Trang

Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2015

16-02-2015 : THỨ HAI TUẦN VI THƯỜNG NIÊN

16/02/2015
Thứ Hai sau Chúa Nhật 6 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) St 4, 1-15. 25
"Cain xông vào giết Abel em mình".
Trích sách Sáng Thế.
Ađam ăn ở với vợ là Evà; bà mang thai, sinh ra Cain, và nói rằng: "Nhờ ơn Chúa, tôi sinh được người con". Bà sinh ra Abel là em. Abel thì chăn chiên, còn Cain thì làm ruộng. Sau một thời gian, Cain lấy hoa trái đồng ruộng dâng lên cho Chúa. Abel cũng bắt các con vật đầu đàn và lấy mỡ mà dâng lên cho Chúa. Chúa đoái nhìn đến Abel và của lễ ông dâng. Còn Cain và của lễ của ông, thì Chúa không nhìn đến, nên Cain quá căm tức và sụ mặt xuống. Chúa nói với Cain: "Tại sao ngươi căm tức, tại sao ngươi sụ mặt như thế? Nếu ngươi làm lành, sao ngươi không ngẩng mặt lên; còn nếu ngươi làm dữ, thì tội đã kề ở cửa ngươi. Lòng ganh tị thúc đẩy ngươi, ngươi phải chế ngự nó".
Cain nói cùng em là Abel rằng: "Chúng ta hãy ra ngoài". Và khi hai anh em đã ra tới đồng, thì Cain xông vào giết Abel em mình. Chúa phán cùng Cain rằng: "Abel, em ngươi đâu?" Cain thưa: "Tôi đâu có biết! Tôi có phải là người giữ em tôi đâu?" Chúa phán: "Ngươi đã làm gì? Tiếng máu em ngươi từ đất kêu thấu đến Ta. Bây giờ, ngươi bị chúc dữ trên phần đất đã mở miệng hút máu em ngươi do tay ngươi làm đổ ra. Khi ngươi trồng tỉa, đất sẽ không sinh hoa trái cho ngươi. Ngươi sẽ đi lang thang khắp mặt đất". Cain thưa cùng Chúa rằng: "Tội ác tôi quá nặng nề, đâu tôi còn đáng tha thứ. Hôm nay Chúa đuổi tôi ra khỏi mặt đất, tôi sẽ ẩn trốn khỏi mặt Chúa và tôi sẽ đi lang thang trên mặt đất, nhưng ai gặp tôi, sẽ giết tôi". Chúa bảo: "Không có vậy đâu, hễ ai giết Cain, thì sẽ bị phạt gấp bảy lần". Rồi Chúa ghi trên Cain một dấu, để ai gặp hắn, sẽ không giết hắn.
Ađam còn ăn ở với vợ, bà sinh một con trai đặt tên là Seth, bà nói: "Thiên Chúa đã ban cho tôi một đứa con trai khác thế cho Abel mà Cain đã giết".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 49, 1 và 8. 16bc-17. 20-21
Ðáp: Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi (c. 14a).
Xướng: 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. - Ðáp.
2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.
3) Ngươi ngồi đâu là buông lời nói xấu anh em, làm tủi nhục cho người con cùng mẹ với ngươi. Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. - Ðáp.

Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 8, 11-13
"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Dấu lạ của tình thương
Thánh Marcô đặt cuộc tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ không tin.
Ở đây, chúng ta thấy rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép lạ như một trò ảo thuật; Ngài làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.
Khi những người Biệt phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do thái trong thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng tương tự thái độ của Satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, Satan đã bảo Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Ðền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân Do thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của Satan: "Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi". Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt phái, Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ nào để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy mới có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.
Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Ðấng sẵn sàng hy sinh và chết cho người mình yêu.
Dấu lạ cả thể mà có lẽ con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương. Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn, nhân hậu của một Gioan XXIII; hoặc chỉ như một ánh sao băng, người ta khó mà quên được nụ cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Ðức Gioan Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả thể mà con người thời đại đang tìm thấy nơi Giáo Hội.
Trong sự đóng góp khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người chưa nhận biết Chúa Kitô.

Veritas Asia


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần 6 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 4:1-5:25; Mk 8:11-13.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần khiêm nhường biết mình trong mối liên hệ với Thiên Chúa.

Thiên Chúa không mắc nợ gì với con người; trái lại, con người mắc nợ mọi sự với Thiên Chúa. Khi con người tin tưởng nơi Thiên Chúa, con người không thêm điều gì cho Ngài; nhưng niềm tin nơi Thiên Chúa sẽ giúp con người đạt tới cuộc sống đời đời. Cũng thế, khi con người làm việc thờ phượng như tham dự Thánh Lễ, đọc kinh, dâng lễ vật, con người chẳng thêm gì cho Thiên Chúa; nhưng con người sẽ nhận được những lợi ích từ các việc làm này.
Các Bài Đọc hôm nay cho thấy những quan niệm sai của con người trong mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi Cain dâng lễ vật cho Thiên Chúa và không được Ngài đóai nhìn tới; ông tức giận với Thiên Chúa và ghen tị với em mình là Abel, vì Ngài đóai nhìn lễ vật của em ông. Hậu quả là ông đã giết đứa em ruột của mình. Trong Phúc Âm, các kinh-sư thách thức Chúa Giêsu hãy làm phép lạ để họ có thể tin Ngài là Thiên Chúa; Chúa Giêsu thở dài vì thái độ thách thức của họ. Ngài từ chối không làm bất cứ phép lạ nào cho họ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Cain giết Abel, em mình.

1.1/ Nguyên nhân của việc Cain giết Abel: Cain ghen tị với Abel vì Đức Chúa đóai nhìn đến lễ vật của Abel, và không đoái nhìn đến lễ vật của ông. Trình thuật không nêu lý do tại sao Đức Chúa không đóai nhìn lễ vật của Cain, chúng ta chỉ có thể suy đóan qua truyền thống. Của lễ dâng cho Thiên Chúa phải kèm theo một tấm lòng yêu mến, chứ không chỉ dâng cho qua lần chiếu lệ như Lề Luật buộc. Trong thực tế, Abel không phải là nguyên nhân chính sự tức giận của Abel; nhưng vì sự tức giận của Cain với Thiên Chúa, đã đưa đến sự tức giận của Cain với em ông. “Giận cá chém thớt” là vậy; vì không làm gì được Thiên Chúa, nên giết người em yếu đuối để bù lại. Tội giết người này cũng xác nhận bản tính tội lỗi của con người sau lần sa ngã đầu tiên, tội tổ tông.
Thiên Chúa cắt nghĩa cho Cain lý do tại sao con người phạm tội: "Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt? Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chế ngự nó." Tội lỗi luôn rình chờ con người, nhưng con người phải sẵn sàng khắc phục nó bằng sự tự chủ và ý hướng luôn làm điều tốt. Giận dữ và ghen tị sẽ đưa con người đến những tội lỗi lớn hơn.

1.2/ Cain giết Abel và bản án của Thiên Chúa: Khi con người muốn phạm tội, họ tìm nơi hoang vắng để không ai biết việc làm của họ. Cain cũng thế, ông nói với em là Abel: "Chúng mình ra ngoài đồng đi!" Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Cain xông đến giết Abel. Nhưng Cain đã quên đi một Đấng, Người luôn thấu suốt mọi tư tưởng và hành động của ông. Đức Chúa phán với Cain: "Abel em ngươi đâu rồi?" Cain thưa: "Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?" Giống như sự sa ngã ban đầu, phản ứng đầu tiên của con người không bao giờ dám nhận trách nhiệm, họ phủ nhận hành động đã làm như Cain, hay tìm cách tổ tội cho người khác như ông Adam và Bà Evà.
Đức Chúa phán: "Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất." Đối với người Do-Thái, sự sống có được là từ máu, và bắt nguồn từ Thiên Chúa (Lev 17:11-14). Vì Thiên Chúa làm chủ sự sống (Gen 2:7), máu của người vô tội đổ ra sẽ kêu thấu tới Thiên Chúa. Đất có mối liên hệ mật thiết với con người: con người sinh ra từ bụi đất và sẽ trở về bụi đất; đất sẽ sinh thực phẩm cho con người; và tội của con người là lý do làm đất đai sinh gai góc (J).

1.3/ Lòng thương xót của Đức Chúa cho Cain: Con người phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Cain suy nghĩ về các hậu quả của việc giết em và thưa với Đức Chúa: "Hình phạt dành cho con quá nặng không thể mang nổi. Đây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con."
Hình phạt đầu tiên Cain phải chịu là trốn tránh Thiên Chúa và con người. Xua đuổi khỏi mặt đất là xua đuổi khỏi nơi hoang vắng, chỗ ở của ma quỉ và tội nhân. Kẻ giết người sẽ luôn ở trong tình trạng lẩn trốn: trốn Thiên Chúa, con người, và chính mình. Truyền thống tin Đức Chúa hiện diện cách đặc biệt với dân của Ngài. Không có sự hiện diện của Đức Chúa, mạng sống con người sẽ luôn bị đe dọa.
(1) Đức Chúa vẫn thương xót Cain: Người đời đòi “mắt đền mắt, răng đền răng;” và Cain cũng biết luật vay trả này “bất cứ ai gặp con sẽ giết con.” Nhưng Đức Chúa vẫn tỏ lòng thương xót cho Cain, Ngài phán: “Bất cứ ai giết Cain sẽ bị trả thù gấp bảy." Đức Chúa ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông. Dấu đặc biệt trên trán này chỉ sự bảo vệ của Thiên Chúa.
(2) Đức Chúa đóai thương đến gia đình Adam: Ông Adam lại ăn ở với vợ. Bà sinh một con trai và đặt tên là Seth. Bà nói: "Thiên Chúa đã sắp đặt cho tôi một dòng dõi khác thay cho Abel, vì Cain đã giết nó."

2/ Phúc Âm: Niềm tin dựa trên phép lạ.

(1) Đấng Thiên Sai phải làm được các phép lạ: Mỗi quốc gia trên địa cầu đều có những sắc thái riêng của mỗi dân tộc; Thánh Phaolô nói rất đúng về người Do-Thái: “Người Do-Thái tìm kiếm dấu lạ; trong khi người Hy-Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan.” Truyền thống Do-Thái đã thêu dệt sẵn kiểu mẫu một Đấng Thiên Sai: Ngài là Đấng uy quyền, có khả năng làm những dấu lạ lùng trong trời đất. Ngài là Chúa của người Do-Thái, nên Ngài sẽ giúp họ đánh đuổi ngọai bang, và cai trị tòan thế giới. Với kiểu mẫu có sẵn của Đấng Thiên Sai, những người Pharisees kéo đến với Chúa Giêsu, để thách thức Người làm một dấu lạ từ trời.
(2) Tại sao Chúa Giêsu không chịu làm phép lạ? Thứ nhất, Ngài đã làm không biết bao nhiêu phép lạ rồi. Những người Pharisees này hoặc đã từng chứng kiến, hoặc đã nghe biết về những phép lạ Ngài đã làm. Thứ đến, phép lạ chỉ giúp khai mở niềm tin. Khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, Ngài nhắc nhở cho họ những gì Tiên-tri Isaiah nói về Đấng Thiên Sai, giờ đây được hiện thực nơi Ngài; mục đích là để giúp họ tin vào Ngài. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên dấu lạ sẽ không vững chắc. Họ cần một sự hiểu biết chắc chắn về Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài; chứ không phải theo một Thiên Chúa và các kế họach do họ dựng nên. Nếu niềm tin chỉ dựa trên phép lạ, niềm tin sẽ lung lay và biến mất khi không nhìn thấy phép lạ nữa. Sau cùng, Chúa Giêsu không muốn con người điều khiển Thiên Chúa: khi con người cần gì, Thiên Chúa có bổn phận làm phép lạ ban cho họ điều đó; mà không cần biết điều họ xin có tốt hay không!

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta cần khiêm nhường biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa. Tất cả những việc thờ phượng chúng ta làm là cho lợi ích của cá nhân chúng ta, chứ không thêm gì cho Thiên Chúa.
- Khi cầu xin điều gì không được, chúng ta hãy xét xem điều đó có đúng ý Thiên Chúa không. Đừng bao giờ có thái độ giận dữ trả thù bằng cách bỏ đạo hay làm hại những người được Thiên Chúa phù hộ. 
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

16/02/15 THỨ SÁU TUẦN 6 TN
Mc 8,11-13

Suy niệm: Khi khoa học thực nghiệm ngày càng được cổ súy, người ta cứ đòi điều gì phải “thấy” thì mới “tin,” nghĩa là phải nắm bắt được bằng lý trí mới chấp nhận. Thế nhưng giữa “thấy” và “tin” không minh nhiên có mối quan hệ nhân quả. Nhiều khi người ta vẫn “tin” dù không thấy cũng như lắm người “thấy” đó mà không “tin.” Quả thật, trong cuộc sống, có những điều ai cũng “tin” dù chưa hề “thấy” bao giờ; và nhất là cả cuộc sống, cung cách hành xử của người ta lắm khi lại dựa trên những điều“không thấy mà tin” đó. Người ta vẫn tin rằng dân số thế giới hiện nay trên 7 tỷ người mà không cần kiểm tra con số chính xác hay tin rằng rắn hổ mang chúa có thể cắn chết người mà không ai dại gì thử để xác minh… Những người Pha-ri-sêu ngay cả sau khi thấy Chúa hóa bánh ra nhiều lần thứ hai mà họ vẫn yêu cầu một dấu lạ khác để thử Người. Thật ra, “tin-đức tin” là ơn ban của Thiên Chúa đi trước nỗ lực “thấy-hiểu biết” của con người.
Mời Bạn: Không thấy Chúa hiện ra an ủi mình trong những lúc gặp khó khăn, bạn có thất vọng không? Phải chăng bạn đang trông chờ vào một phép lạ mà quên rằng Chúa vẫn luôn chở che bạn? Bạn nhớ Chúa Giê-su đã nói với Tô-ma: “Phúc cho ai không thấy mà tin.”
Sống Lời Chúa: Tôi xác tín Chúa đang hiện đến với tôi qua những người khó khăn cần sự giúp đỡ của tôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa luôn quan phòng yêu thương che chở con mỗi ngày. Xin gia tăng ơn đức tin để con được nhìn thấy Chúa nơi anh chị em xung quanh con. Amen.

Tìm một dấu lạ từ trời
Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn. Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện. Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài. 


Suy nim:
Ai cũng dễ bị hấp dẫn bởi cái lạ thường, cái khác thường.
Còn cái bình thường, như thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.
Chỉ cần nghe đâu đó có hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,
lắm khi chẳng cần suy nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ trong mấy năm sứ vụ.
Những phép lạ đó không nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,
cũng không nhằm lôi kéo sự tôn vinh của dân chúng.
Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc đền thờ:
một cám dỗ làm điều ngoạn mục để thu hút quần chúng.
Ngài cũng từ chối xuống khỏi thập giá:
một hành vi đủ làm bẽ mặt những kẻ giết Ngài.
“Cứ xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).
Đức Giêsu không mua niềm tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.
Ngài đã ở lại trên thập giá như một người có vẻ thua cuộc…
Kitô giáo không đặt nền trên những chuyện dị thường, ma quái.
Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ
vì Ngài chạnh lòng thương trước nỗi khổ đau của con người,
vì Ngài muốn đáp lại lòng tin quá lớn của bệnh nhân,
và vì Ngài muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến rồi.
Phép lạ lớn nhất của Đức Giêsu là Tình Yêu.
Các ông Pharisêu không phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ.
Sau này các thượng tế cũng nhìn nhận:
“Hắn đã cứu được người khác…” (Mc 15, 31).
Nhưng họ thấy điều đó vẫn không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.
Họ đòi một dấu lạ từ trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào Ngài.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ chối đòi hỏi ấy.
Làm sao chúng ta nhìn ra được những điều bình thường, nho nhỏ
mà Chúa vẫn làm cho chúng ta mỗi ngày?
Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.
Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện.
Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.
Xin cho tôi thấy được sự kỳ diệu của Tình Yêu
nơi những điều tưởng như là tự nhiên của cuộc sống.
Cầu nguyn:

Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,
xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha
trong vũ trụ vô cùng lớn,
trong những hạt tử vô cùng nhỏ,
và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín,
mầu vàng mặt trời xế chiều.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.
Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,
tiếng gió rì rào qua kẽ lá.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
hương thơm của nắng xuân dìu dịu.
Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha
khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,
sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,
sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,
và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.
Dưới lòng đất, trên núi cao,
giữa biển sâu, trong rừng vắng,
chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.
Xin cho chúng con
biết chung sống với thiên nhiên này
như một người bạn, một quà tặng Cha ban,
biết giữ gìn ngôi nhà trái đất
để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,
và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này
và muôn loài Cha đã dựng nên
được cùng với cả nhân loại chúng con
vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Lời Chúa Trong Gia Đình
St.4,1-5.15; Tin Mừng theo Thánh Mc 8, 11-13.

LỜI SUY NIỆM: Những người Pharisêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. Người thở dài não nuột và nói: “Sao thế hệ này lại xin dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” (Mc 8,11-12).
            Khuynh hướng của thời Chúa Giêsu, những con người Pharisêu thường tìm kiếm Thiên Chúa trong những cái bất thường. Họ tin rằng khi Đấng Mêsia đến sẽ có những việc lạ lùng làm kinh ngạc và sửng sốt mọi người. Họ đang đòi hỏi ở Ngài một dấu lạ từ trời, để công nhận Ngài từ Thiên Chúa mà đến, trong khi đó biết bao phép lạ Chúa đã làm cho đám đông, nhưng họ cố mù không thấy và không biết. Trong đời sống hôm nay của chúng ta cũng đang có những người mù, họ mù khi sống có đầy đủ hai mắt, tâm trí lành mạnh và có sự hiểu biết rõ ràng, minh bạch khi đang tận hưởng cuộc sống với biết bao vẻ huy hoàng của cảnh vật thiên nhiên, sự sống của muôn loài muôn vật, họ cứ tưởng đó là sự tự nhiên. Nhưng thật ra tất cả đều được đến từ sự ban phát của Thiên Chúa. Từ Thiên Chúa mà có.
Mạnh Phương

16 Tháng Hai
Ngọn Nến Cháy Sáng


Nữ sĩ người Thụy Ðiển được giải Nobel văn chương là bà Selma Lagerloeff có kể một câu chuyện như sau: Có một kỵ mã nọ, sau khi đã tham dự một trận thánh chiến thành công tại Thánh Ðịa, đã làm một lời thề. Anh muốn đốt lên một ngọn nến ngay từ trên mộ của Chúa Giêsu và mang ánh sáng ấy về quê hương của anhlà thành phố Fireheze bên Italia.
Quyết định ấy đa biến anh thành một con người mới hoàn toàn. Từ một quân nhân hung hãn chuyên cầm gươm giết người, nay người kỵ mã đã trở thành một con người hiền hòa, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ thiệt thòi.
Trên đường trở về quê hương, cầm ngọn nến cháy sáng trong tay, người kỵ mã gặp không biết bao nhiêu kẻ cướp bóc, nhưng anh không hề động đến chiếc gươm đang mang trong người. Anh hứa trao cho họ bất cứ điều gì họ muốn, miễn là để cho anh được phép giữ lại ngọn nến đang cháy sáng trong tay. Quân cướp lột hết tất cả những gì anh có, kể cả chiến bào và con ngựa quý của anh. Họ cho anh một con ngựa già để đi từng bước cầm chừng. Sau khi trải qua không biết bao nhiêu thử thách, giờ này, người kỵ mã cảm thấy thảnh thơi hơn bao giờ hết. Anh cảm thấy thơ thới vì đã trút được bỏ những của cải không cần thiết, nhưng anh vui mừng hơn cả vì vẫn còn giữ được ngọn nến cháy sáng đã được thắp lên từ trên mồ của Chúa. Khi anh về đến giữa phố, nhiều người nhìn anh như kẻ khờ dại. Họ chế nhạo và tìm đủ cách để dập tắt ngọn nến trên tay anh. Nhưng người kỵ mã thà chết còn hơn là để cho ngọn nến tắt ngụm trên tay mình. Và cuối cùng, anh đã mang được ngọn nến cháy sáng về đến nhà thờ chính tòa của quê hương anh. Anh dùng ánh sáng từ ngọn nến ấy đốt lên tất cả những ngọn nến trên bàn thờ.
Trước anh, nhiều người cũng đã cố gắng làm một lời thề như thế. Nhưng dọc đường, vì nhiều lý do khác nhau, ngọn nến đã tắt ngụm. Ðược hỏi: Ðâu là bí quyết giúp anh thành công như thế. Người kỵ mã trả lời như sau: "Tôi đặt tất cả chú tâm vào ngọn nến. Tôi sẵn sàng bỏ hết tất cả mọi sự để bảo vệ ngọn nến ấy".
Cuộc đời của người tín hữu Kitô chúng ta vẫn thường được định nghĩa như một cuộc hành trình, một cuộc hành trình trong đó mỗi người chúng ta cầm cháy sáng trong ngọn nến của Ðức Tin. Bao lâu ngọn nến còn cháy sáng, bấy lâu chúng ta còn tiến bước. Sóng gió, tăm tối trong cuộc hành trình là chuyện không thể tránh được. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục giữcho ngọn nến cháy sáng, chúng ta vẫn có thể tiến bước.
Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Chúng con là ánh sáng thế gian". Ước mơ duy nhất của người kỵ mã trong câu chuyện trên đây là được dùng ngọn nến đốt lên từ mồ Chúa để thắp sáng lên ngọn đèn trong nhà thờ. Ðó cũng phải là ước mơ của mỗi người chúng ta. Ánh sáng được trao ban cho chúng ta là để được truyền sang cho những ngọn đèn khác. Có biết bao nhiêu ngọn đèn đang chờ đợi một chút ánh sáng từ ngọn nến của chúng ta để được cháy lên?
(Lẽ Sống)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét