12/04/2020
Chúa Nhật PHỤC SINH
năm A
(phần I)
Bài Ðọc I: Cv 10, 34a. 37-43
"Chúng
tôi đã ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, Phêrô lên tiếng nói rằng: "Như anh em biết điều đã xảy ra trong
toàn cõi Giuđêa, khởi đầu từ Galilêa, sau khi Gioan rao giảng phép rửa: ấy là
Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu
cho Người. Người đi khắp nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi
vì Thiên Chúa ở cùng Người. Và chúng tôi, chúng tôi là chứng nhân tất cả những
gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Ðấng người ta
đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống
lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên
Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ
cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và
làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và
kẻ chết. Mọi tiên tri đều làm chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người,
thì nhờ danh Người mà được tha tội".
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23
Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập ra,
chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó (c. 24).
Hoặc đọc:
Alleluia.
Xướng:
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà
Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.
2) Tay
hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết,
nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Phiến
đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do
Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Cl 3, 1-4
"Anh
em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em
thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời,
nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ
đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn
giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy
giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.
Ðó là
lời Chúa.
Hoặc đọc: 1 Cr 5, 6b-8
"Anh
em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em
thân mến, anh em không biết sao?: chỉ một tí men là đã đủ làm dậy men cả khối bột!
Anh em hãy tẩy trừ men cũ để nên bột mới anh em là bánh không men. Vì Chiên Vượt
Qua của ta, là Ðức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men
cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và
chân thật.
Ðó là
lời Chúa.
Ca Tiếp Liên
(Ðọc
trong Chúa Nhật Phục Sinh, còn các ngày khác trong tuần Bát nhật thì không buộc
đọc)
Các
Kitô hữu hãy tiến dâng
lời
khen ngợi hy lễ Vượt Qua.
Chiên
con đã cứu chuộc đoàn chiên mẹ:
Ðức
Kitô vô tội đã hoà giải tội nhân với Chúa Cha.
Sống
và chết hai bên song đấu cách diệu kỳ,
tướng
lãnh sự sống đã chết đi, nhưng vẫn sống mà cai trị.
Hỡi
Maria, hãy nói cho chúng tôi nghe
bà đã
thấy gì trên quãng đường đi?
Tôi đã
thấy mồ Ðức Kitô đang sống
và
vinh quang của Ðấng Phục Sinh,
thấy
các thiên thần làm chứng,
thấy
khăn liệm và y phục.
Ðức
Kitô là hy vọng của tôi đã phục sinh,
Người
đi trước chư vị tới xứ Galilêa.
Chúng
tôi biết Ðức Kitô đã sống lại thật từ cõi chết!
Lạy
Chúa, Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con.
Alleluia: 1 Cr 5, 7b-8a
Alleluia,
alleluia! - Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế vậy chúng ta hãy mừng
lễ trong Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 1-9
"Người
phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu
tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá
đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được
Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi
mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ
kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến
mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào
trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những
dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn
với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù
ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng,
theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Chỉ có đức tin mới cho ta
biết Chúa đã sống lại
Ðức
Kitô đã sống lại, thì chúng ta phải làm gì? Dường như các bài đọc Kinh Thánh
hôm nay muốn trả lời câu hỏi ấy. Chúng ta có cần phải ra đi kiểm chứng lại sự
kiện mồ trống như hai Tông đồ trong bài Tin Mừng không? Hay chúng ta chỉ cần
tin vào lời giảng dạy của Giáo Hội như thời các tín hữu đầu tiên? Hoặc hơn nữa
chúng ta phải có một thái độ mới và một nếp sống mới như bài thư hôm nay nói?
Chúng
ta sẽ lần lượt tìm hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng, của bài sách Công vụ các Tông
đồ và của bài thư 1 Corinthô.
A. Bài Tin Mừng Yoan
Rõ
ràng bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe có một cái gì giống như bài Tin Mừng trong
thánh lễ ban đêm. Cả hai đều khởi đầu bằng việc Maria ra viếng mộ Chúa. Nhưng rồi
lập tức mỗi tác giả đi theo hướng riêng của mình. Yoan có lối trình bày của
ông. Ông chỉ kể tên một bà Maria Magđala, đang khi Matthêô nói đến hai người
theo thói quen gấp đôi của ông. Yoan ngược lại thích nói đến một người để nhấn
mạnh đến suy tư, thân mật và khiến độc giả chú trọng hơn vào nhân vật trong
truyện. Ông cũng thích nói đến ánh sáng và tối tăm, nên viết: sáng Ngày thứ nhất,
lúc trời hãy còn tối, Maria ra mộ. Ông có nghĩ đến hình ảnh người phụ nữ đi tìm
người yêu lúc đêm khuya ở trong sách Diệu ca không?
Dù
sao, Yoan không chú trọng đến mồ trống. Ðó là sự kiện rõ ràng. Trọng tâm bài tường
thuật của ông nhắm vào suy nghĩ về sự kiện ấy. Người không có đức tin đã nói
như Maria: "Họ đã lấy xác Thầy khỏi mộ rồi, và chẳng biết chúng đã để Người
ở đâu". Lập tức Phêrô và người môn đệ khác đã chạy ra mộ. Phêrô chạy ra vì
là Tông đồ trưởng. Người môn đệ kia cũng phải đến vì là Tông đồ Chúa yêu. Ðàng
khác chứng của hai người sẽ có giá trị. Người Tông đồ Chúa yêu chạy nhanh hơn
vì tình yêu vốn mau lẹ và vì trong Phúc Âm Yoan, người đó luôn gần Chúa hơn hết.
Phêrô quan sát cẩn thận, kiểm kê đầy đủ. Nhưng mắt môn đệ kia tinh hơn, theo
nghĩa tình yêu sớm linh cảm được sự việc. Cũng như có lần khác, ông đã báo cho
Phêrô biết: Kìa Thầy đang đi trên nước! Lần này ông cũng sớm nhận ra: Người đã
sống lại. Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô
có tin không? Câu kết của bài Tin Mừng dường như muốn khẳng định rằng họ đều đã
tin. Và đồng thời câu kết ấy cũng muốn nói lên điều này: lòng tin dựa vào chứng
từ (của lời giảng hay của mồ trống) chỉ hoàn toàn sau khi bắt nối với Lời Tiên
tri. Ý của Yoan muốn nói rằng: ai cũng nghe nói về sự kiện mồ trống, nhưng người
ta sẽ chẳng tin bao lâu "chưa hiểu Lời Kinh Thánh là Người phải sống lại từ
cõi chết".
Như vậy
bài Tin Mừng hôm nay khuyên mọi người muốn tin vào việc Chúa sống lại, thì
không cần sưu tra về sự kiện mồ trống hay tìm hiểu các lần Chúa hiện ra, nhưng
hãy hiểu Lời Kinh Thánh nói rằng Con Người sẽ từ cõi chết sống lại. Và như thế,
đúng như Yoan đã viết trong câu truyện về Thôma: con thấy nên con đã tin, nhưng
phúc cho những ai không thấy mà tin. Với tư tưởng ấy, Yoan vừa nói cùng người đồng
thời với mình đã thấy mồ trống, vừa nhắn nhủ các thế hệ đến sau chẳng nhìn thấy
gì cả. Người thấy cũng hãy tin như Tông đồ kia; và người không thấy cũng hãy dựa
vào Lời Kinh Thánh mà tin. Chỉ có đức tin mới cho ta biết Chúa đã sống lại. Ðó
là sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay.
B. Bài Sách Công Vụ Các Tông Ðồ
Còn
Phêrô trong bài sách Công vụ, nói với cử tọa trong nhà Cornêliô còn có thêm một
sứ điệp nữa. Những người ngồi trước mặt ông đều kính sợ Chúa. Hơn nữa họ đã mời
ông tới đây để biết phải làm gì. Thế nên ông chỉ cần vắn tắt giới thiệu cho họ
biết Chúa Cứu thế. Và dĩ nhiên ở đây sách Công vụ vẽ lại một vài nét của sách
Tin Mừng Luca, vì theo truyền thống tác giả cả hai sách chỉ là một. Sách Tin Mừng
Luca đã nói Ðức Kitô được xức dầu và đầy quyền năng; Người luôn luôn thi thố
lòng thương xót khi chữa bệnh tật; nên ở đây sách Công vụ cũng nói Người đã được
xức dầu Thánh Thần và quyền năng, và Người đã từng đi lại chữa lành nhiều đau
khổ. Cuối cùng Người đã bị treo lên cây gỗ, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống
lại.
Phêrô
không nói đến mồ trống; ông nại đến việc Chúa hiện ra với các Tông đồ là những
chứng nhân của việc Người phục sinh vì sau khi sống lại Người đã từng ăn uống với
họ. Tuy nhiên đó cũng vẫn chưa phải là sứ điệp Phêrô muốn trình bày. Ðiều cốt yếu
đối với ông và đối với mọi người bây giờ là nhìn nhận nơi Ðức Kitô Phục sinh, Ðấng
"đã được Thiên Chúa đặt làm Thẩm phán trên người sống và kẻ chết". Và
điều này buộc người ta phải kiểm điểm lại đời sống, có lòng thống hối ăn năn và
cầu xin ơn tha tội.
Phêrô
đã đạt được điều đó nơi Cornêliô và gia quyến ông. Khi trích lại câu truyện
này, Phụng vụ cũng muốn được nhìn kết quả ấy nơi mỗi người chúng ta. Nói cách
khác, trong ngày lễ Phục sinh, Phụng vụ không chỉ muốn chúng ta tin vào mầu nhiệm
Chúa sống lại, mà còn muốn chúng ta hành động phù hợp với niềm tin kia. Việc
Chúa Phục sinh không phải chỉ là sự kiện khách quan, tức là chỉ liên quan tới
Chúa; nhưng việc ấy còn chi phối định mệnh của mọi người; vì Ðức Kitô Phục sinh
từ nay đã là Thẩm phán của người sống và kẻ chết. Không ai đứng trước mặt Vị Thẩm
phán xét xử mình mà lại không phải tự kiểm điểm. Trong trường hợp chính Chúa là
Thẩm phán, thì chúng ta chỉ còn có thái độ thống hối ăn năn và xin ơn tha thứ.
Ðó
cũng là điều mà thư Phaolô hôm nay muốn khai triển.
C. Bài Thánh Thư
Phaolô
trong thư này đang phàn nàn về câu chuyện tai tiếng xảy ra trong giáo đoàn: có
kẻ dám sống loạn luân với vợ của cha mình. Ðừng tưởng đó chỉ là chuyện một con
sâu làm rầu nồi canh; nhưng phải cẩn thận kẻo "chỉ một tí men là đã làm dậy
cả khối bột", nghĩa là tội lỗi kia có thể lây sang làm hư hỏng cả giáo
đoàn.
Việc
Phaolô ví tội lỗi như một tí men, cũng dễ hiểu thôi: chính Ðức Kitô cũng đã có
lần căn dặn môn đệ phải coi chừng men Biệt phái, là ảnh hưởng của lập trường tại
hại của họ. Là vì tuy men làm cho bột dậy, nhưng bánh có men lại chóng hư nát.
Bản chất của men là làm hư hỏng những gì nó ăn sang. Nên ví tội lỗi làm hư đời
sống như men cũng thật là dễ hiểu.
Ðàng
khác kiểu ví này đưa ngay Phaolô vào một vấn đề tôn giáo và thích hợp để khuyên
bảo tín hữu. Mọi người đều biết: Luật pháp cấm dùng bánh có men khi ăn lễ Vượt
qua. Thế nên các Luật sĩ căn dặn người ta: trước khi ăn lễ Vượt qua phải thắp
đèn đi soi mọi ngóc ngách trong nhà kẻo nhỡ ra còn sót lại một chút men nào. Nếu
người Dothái ăn lễ Vượt qua còn như vậy, thì huống hồ là người Kitô hữu. Họ
không đang sống dưới chế độ Vượt qua sao? Và hằng ngày họ không cử hành mầu nhiệm
Phục sinh là gì? Kìa xem người Dothái khi thấy Chiên Vượt qua bị sát tế, là lập
tức mau mau vứt men đi để làm lễ. Trong Kitô giáo Chiên Vượt qua là Ðức Kitô đã
bị sát tế rồi. Vậy mọi tín hữu phải mau mau vứt bỏ men tội lỗi làm hư hỏng đời
sống, để mừng lễ, không phải với bánh có men gian tà và độc ác, nhưng với bánh
không men tức là với lòng tinh tuyền và chân thật.
Tất cả
chúng ta đang sống trong chế độ mừng lễ. Ngày nào chúng ta cũng cử hành mầu nhiệm
Phục sinh. Thánh Phaolô bảo ta phải hân hoan, vì đó là tư cách của người mừng lễ.
Phụng vụ giục ta hãy vui mừng Allêluia! Nhưng muốn hân hoan thật phải có lòng
tinh tuyền chân thật, tức là phải vứt bỏ men tội lỗi gian tà làm hư hỏng đời sống.
Ai làm cho ta được một lương tâm như vậy, nếu không phải Vị Thẩm phán mà Thiên
Chúa đã đặt lên khi cho Người sống lại từ cõi chết? Chính việc Người Tử nạn-Phục
sinh đã ban ơn tha thứ tội lỗi, rửa các linh hồn nên sạch, khiến họ được vui mừng
như các tạo vật mới. Chúng ta hãy đi vào mầu nhiệm chết và sống lại của Người
trong thánh lễ này để được tha thứ tội lỗi, được hồi sinh và hân hoan, hầu như
tạo vật mới, đem sức sống mới vào đời, chứng tỏ Ðức Kitô đã phục sinh không những
ở nơi Người, nhưng ngay nơi chúng ta là những bánh không men của lễ Phục sinh
năm nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật Phục Sinh, Năm ABC
Bài đọc: Acts
10:34, 37-43; Col 3:1-4; Jn 20:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
Để hiểu
niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta cần so sánh hai thái độ của các tông
đồ: nỗi thất vọng của các ông khi phải đối diện với Cuộc Thương Khó và cái chết
của Chúa Giêsu; các ông đã sợ hãi và bỏ trốn hết vì sợ liên lụy: Chúa chết hết
truyện. Nhưng nỗi thất vọng của các ông được bừng lên thành niềm hy vọng của
Ngày Phục Sinh: vì Chúa sống lại, mọi biến cố của quá khứ cùng sống lại, được
nhìn và mang ý nghĩa với Chúa Phục Sinh.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung vào các nhân chứng của Mầu Nhiệm Phục Sinh và Tin Mừng
họ làm chứng và rao giảng. Trong Bài Đọc I, Phêrô, từ một con người chối từ
Chúa 3 lần trong Cuộc Thương Khó của Ngài, giờ can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu
trước mặt mọi người. Điều đã cải biến ông là Tin Mừng Phục Sinh: Nếu Chúa Giêsu
đã chết và đã sống lại, quyền lực thế gian đã không thắng nổi quyền lực Thiên
Chúa, chẳng còn gì để sợ hãi nữa. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Côlossê nhắc nhở
cho các tín hữu biết hậu quả của Mầu Nhiệm Phục Sinh mang lại: Họ mang trong
mình mầm sống của Đức Kitô Phục Sinh; mầm sống này đòi hỏi họ phải luôn biết
tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, đừng chỉ bằng lòng với những giá
trị của hạ giới là của thế gian này. Họ phải sống làm sao để có ngày được cùng
sống lại với Chúa Kitô phục sinh. Trong Phúc Âm, Bà Maria Magdala ra thăm mộ
Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối; Bà không tìm thấy xác Chúa nên vội chạy về
báo cho các môn đệ biết. Phêrô và Gioan, khi biết được, đã vội vã chạy đến mộ.
Các ông thấy và các ông đã tin những gì Chúa tiên báo trước khi Ngài chịu chết.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tin Mừng về Chúa Giêsu.
Trình
thuật của Sách Tông Đồ Công Vụ chỉ tập trung trong những biến cố chính của cuộc
đời Chúa Giêsu; một phần có lẽ vì rao giảng cho thế hệ cùng thời với Chúa, một
phần vì bản tính đơn sơ, chất phác của Phêrô.
1.1/ Ông
Phêrô làm chứng cho Chúa Giêsu.
(1) Về
cuộc đời của Ngài: Ông Phêrô nhắc lại những gì khán giả biết về Chúa Giêsu:
-
Gioan Tẩy Giả là Tiền Hô của Thiên Chúa: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra
trong toàn cõi Judah, bắt đầu từ miền Galilee, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng.”
Phêrô chỉ nhắc lại cuộc đời công khai rao giảng của Chúa.
-
Phêrô muốn nhắc lại cho khán giả cuộc đời Chúa Giêsu cách tổng quát: lai lịch,
biến cố Rửa Tội tại sông Jordan, các phép lạ chứng tỏ uy quyền của Ngài. “Quý vị
biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền
năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó,
và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.”
(2) Về
cái chết và sự sống lại của Ngài:
-
Phêrô làm chứng cho sự chết của Đức Kitô trên Thập Giá: “Còn chúng tôi đây xin
làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính
Jerusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi.”
-
Phêrô làm chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô: “Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm
cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn
dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng
tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống
lại.”
1.2/ Bổn
phận của các Tông-đồ: Chúa
chọn các ông là cho một sứ vụ; giờ đây đã đến lúc các ông phải thay Ngài để rao
truyền Tin Mừng cho muôn dân. Hai bổn phận chính của các Tông-đồ:
(1) Phải
rao giảng: “Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân.”
(2) Phải
long trọng làm chứng hai điều:
-
Chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
- Chúa
Giêsu là Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã loan báo: “Tất cả các ngôn sứ đều
làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà
được ơn tha tội." Lời của tiên tri Isaiah trong các Bài ca về Người Tôi
Trung của Thiên Chúa mà chúng ta nghe trong Tuần Thánh là căn bản của lời chứng
này.
2/ Bài đọc II: Nguyên lý của đời sống mới: kết hợp với
Đức Kitô phục sinh.
2.1/ Thượng
giới và hạ giới: “Anh
em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng
giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những
gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.”
- Thượng
giới là Thiên Đàng nơi Đức Kitô đang sống với Thiên Chúa; hạ giới là trần gian
nơi con người chúng ta đang sinh sống. Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến sự cách biệt
này khi tranh luận với người Do-thái: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi
thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế
gian này. Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật
vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết."
- Vấn
đề của con người hiện đại là đang quá chú tâm đến hạ giới: nhà cửa sang trọng,
xe cộ mắc tiền, hưởng thụ các thú vui vật chất … Dĩ nhiên, con người cần phải
chú tâm đến các vấn đề ăn, uống, ở … nhưng không đến nỗi gạt bỏ hay không chút
quan tâm đến các giá trị của thượng giới.
2.2/ Sự sống
mới của Đức Kitô đang tiềm tàng nơi các tín hữu: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống
mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô,
nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng
Người hưởng phúc vinh quang.”
Làm
sao biết có sự sống mới này đang tiềm tàng nơi con người? Thứ nhất, qua tấm áo
trắng của Bí-tích Rửa Tội, người Kitô hữu được “mặc lấy” toàn thể Đức Kitô: cả
sự chết lẫn sự phục sinh của Ngài. Thứ đến, qua Bí-tích Thánh Thể, người Kitô hữu
được tháp nhập vào thân thể của Ngài. Vì có sự sống mới này trong người, các
Kitô hữu phải từ bỏ nếp sống cũ với các tội lỗi của nó, để sống đời sống mới, đời
sống ân sủng và nhân đức như Đức Kitô. Khi con người sống kết hợp với Đức Kitô,
họ có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là
chính Đức Kitô sống trong tôi.”
3/ Phúc Âm: Ngôi mộ trống
3.1/ Sức
mạnh của tình yêu: Tác giả
Sách Diễm Ca ca tụng tình yêu: “Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng
tài nào vùi lấp. Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu,
ắt sẽ bị người đời khinh dể.”
ắt sẽ bị người đời khinh dể.”
(1)
Chúa Giêsu yêu Mary Magdala: Bà là người được Chúa Giêsu chữa cho khỏi bảy quỉ.
Đối với con người, chẳng có gì là đáng yêu trong người đàn bà này; nhưng đối với
Thiên Chúa, Ngài thương con cái mình bị ma quỉ xiềng xích. Từ lúc được lành bệnh,
Bà luôn theo Chúa Giêsu, và đứng dưới chân Thập Giá khi Ngài hấp hối.
(2) Bà
Mary Magdala yêu Chúa Giêsu: Bà là người đã khóc công khai để lấy nước mắt rửa
chân, lấy tóc lau chân, và lấy dầu đắt tiền xức chân Chúa. Ngay cả cái chết
cũng không dập tắt nổi tình yêu của Bà Mary Magdala dành cho Chúa Giêsu. Một
người có thể nói Bà là người sống tình yêu với Chúa hơn ai hết qua sự kiện Bà
chỉ chờ khi bắt đầu ngày mới (3-6 giờ sáng), là người đầu tiên lên đường ra mộ
tìm Chúa. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu làm Bà vượt qua nhiều sự sợ hãi: quân
lính Rôma, người Do-thái, bóng tối, ma quỉ, lạnh lẽo, lười biếng …
Khi đến
nơi và thấy tảng đá lớn đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và
người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ;
và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
3.2/ Hai
ông Phêrô và Gioan ra thăm mộ: Các
môn đệ không dám xuất hiện trước công chúng vì họ sợ sẽ bị truy tố như Thầy
mình. Các ông chắc cũng thất vọng vì Chúa Giêsu không hoàn thành ước mơ của các
ông. Khi được Mary Magdala cho biết tin ngôi mộ trống, ông Phêrô và môn đệ kia
liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô
và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng
không vào.
(1)
Ngôi mộ trống: Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ,
thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với
các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Hai câu hỏi được nêu ra từ
trình thuật này:
- Tại
sao người môn đệ chạy tới trước không vào lại chờ cho Phêrô tới và vào trước?
Phải chăng vì ông sợ? Phải chăng vì ông muốn tôn trọng quyền bính của Phêrô?
Tuy Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng ông luôn là người đứng đầu Nhóm Mười Hai.
Chính Chúa Giêsu đã đặt Phêrô vào địa vị này.
- Vì
các ông không ngờ là Chúa đã sống lại, nên chỉ còn giả thuyết là người ta đã
đánh cắp xác Chúa; nhưng điều làm các ông ngạc nhiên là tại sao lấy xác mà
không lấy khăn niệm, lại còn cuộn lại cẩn thận và xếp gọn lại một nơi!
(2)
Ông đã thấy và ông đã tin: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng
đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo
Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” Bản dịch của NPVCGK dịch
không chính xác, phải dịch: “Ông đã thấy và đã tin; dù chưa hiểu theo Kinh
Thánh Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết.” Thánh sử Gioan muốn phân biệt hai
niềm tin:
- Thấy
và tin: Đây là niềm tin thực nghiệm.
- Theo
Kinh Thánh: Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Đây là niềm tin dựa vào uy thế
của Sách Thánh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Biến
cố Chúa Giêsu phục sinh chứng tỏ rõ ràng cho chúng ta một điều quan trọng: chết
không hết. Chúa Giêsu đi trước để dọn đường, và Ngài sẽ kéo mọi người chúng ta
lên với Ngài. Vì thế, chúng ta không được sống như không có đời sau.
- Chúa
Giêsu đã gánh chịu mọi đau khổ để đền thay tội lỗi của chúng ta, và Ngài đã phục
sinh vinh hiển để chuẩn bị cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Còn ai yêu
thương và lo lắng cho chúng ta hơn Chúa Giêsu? Hãy dành trọn vẹn tình yêu cho
Ngài.
- Hãy
làm hết sức cho có được tình yêu với Chúa Giêsu như Mary Magdala. Một khi có được
tình yêu như thế, chúng ta sẽ vượt qua mọi trở ngại để trung thành với Thiên
Chúa và làm chứng cho Thiên Chúa bằng cách yêu thương mọi người.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
12/04/20
CHÚA NHẬT PHỤC SINH A
Ga 20,1-9
TỪ “THẤY”
ĐẾN “TIN”
Ông Si-mon Phê-rô vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn
che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp
riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào.
Ông đã thấy và đã tin. (Ga 20,6-8)
Suy
niệm: Những điều Gio-an thấy tại mộ Chúa
vào buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần hôm ấy được trình bày một cách rõ ràng,
mạch lạc và chính xác chẳng khác nào một biên bản hiện trường: – việc Gio-an đến
mộ nhưng nhường cho Phê-rô vào trước; – hiện trường ngôi mộ được bảo vệ nguyên
vẹn (khăn liệm và các băng vải được gấp xếp gọn ghẽ trong mộ…); – sự hiện
diện của 2 nhân chứng (Phê-rô và Gio-an) tại ngôi mộ trống. Những điều Gio-an
“thấy” chỉ là một ngôi mộ trống với những chứng tích còn lại. Và từ những điều
trông thấy đó, Gio-an đã khẳng định ngắn gọn và chắc nịch: “Ông đã thấy
và đã tin.”
Mời
Bạn: Gio-an đã “thấy” chính những điều
mà Phê-rô, Tô-ma hay các tông đồ khác cũng thấy, đó là ngôi mộ trống và tấm
khăn liệm. Nhưng nhờ đó, Gio-an “thấy” được cả những “điều không thấy”: xác
Chúa không còn trong mộ nữa. Từ “điều không thấy”, Gio-an đã tin: tin Đức Ki-tô
đã sống lại. “Phúc cho ai đã không thấy mà tin,” phải chăng Đức
Ki-tô phục sinh nói điều đó trước hết cho Gio-an?
Chia
sẻ: Từ sự kiện “mồ trống”, bạn lập luận
để xác tín rằng niềm tin vào Đức Ki-tô phục sinh mà Gio-an và các tông đồ rao
giảng cho chúng ta quả là xác thực.
Sống
Lời Chúa: Bạn dùng một cử chỉ (phủ phục trước
Thánh Thể Chúa…) hoặc một lời nguyện vắn tắt để tuyên xưng niềm tin vào Đức
Ki-tô phục sinh.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của
con, con tin Chúa đã chết và đã sống lại để cứu chuộc con.
(5 phút Lời Chúa)
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN (12.4.2020 – Chúa nhật Phục sinh)
Niềm vui phục
sinh là quà tặng
bất
ngờ
cho Maria. Bà sẽ chẳng bao giờ
tìm thấy
xác Thầy
trong mộ
đâu, nhưng
bà sẽ
gặp
chính Ðấng
Phục
Sinh ở
ngoài mộ
đá.
Suy niệm:
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được,
chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga
19,25)
và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,
trước cả người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải,
đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh,
bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ,
những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó,
còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria
Macđala,
nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố:
ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ,
ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin
để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng,
trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Ðời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất,
trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11).
Nhưng nếu xác Ðức Giêsu cứ nằm yên trong mồ,
để cho bà Maria đến thăm viếng,
thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài,
những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt
chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu,
nhưng bà sẽ gặp chính Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ
đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12
THÁNG TƯ
Đức
Tin Và Việc Làm
Vậy thì, thế nào là trở nên một Kitôhữu? Câu trả lời:
đó là tiếp tục đón nhận và chấp nhận lời chứng của các Tông Đồ, các thị chứng
nhân, về ơn cứu độ của chúng ta. Đó là tin vào Đức Kitô với cùng một đức tin đã
được khai sinh nơi các Tông Đồ do những hành động và lời nói của Đấng Phục
Sinh.
Tông Đồ Gio-an viết: “Căn cứ vào điều này, chúng ta
nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của
Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó
là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy,
nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1Ga 2,3-5).
Vị Tông Đồ đang nói về một đức tin sống động. Một đức
tin sống động là một đức tin đem lại hoa trái là những việc làm thiện hảo. Đó
chính là những việc làm của tình yêu. Đức tin sống động nhờ tình yêu của Thiên
Chúa ở nơi chúng ta. Tình yêu được diễn tả qua việc tuân giữ các điều răn. Cũng
có thể không có mâu thuẫn nào giữa sự hiểu biết (= tôi biết Người) và những hành
động của một người tuyên xưng Đức Kitô. Chỉ những ai hoàn thành đức tin của
mình bằng những việc làm thiện hảo mới là người ở lại trong sự thật.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 12-4
CHÚA
NHẬT PHỤC SINH
MỪNG
CHÚA SỐNG LẠI
Cv
10, 34a.37-43; Cl 3, 1-4; Ga 20, 1-9.
LỜI
SUY NIỆM: “Ông
đã thấy và đã tin”
Trước
đó chính Chúa Giêsu đã ba lần loan báo về cuộc khổ nạn và chịu chết của Chúa;
nhưng rồi sau ba ngày Chúa sẽ sống lại.Nhưng tất cả các Tông Đồ đã không hiểu
và đã không tin, nhưng lại không dám hỏi lại Chúa. Hôm nay khi Gioan vào trong
mồ, “ông đã thấy và đã tin”, chính là nhờ vào ký ức của ông đã chiếu lại toàn bộ
sự việc Chúa đã làm, những lời Chúa đã nói, mà ông đã ghi sâu vào ký ức của
mình, khi được sống bên Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu. Trong việc học hỏi Giáo Lý, học hỏi Kinh Thánh. Xin cho mọi
người trong gia đình chúng con đều ghi vào trong ký ức của mình, để qua mọi hoàn
cảnh, mọi biến cố, chúng con nhận ra ý của Chúa, ơn thánh của Chúa, để tin và
vui sống.
Mạnh
Phương
12
Tháng Tư
Ra Ði Là Chết Trong Lòng Một Ít
Phật
giáo Trung Hoa rất nhớ ơn và hãnh diện vì có thiền sư là Ðường Tam Tạng. Ông là
người đã có công vượt núi trèo non để đi Tây Trúc thỉnh Kinh đem về phổ biến
cho dân gian.
Truyện
Tây Du Ký đã ghi lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tam Tạng. Nhưng những
gian nan thử thách xảy đến cho thiền sư họ Ðường không phải chỉ là gai góc hiểm
trở của đoạn đường dài, mà chính là những tật xấu mà ba người môn đệ thân tín
nhất của thầy là hiện thân. Tôn ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng, ba cái tên
này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Ðường cũng như bao người khác phải vượt
qua để đạt chính quả. Ba nết xấu đó là: lòng kiêu căng, lòng ham vật dục và
tính lười biếng.
Ra đi là chết trong lòng một ít... Thiền sư
họ Ðường có lẽ đã phải chiến đấu và hao mòn vì những tham sân si trong lòng thầy.
Tin Mừng
cũng nhắc đến một cuộc ra đi: đó là cuộc ra đi của Chúa Giêsu. Ngài rời bỏ quê
hương để đi Galilêa. Galilêa chỉ cách Nagiarét vài chục cây số... Nhưng với
Chúa Giêsu cuộc trẩy đi này bao hàm một cuộc lột xác và từ bỏ trọn vẹn. Ngài từ
bỏ tất cả để vào sa mạc.
Ra đi
có nghĩa là ra khỏi chính mình và không quay nhìn lại phía sau. Ra đi tức là chấp
nhận chết đi trong lòng một ít.
Thánh
nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, mặc dù chưa một lần ra khỏi bốn bức tường của tu viện,
đã được Giáo Hội chọn làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Một
lúc nào đó, có lẽ chúng ta cũng khao khát được mang Tin Mừng của Chúa đến một
nơi xa lạ... Ước mơ ấy có thể làm cho chúng ta quên đi thựck tại của không biết
bao nhiêu người thiếu thốn lương thực cho thể xác cũng như tinh thần.
Ra đi
loan báo Tin Mừng, trước tiên chính là ra lhỏi con người của chúng ta. Ra khỏi
con người của thiển cận, ích kỷ của chúng ta để mặc lấy một cái nhìn nhậy cảm
hơn trước sự hiện diện của tha nhân.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét