một điều gì đó đòi người ta thay đổi.
Họ gây khó chịu cho những người có quyền thế vững vàng.
Nhìn kết cục cuộc đời của Gioan và Đức Giêsu ta thấy khó tin.
Một người chết vì bị xử trảm, một người chết vì bị đóng đinh.
Khó mà tin được một vị là Êlia, vị kia là Mêsia.
Êlia phải quyền thế hơn nhiều, Mêsia thì không hề nếm mùi thất bại.
Để đón lấy một Êlia như Gioan, đón lấy một Mêsia như Giêsu,
phải bỏ những định kiến khô cứng, vì Chúa đi đường chẳng ai ngờ.
Thế giới hôm nay vẫn cần những ngôn sứ như Gioan,
làm chứng bằng lời giới thiệu và bằng đời sống.
Lời giới thiệu hấp dẫn nhờ đời sống thanh liêm.
Đời sống thu hút nhờ lời giới thiệu soi sáng.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông".
Êlia sẽ đến lại.
Ngày 10/11/1948 / Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã long trọng công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Gia nhập Liên hiệp quốc có nghĩa là ký tên vào bản tuyên ngôn này và đương nhiên cam kết bênh vực quyền con người.
Thật ra, chỉ Thiên Chúa là Đấng có thể ban cho con người quyền và phẩm giá được làm người mà thôi. Trong tác phẩm: “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” Đức Gioan Phaolô II đã viết:
“Thật hiển nhiên là quyền con người đã được Đấng sáng tạo ghi khắc trong trật tự của công cuộc sáng tạo. Như vậy chúng ta không thể nói đến những ban nhượng từ phía các tổ chức của con người. Những tổ chức này không làm gì khác hơn là diễn tả những gì chính Thiên Chúa đã ghi khắc trong trật tự Ngài đã tạo dựng: trong lương tâm hay trong quả tim con người như Phaolô đã giải thích trong thư Rôma. Tin Mừng là sự khẳng quyết trọn vẹn nhất về mọi quyền con người. Không có Tin Mừng, chúng ta rất dễ xa lạc với chân lý về con người. Thật thế, Tin Mừng cho thấy các luật thần linh đang bảo toàn trật tự luân lý của vũ trụ và củng cố nó, nhất là qua cuộc Nhập thể. Con người là ai mà Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính con người. Con người phải là ai nếu Con Thiên Chúa đã phải trả một giá đắt nhất cho phẩm giá của nó. Mỗi năm, phụng vụ diễn tả sự thán phục sâu xa của mình khi chiêm ngắm chân lý và mầu nhiệm này trong lễ Giáng sinh cũng như trong đêm Vọng Phục Sinh. “Ôi tội hồng phúc vì ngươi đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu chuộc cao cả”. Đấng Cứu chuộc khẳng quyết quyền con người bằng cách tái lập sự toàn ven của phẩm giá mà con người đã lãnh nhận khi Thiên Chúa tạo dựng nó theo và giống hình ảnh Thiên Chúa.
Những lời trên đây giúp chúng ta hiểu được sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến Êlia, Gioan Tẩy giả và chính thân phận của Ngài. Êlia là hiện thân của một cuộc tranh đấu không ngơi nghỉ cho công bằng và quyền con người, Ngài mở ra một thế hệ các tiên tri luôn lên tiếng tố cáo những bất công và kêu gọi tôn trọng phẩm giá con người, nhất là những người cùng khổ, bị áp bức. Chúng ta cũng bắt gặp dung mạo ấy trong vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước là Gioan Tẩy giả. Lời kêu gọi sám hối của Gioan cũng là một cảnh cáo trước những bất công xã hội và vi phạm nhân quyền, nhất là những người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Chúa Giêsu xuất hiện trong truyền thống tiên tri ấy. Ngài là tiên tri của các tiên tri, Ngài không những lên tiếng tố cáo bất công, mà còn đề cao quyền và phẩm giá cao trọng của con người nơi những kẻ bé mọn, bị đẩy ra bên lề xã hội. “Con Người cũng phải đau khổ như thế”. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá trước hết là một điển hình cho những vi phạm tôn giáo, nhân danh quyền lợi dân tộc và theo một hình thức tố tụng tùy tiện và độc đoán nhất, người ta đã kết án Ngài phải chết cách bỉ ổi nhất. Tuy nhiên, cũng qua cái chết ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện phẩm giá cao cả của con người.
Chân lý của con người đã được thể hiện trong cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết ấy là một lời ngỏ của Thiên Chúa với con người. Con người cao cả đến độ Thiên Chúa đã thí ban người Con Một của Ngài. Dù muốn hay không, không ai chối cãi được rằng ý niệm về nhân quyền như được đề cao trong bản Tuyên ngôn nhân quyền đã cắm rễ sâu trong mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc của Kitô giáo. Người ta không thể hiểu và chấp nhận phẩm giá cũng như các quyền con người, nếu không nhìn nhận nền tảng là con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa và được cứu chuộc bằng chính cái chết của Chúa Giêsu.
Ước gì cái nhìn ấy luôn là động lực thúc đẩy các kitô hữu nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá và quyền con người trong cuộc sống từng ngày nhất là phẩm giá và quyền của những người cùng khổ bị đẩy ra bên lề xã hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tranh cãi của luật sĩ
Nhưng Thầy nói cho anh em biết: Ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo như ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.” Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gioan Tẩy Giả. (Mt. 17, 12-13)
Dân Ít-ra-en cứ tưởng rằng Thiên Chúa sẽ sai Ê-li-a đến dọn đường cho Đấng Thiên sai. Ma-la-ki-a, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước đã viết: “Đây Ta sai Ê-li-a làm sứ giả đến trước ngày quang minh chính đại lạ lùng của Đức Chúa. Ông sẽ hướng con tim của cha ông về cùng con cháu, và hướng con tim của con cháu về những con tim của cha ông kẻo Ta đến chúc dữ xứ này” (3, 23-24). Điều gì sẽ xảy ra nếu lời tiên tri này không thực hiện?
Chính lối tranh luận về lời tiên tri trên mà người ta thường phi bác thái độ cứu thế của Đức Giêsu. Người đã sẵn sàng mất thời gian chịu đựng cách phi thường lối sống cuồng tín lầm lẫn đáng sợ đó.
Đối với môn đệ, Người quả quyết cho các ông biết rằng Ê-li-a đã đến và đã phục hưng tất cả, nhưng Người thêm rằng: Người ta đã không nhận biết ông và còn xử tệ với ông như đã hãm hại tất cả các tiên tri. Ông đã san phẳng những con đường, đã lấp đầy những thung lũng, đã bạt thấp những núi đồi … Ông đã loan báo Đấng đến sau ông. Ngài lớn hơn ông, cầm sàng sẵn trong tay, xẩy sạch các hạt lúa phơi trong sân, đốt sạch rơm rạ, đưa cất những lúa tốt vào kho lẫm của Thiên Chúa … Bấy giờ các môn đệ hiểu Người nói về Gioan tẩy giả.
Đức Giêsu nói về các luật sĩ rằng họ đã không nhận ra dấu chỉ của thời đại, nên họ không thể nhận ra đặc tính của Đấng Cứu thế. Cho nên Con Người sẽ phải chịu khốn khổ bởi họ.
Nếu các luật sĩ cố chấp không hiểu, thì các môn đệ đã hiểu sứ vụ của Người và các ông bắt đầu tìm hiểu lời tiên báo về thập giá.
Chúng ta dễ thấy bực mình về những rắc rối của luật sĩ, vậy chúng ta cần phải thi hành lời Chúa để đáp lại những lý luận của những kẻ mê muội đó. Đức Giêsu đã không ngừng rao giảng sự cứu độ cho cả những tối dạ không biết suy nghĩ đó. Người cũng không ngừng bị cám dỗ chỉ nói cho những kẻ đón nhận lời Người thôi. Chúng ta tuy vào số những người hiểu lời Chúa, nhưng lại nhốt lời Chúa như nhốt tù, không lo sống và rao giảng lời Chúa.
G.M


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
15 THÁNG MƯỜI HAI
Ngài Đã Vượt Qua Mọi Giới Hạn
Một trong những đặc điểm của đức tin Kitô giáo chúng ta, đó là Thiên Chúa hiện diện rất gần gũi chúng ta. Thánh Tông Đồ Phaolô tuyên bố: “Chúa đang đến gần,” và chân lý này không ngừng âm vang trong suốt cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa gần gũi bởi vì Ngài đã tự mạc khải chính Ngài cho con người. Ngài đã ngỏ lời qua các ngôn sứ, và trong thời sau hết, Ngài đã nói qua Con của Ngài (Dt 1,1-2).
Thiên Chúa gần gũi, bởi vì nơi người Con này, nơi Lời vĩnh cửu, Ngài đã trở thành phàm nhân. Sinh hạ tại Bê-lem bởi Đức Trinh Nữ Maria, Đức Giêsu Na-da-rét đã ‘làm việc bằng đôi tay con người, suy nghĩ bằng trí óc con người, đã yêu mến bằng trái tim con người’ – như chúng ta đọc thấy trong một văn kiện của Công Đồng. “Ngài đã thực sự trở nên một người ở giữa chúng ta, giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi” (MV 22). Thậm chí Ngài đã trở thành thấp hèn, vâng phục cho đến chết. Ngài bị xử tử trên Thập Gía. Có thể nói rằng trong hành động tiến tới với con người, Ngài đã vượt qua mọi giới hạn.
Hơn nữa, tiến tới với con người, Ngài đã mặc lấy hình dạng của bánh và rượu trong Bí Tích Thánh Thể. Ngài đã trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Một lần nữa, qua Bí Tích Thánh Thể, Ngài đã vượt qua mọi giới hạn mà con người có thể tưởng tượng ra.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Hc 48, 1-4. 9-11; Mt 17, 10-13.
LỜI SUY NIỆM: “Thầy nói cho anh em biết: ông Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế” (Mt 17,12).
          Sau khi ba môn để chứng kiến sự biến hình của Chúa Giêsu, các ông có nhìn thấy tiên tri Êlia xuất hiện với Thầy mình, và nghe lời công bố của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”. Các ông đã nhận ra và tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nhưng rồi các ông vẫn còn thắc mắc về điều Kinh Thánh nói: trước khi Đấng Mêsia xuất hiện, thì tiên tri Êlia phải đến trước để chỉnh đốn mọi sự. Chúa Giêsu đã cho các ông biết Êlia chính là Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền Hô của Ngài. Qua cái chết của vị Tiền Hô thế nào thì chính Ngài cũng phải chịu như vậy. Nhưng sau cái chết của Ngài, Ngài sẽ Phục Sinh để chiến thắng cái chết đem lại sự sống cho toàn thể nhân loại.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
15 Tháng Mười Hai
Xin Một Chút Ánh Sáng

Triết gia Diogène nổi tiếng là người hạnh phúc nhất trên đời, thế nhưng cuộc sống của ông lại rất đơn sơ nghèo nàn. Ông sống trong một cái thùng, ngày ngày nằm đọc sách nhờ ánh sáng qua lỗ hỏng ở vách thùng. Cơ nghiệp của ông vỏn vẹn chỉ có một cái bát gỗ dùng để múc nước sông mà uống. Thế nhưng, một hôm ra sông để lấy nước, ông thấy có một em bé chăn cừu dùng hai tay để vục nước mà uống. Thế là ông ném cái bát đi và từ đó chỉ dùng tay mà uống nước.
Vua Hy Lạp nghe biết ông là người hạnh phúc nhất đời bèn tìm đến tận nơi để thăm. Thấy ông đang nằm đọc sách, nhà vua lại gần để hỏi xem ông có cần gì không. Diogène không trả lời. Nhà vua hỏi vặn nhiều lần, ông điềm tĩnh trả lời như sau: "Hạ thần chỉ xin bệ hạ một điều và chỉ một điều mà thôi: xin bệ hạ tránh ra để hạ thần có đủ ánh sáng mà đọc sách". Diogène đã đuổi khéo nhà vua vì sợ bị sa vào tròng danh lợi mà mất cái niềm vui thảnh thơi trong cuộc đời thanh bần đơn sơ.
Ai trong chúng ta cũng muốn giàu có. Thế nhưng giàu có không hẳn đem lại hạnh phúc thật sự cho chúng ta. Chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó, chỉ có những ai không coi tiền của như cứu cánh của cuộc đời, những người đó mới thực sự có hạnh phúc.
(Lẽ Sống)
Ngày 15
Đức Maria của Mùa Vọng


Chúng ta chỉ có thể hiểu được Đức Maria, trong mi quan hệ của Mẹ với Đức Giêsu. Lúc đó, chúng ta có thể đọc cuộc đời Mẹ như bản tóm tắt câu trả lời của con người cho sự ước mun và cho những sáng kiến của Thiên Chúa, được biểu lộ trong Đức Kitô. Đức Maria của Mùa Vọng chính là Đấng, trong khiêm nhường và hoàn toàn sẵn sàng, đã sống một mầu nhiệm bị chôn vùi, một mầu nhiệm xác thịt và vô hình, một mầu nhiệm của lời hứa.
 
Tôi yêu mến Đức Maria của Mùa Vọng, vì Mẹ tập trung nơi Mẹ tất cả sự chờ đợi của thế giới sùng đạo. Đừng quên có hàng triệu con người sng rải rác trong hàng triệu năm, và chắc chắn họ cũng mang trong lòng một niềm hy vọng.
 
Tôi yêu mến Đức Maria của Mùa Vọng, vì rõ ràng Mẹ là bàMaria người Do Thái, là con gái Xion, Đấng xuất hiện như bông hoa nở trên đi dc của Dân tộc được chọn. Một Dân tộc đng nhất hoá với những người nghèo của Giavê, đang chờ đợi sự thực hiện Lời Hứa.
 
Cuối cùng, Tôi yêu mến Đức Maria của Mùa Vọng, vì Mẹ là người cưu mang Đng đưa tất cả chúng ta tới đích. Đức Maria là người duy nhất sinh ra Người Con, được công nhận là Con Thiên Chúa. Nhưng Mẹ cũng xut hiện như một người Chị Cả dạy chúng ta rằng: chúng ta ch cho đi điều mà chúng ta nhận được.

Henri Denis
Ngày 15 tháng 12
THÁNH MARIA THÁNH GIÁ ROSA
SÁNG LẬP HỘI DÒNG BÁC ÁI

Ông Clêmentê Rôsa, thân phụ thánh nữ Maria Thánh giá Rôsa là một hiệp sĩ nổi tiếng. Bạn ông là bà công tước Camilla Albani. Hai ông bà sinh hạ được chín người con; Paula Phanxica Maria là người thứ sáu. Paula chào đời ngày mồng 6 tháng 11 năm 1813, và được rửa tội tại nhà thờ thánh Laurensô ngày 22 tháng 12. Nhờ nhân đức của cha mẹ, Paula sống qua những ngày niên thiếu đầy hạnh phúc. Nhưng chưa đầy 12 tuổi, Paula đã phải đau đớn chịu tang mẹ. Mất mẹ, không những Paula mất một nguồn tình yêu, nhưng còn mất một tấm gương sáng ngời nhân đức. Nhưng vốn là người cha có nhiều thiện chí giáo dục con cái, ông Clêmentê tìm mọi cách bù đắp lại cho các con khỏi phải thiệt thòi vì cảnh “gà trống nuôi con”. Ông giao phó các con cho những người bà con thân thuộc có tiếng là đạo đức coi sóc. Nhờ đó, dù sớm mồ côi mẹ, Paula cũng được hưởng một nền giáo dục căn bản. Người ở với một bà dì tại Brescia cho đến năm 17 tuổi mới về nhà giúp việc nội trợ cho cha. Trong suốt 5 năm sống bên người dì thánh thiện, Paula đã thấm nhiễm sâu xa tinh thần tu đức của thánh Phanxicô Salê. Và đó là nền móng đời sống tận hiến và bác ái của người sau này.
Về nhà chưa đầy sáu tháng, Paula đã được lệnh cha bắt phải lập gia đình. Cô bối rối không biết phải xử trí thế nào, vâng lời cha hay phải giữ trọn lời đã khấn với Chúa. Suốt đêm hôm ấy, Paula chỉ thổn thức trong lời cầu nguyện hòa với hai giòng nước mắt. Sáng hôm sau, người đến gặp và kể lại cho cha Faustino Pinzoni rằng: “Thưa cha, con đã khóc rất nhiều, nước mắt con đã thấm đẫm mẫu ảnh chuộc tội và hai trang sách Phúc âm. Con thấy rằng con phải tuân theo lời Chúa phán: “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta”. Xin cha cầu nguyện cho con để con trung thành với ơn Chúa, sống chết với lý tưởng tận hiến và bác ái. Nhờ ơn Chúa và lời khích lệ của cha Faustinô, Paula đã trấn tĩnh và làm dịu được ý định của thân phụ. Ông bằng lòng để con gái được tự do theo tiếng Chúa gọi.
Paula không lập gia đình theo ý cha, nhưng nhất định sống ở nhà lo việc nội trợ giúp đỡ cha một thời gian. Vì cha cô là giám đốc một hãng sợi, nên Paula phải vất vả giúp ngài điều khiển hơn một trăm người làm. Dù chưa đầy 18 tuổi, Paula đã biết xử đối với mọi người một cách rất khôn ngoan và bác ái. Ai ai cũng bằng lòng với cách sống của người. Trăm người như một, họ đều công nhận: Paula là một bà chủ vừa trẻ đẹp, vừa tinh nhanh, đại lượng và nhân hậu. Người ta kể: Tết năm 1833, tất cả thợ làm trong xưởng dệt đã dâng cho Paula một vòng hoa tươi có kết hai chữ “Tận hiến và bác ái”. Coi đó là ý Chúa muốn nhắc mình phải trung thành và tăng cường lý tưởng nên thánh, Paula đã ghi vào sổ nhật ký như sau: “Lạy Chúa, Chúa đã nhắn nhủ con không phải bằng một tiếng, nhưng bằng trăm tiếng của những người thợ. Họ kết những tiếng Chúa dạy con bằng hoa tươi, nhưng con phải ghi những tiếng ấy bằng hi sinh của việc làm trong chính thẩm cung của lòng con”.
Từ đó, Paula hằng tìm cách mở rộng chương trình thực hiện bác ái. Tháng 4 năm 1834, người đã thành lập một hội các bà đạo đức, nhằm mục đích giúp việc truyền giáo trong các họ đạo. Hội này dần dần phát triển và được các cha sở hưởng ứng đặc biệt.
Đến năm 1836, bệnh dịch phát triển tại Ý, sát hại nhiều người nhất là ở chính Brescia quê tổ của Paula. Theo ý của cha Faustinô, người đã xin phép thân phụ ngày ngày đi thăm bệnh nhân trong các nhà thương. Lời nói dịu dàng và cử chỉ săn sóc tận tâm của Paula đã làm cho nhiều người cảm phục. Đặc biệt có mấy người tội lỗi đã vì gương sáng và lời cầu nguyện của người mà tìm lại được ơn Chúa.
 Năm sau, được cha Faustinô bảo trợ, Paula thiết lập một trường học dành riêng cho những người câm điếc. Người lo liệu công việc cho đến khi nhà trường có nề nếp rồi mới trao lại cho các dì phước Canossa điều khiển. Cũng từ đó, người bắt đầu nhận sứ mệnh cải huấn các thiếu nữ xấu nết. Công việc thực nặng nhọc, nhưng tinh thần tận hiến và lòng bác ái theo gương Chúa Kitô đã giúp người thu lượm nhiều kết quả tốt đẹp. Ngoài ra, Paula còn lo lắng dạy đạo lý cho các trẻ em trong xứ. Người rất ưa dạy giáo lý, vì cho đó là dịp thấm nhuần những chân lý căn bản của đời sống thánh thiện. Cộng tác với Paula, có bà quả phụ Gabriel Echenos Bornati và hai thanh nữ đạo đức khác. Những phụ nữ này sẽ là những phần tử đầu tiên trong Hội Bác Ái do Paula thiết lập vào năm 1840, mục đích của Hội là chuyên việc coi sóc bệnh nhân, làm việc tông đồ trong các bệnh viện. Vì thế, ngoài các nhà thương vẫn có, Paula còn xuất tiền ra xây cất một nhà thương đầy đủ tiện nghi tại Brescia để thu nhận các bệnh nhân. Chỉ hơn một năm sau khi thành lập, nhân viên của Hội đã lên tới số 22.
Nhiều vị thượng cấp đạo và đời đã không ngớt lời ca tụng việc làm của Hội từ thiện đó. Tuy nhiên, không phải không có những ngăn trở. Vướng trở đầu tiên là thái độ cứng rắn của chính quyền thành phố Milanô. Vì căn cứ theo một vài báo cáo xuyên tạc, nhà cầm quyền thành phố này nhất định không cho Hội Bác Ái được hợp thức hóa. Để đối phó lại, Paula cương quyết bỏ hẳn các nhà thương, không phụ giúp chính quyền trong việc điều dưỡng các bệnh nhân. Công việc xảy ra đã làm dân chúng náo động và buộc lòng Đức Tổng Giám mục Milanô phải can thiệp. Sau cùng đầy tớ Chúa đã toàn thắng, chính quyền Milanô bằng lòng cho Hội Bác Ái được hợp thức hóa. Ngoài ra chị Paula còn phải đối phó với nhiều trở ngại khác, như lời người đã viết cho chi hội ở Crêmonê: “Vì yêu chúng ta mà Thiên Chúa hằng tiếp tục ban Thánh giá cho chúng ta... Vì thế chúng ta đừng coi việc xảy đến là Thánh giá cuối cùng”.
Năm 1843, ông Clêmentê bằng lòng cho Paula cả khu nhà để làm trụ sở trung ương của hội. Cũng năm ấy, người soạn quy luật và được Đức Giám mục địa phận châu phê. Công việc vừa khá thành tựu thì quả phụ Gabriel và cha Faustinô lần lượt được Chúa gọi về trời để lại tất cả gánh nặng cho Paula.
Ngoài những nhà thương đã quen đảm nhiệm, năm 1844, hội còn phải lo cho hai nhà thương khác, trong số đó có một quân y viện. Chính ở bệnh viện này Chúa đã cho thánh nữ làm một phép lạ mà chúng tôi sẽ tường thuật dưới đây, chứng tỏ nhân đức và sự thánh thiện của chị Paula.
Theo tinh thần bác ái của Chúa Kitô, chị Paula truyền cho các chị em phải săn sóc không những các quân y Ý mà cả những tù binh Áo nữa. Thấy như thế, một số người yêu nước quá khích đã đưa lên mặt báo một loạt bài chỉ trích hội Bác Ái, đặc biệt chị Hội trưởng Paula. Không xem sao những lời chỉ trích, hội nhất định giữ vững tinh thần. Vì thế bầu khí mỗi ngày một căng thẳng. Một buổi chiều kia, họ tổ chức một đám cướp, định vào cướp phá nhà thương. Chị Paula bình tĩnh bảo chị em vào nhà thờ cầu nguyện, còn người thì vác một cây Thánh giá lớn đứng trước cửa chính ra vào nhà thương. Quân cướp hung hăng ùa tới. Nhưng khi trông thấy Paula vác Thánh giá hùng dũng đứng trước cửa, chúng như bị một sức siêu nhiên nào ngăn cản, không ai bảo ai, bọn cướp từ từ lui bước. Nhờ đó bệnh viện được an toàn và phong trào khích bác kia đã bị dập tắt. Cũng từ đó, cây Thánh giá mà Paula đã vác, trở nên cây Thánh giá hay làm phép lạ chữa khỏi nhiều bệnh nhân.
Năm 1849, cha kinh sĩ Luigi Bianchini được cử làm tuyên úy cho hội thay cha Faustinô. Cha tân tuyên úy khuyên chị Paula đệ trình quy luật của hội lên Toà thánh. Vì thế đầu năm 1850, chị Paula đi Rôma yết kiến Đức Giáo Hoàng Piô IX và ngày 24 tháng 10, Toà thánh ban sắc lệnh châu phê và tán thưởng Hội Bác ái. Thế là sau 10 năm hoạt động, Hội Bác ái của chị Paula đã được chính quyền và Toà thánh công nhận. Mùa hè năm 1852, một lớp chị em đầu tiên trong đó có cả Paula, người sáng lập duy nhất, được Đức Giám mục Brescia nhận lời tuyên khấn. Ngoài ba lời khấn vâng lời, khó khăn và trinh khiết, chị em còn thêm lời khấn chuyên lo săn sóc bệnh nhân và tù phạm. Từ nay chị Paula đổi tên là dì phước Maria Thánh giá.
Sau bước tiến lịch sử ấy, Hội Bác ái phát triển mau lẹ. Hầu hết các miền trong địa phận Brescia và các địa phận lân cận đều có cơ sở của Hội. Hội mở thêm nhiều bệnh xá, nhiều cô nhi viện và dưỡng đường. Từ con số 25 chị em khấn đầu tiên, ba năm sau số hội viên đã lên tới 65.
Nhìn thấy những kết quả công việc, dì phước Maria Thánh giá không thể không vui mừng. Dì thường nói với chị em: “Tất cả là của Chúa và do Chúa, Người làm để vinh danh Đấng Kitô và chan hòa niềm vui cho đoàn con cái. Chị em thân mến, chúng ta không thể tự phụ vì những kết quả của công việc, vì đó là do ơn Chúa, nhưng chúng ta phải vui mừng vì đó là dấu của tình yêu Chúa đối với chúng ta”. Hiểu rõ như thế nên người càng hăng hái sống theo tinh thần tận hiến và bác ái hơn. Tên Maria Thánh giá là khẩu hiệu giúp thánh nữ hiên ngang trước mọi thử thách và dấn thân trong mọi công việc. So sánh việc làm vất vả với cái sức khỏe yếu ớt và thân hình quá gầy ốm của người, ai cũng cho đó là một phép lạ. Riêng thánh nữ, người không kể gì đến sức khỏe. Mặc dầu đau ốm, năm 1855 người còn đích thân đem một số chị em đi chăm sóc những người bị bệnh dịch tả và tìm nơi dựng thêm cho hội những cơ sở mới. Trên đường công vụ, thánh nữ đã ngã bệnh tại Mantua và được chị em đưa về Brescia. Sau ba tuần liệt giường, thánh nữ được Chúa đưa về trời ngày 15 tháng 12 năm 1855. Được tin thánh nữ qua đời, hầu hết các chị em Hội Bác ái thuộc 80 nhà đều tuôn về Brescia cùng với dân chúng tổ chức tang lễ trọng thể. Xác người được đặt trong nhà nguyện của chị em. Trên mộ, người ta đặt một tấm bia, ghi những dòng chữ: “Lúc bình sinh người thường nói: Lương tâm tôi không thể yên ngủ bao lâu chưa ngăn ngừa được sự dữ và giúp người ta thực hiện điều lành. Nhưng, toàn thể dân chúng thuộc mọi cấp đều đồng thanh tán tụng rằng: mặc dầu sức khỏe mỏng dòn, người đã hoàn tất trách vụ cao cả là đã hết sức nâng đỡ người góa bụa và những kẻ sa cơ lỡ bước. Người là ân nhân đặc biệt của những thanh thiếu nữ trụy lạc, là mẹ hiền của nhiều trẻ em mồ côi, đau khổ. Nói tắt, người là gương mẫu đời sống bác ái theo tinh thần Phúc âm Chúa Kitô”.
Thánh nữ được phong bậc chân phước ngày 26 tháng 5 năm 1940, và được suy tôn bậc hiển thánh ngày 13 tháng 6 năm 1954, dưới thời Đức Piô XII.
www.tinmung.net
Thứ Bẩy 15-12
Chân Phước Mary Frances Schervier
(1819 - 1876)

N
gười phụ nữ này từng ao ước trở nên một nữ tu dòng Trappist, nhưng Thiên Chúa đã dẫn dắt ngài đến việc thành lập một tu hội cho các nữ tu chuyên lo việc chăm sóc bệnh nhân và người già ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới.
Sinh trưởng trong một gia đình có thế giá ở Aix-la-Chapelle, nước Pháp, sau khi người mẹ từ trần cô Frances coi sóc gia đình, và nổi tiếng là người độ lượng với người nghèo. Vào năm 1844, cô gia nhập dòng Ba Phanxicô. Ðến năm kế tiếp, cùng với bốn người cộng sự, cô thành lập một tu hội chuyên chăm sóc người nghèo. Năm 1851, tu hội Nữ Tu Nghèo Hèn của Thánh Phanxicô được đức giám mục địa phương chấp thuận thành lập; không bao lâu tu hội phát triển mau chóng. Tại Hoa Kỳ, tu hội được thành lập đầu tiên vào năm 1858.
Vào năm 1863, Mẹ Frances sang Hoa Kỳ để giúp các nữ tu chăm sóc các thương binh của cuộc Nội Chiến. Năm 1868, ngài lại sang Hoa Kỳ một lần nữa. Khi thầy Philip Hoever thiết lập tu hội Anh Em Nghèo Hèn của Thánh Phanxicô, thì đó là nhờ Mẹ Frances khuyến khích.
Khi Mẹ Frances từ trần, lúc ấy đã có khoảng 2,500 thành viên của tu hội trên khắp thế giới. Con số ngày càng gia tăng. Họ vẫn còn hoạt động trong các bệnh viện và trung tâm dưỡng lão ngày nay. Mẹ Frances được phong chân phước năm 1974.
Lời Bàn
Người đau yếu, nghèo khổ và già nua thường bị nguy hiểm vì bị coi là thành phần "vô dụng" của xã hội, do đó họ bị quên lãng. Chúng ta cần noi gương Mẹ Frances nếu chúng ta tôn trọng phẩm giá và định mệnh của con người mà Thiên Chúa đã ban cho.
Lời Trích
Năm 1868, Mẹ Frances viết cho các nữ tu, nhắc nhở họ về lời của Ðức Kitô: "Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con thi hành những gì Thầy truyền cho các con... Thầy ban các giới răn này là để các con yêu thương nhau" (Gioan 15:14,17).
Mẹ Frances viết tiếp: "Nếu chúng ta trung thành và hăng say thi hành điều này, chúng ta sẽ cảm nghiệm được chân lý của lời cha Thánh Phanxicô, là người đã nói rằng tình yêu làm vơi bớt mọi khó khăn và làm dịu ngọt mọi cay đắng. Cũng thế, chúng ta sẽ được hưởng những ơn lành mà Thánh Phanxicô đã hứa ban cho con cái của người, trong hiện tại cũng như tương lai, sau khi nhắc nhở họ hãy yêu thương nhau như người đã và đang yêu thương họ."
www.nguoitinhuu.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét