19/04/2020
Chúa Nhật tuần 2 PHỤC
SINH năm A.
CHÚA NHẬT VỀ LÒNG
THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Cv 2, 42-47
“Tất cả mọi kẻ tin, đều sống
hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Khi ấy, các anh em bền
bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ
bánh và cầu nguyện. Mọi người đều có lòng kính sợ. Vì các Tông đồ làm nhiều việc
phi thường và nhiều phép lạ tại Giêrusalem, nên mọi người đều sợ hãi. Tất cả mọi
kẻ tin đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ bán tài sản gia
nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳnhu cầu từng người.
Hằng ngày họ hợp nhất
một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ, bẻ bánh ở nhà, họ dùng bữa cách vui vẻ
đơn sơ; họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng. Hằng ngày Chúa cho
gia tăng số người được cứu rỗi. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 117, 2-4.
13-15. 22-24
Đáp: Hãy cảm tạ
Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Hỡi nhà Israel, hãy
xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Đức
từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Đức từ
bi của Người muôn thuở”. – Đáp.
2) Tôi đã bị đẩy, bị
xô cho ngã xuống, nhưng Chúa đã phù trợ tôi. Chúa là sức mạnh, là dũng lực của
tôi, và Người trở nên Đấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến thắng vang lên
trong cư xá những kẻ hiền nhân. Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt.- Đáp.
3) Phiến đá mà những
người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm
ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta
hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Pr 1, 3-9
“Nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi
chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống”.
Trích thư thứ nhất
của Thánh Phêrô Tông đồ.
Chúc tụng Thiên Chúa
là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ việc Đức Giêsu
Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được
sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy tàn, dành để cho
anh em trên trời. Anh em được bảo vệ trong quyền năng của Thiên Chúa, nhờ tin
vào sự cứu độ đã được mạc khải trong thời sau hết. Lúc đó anh em sẽ vui mừng,
tuy bây giờ anh em phải sầu khổ một ít lâu giữa trăm chiều thử thách, để đức
tin anh em được tôi luyện, nên quý hơn vàng được thử lửa bội phần, nhờ đó, anh
em được ngợi khen, vinh quang và vinh dự khi Đức Giêsu Kitô hiện đến. Anh em
yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng
không thấy Ngài; bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả, vì
chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn. Đó là lời
Chúa.
ALLELUIA: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai
đã không thấy mà tin”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 20, 19-31
“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ
nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người
Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các
con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ
các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng:
“Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi,
Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con
tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị
cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng
ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng:
“Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi
không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh,
nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn
đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng
kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Đoạn Người
nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn
tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng:
“Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con
đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Chúa Giêsu còn làm nhiều
phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng
các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Niềm tin vào việc Chúa sống lại phát xuất từ những sự kiện
không chối cãi được
Chúng ta đã có thể nhận thấy vì sao Phụng vụ
hôm nay lại đọc cho chúng ta đoạn Tin Mừng vừa nghe. Bởi vì hôm nay là ngày thứ
8 sau lễ Phục sinh; thế mà 8 ngày sau khi sống lại Chúa đã hiện ra đặc biệt cho
Thôma.
A. Bài Tin Mừng Yoan
Câu chuyện về người Tông đồ này, chúng ta đã từng
nghe biết. Và khi muốn chế nhạo ai, nhiều khi chúng ta bảo họ cứng lòng tin như
Thôma. Nhưng thật sự, Thôma vẫn là một vị thánh Tông đồ và người đáng kính phục
hơn chúng ta tưởng. Ít nhất người cũng hơn chúng ta nhiều. Theo Tin Mừng Yoan,
Thôma là vị Tông đồ có suy nghĩ sáng sủa và nhiệt tình quả cảm. Khi Ðức Yêsu
nói với các môn đệ rằng: con đường Người đi, sau này họ cũng sẽ đi. Thôma liền
thưa: nhưng chúng con không biết Thầy đi đâu thì làm sao biết được đường lối của
Thầy? (14,5). Nhưng dù vậy, khi thấy Chúa dứt khoát muốn lên Yêrusalem, không kể
chi đến những nguy hiểm đang chờ, Thôma đã bảo anh em: Nào cả chúng ta nữa hãy
lên Yêrusalem chịu chết với Người. Một tính tình như vậy chỉ đáng khen, chứ có
gì là đáng chê.
Riêng trong câu chuyện hôm nay, thoạt tiên
Thôma có vẻ như là người Tông đồ duy nhất không muốn tin việc Chúa sống lại. Ðó
chỉ là lối thuật truyện của tác giả Tin Mừng thứ tư. Những sách Tin Mừng khác
cho biết lúc đầu nhiều môn đệ không muốn tin như vậy. Nhưng Yoan khi kể chuyện
thích nói đến "một" người để làm nổi bật ý nghĩa lên. Ông có lý để chọn
Thôma vì người Tông đồ này, như ta đã nói, có óc suy nghĩ sáng sủa. Những môn đệ
khác đã được thấy Chúa; còn ông, ông cũng muốn được hân hạnh đó, nếu có thể được.
Và hơn nữa, ông muốn có bằng chứng xác thực hơn kiểu cách anh em mô tả. Ông muốn
được mắt thấy tay sờ. Yoan mô tả thái độ của ông như vậy để khẳng định rằng: niềm
tin của các Tông đồ vào việc Chúa sống lại căn cứ vào những cơ sở thật chắc chắn.
Ðó là chủ đích của cả đoạn Tin Mừng Yn 20. Từ
đầu chí cuối, tác giả muốn nhấn mạnh: niềm tin vào việc Chúa sống lại phát xuất
từ những sự kiện không chối cãi được. Yoan và Phêrô chỉ tin sau khi đã thấy mồ
trống và các khăn liệm xác. Maria Magđala chỉ nhận ra Thầy đã sống lại sau khi
nghe rõ tiếng Thầy gọi tên mình. Mọi Tông đồ khác, kể cả Thôma, con người có
suy nghĩ sáng sủa, cũng chỉ công nhận Chúa đã phục sinh khi đã nhìn thấy Người.
Ðức tin của các Tông đồ có cơ sở chắc chắn. Họ thật là các chứng nhân của việc
Chúa sống lại.
Thành ra kết câu chuyện về Thôma cũng giống
như chuyện về Maria Magđala. Cả hai đều vắng mặt khi những người khác được
"ơn". Ðiều ấy thúc đẩy họ khao khát được ơn lớn hơn. Và quả thật,
Chúa đã thưởng công những tâm hồn cậy tin. Maria đã được hơn Yoan và Phêrô vì
Chúa đã hiện ra với bà và thân mật dịu dàng gọi tên bà. Thôma cũng vậy, ông được
Chúa hiện ra cho một mình ông, nếu ta nói được như thế.
Còn câu Chúa nói: "Bởi thấy Ta, con đã
tin; phúc cho những ai không thấy mà tin", không thể làm Thôma buồn, vì
ông thuộc thế hệ các Tông đồ, những người đã thấy và đã tin. Ai dám bảo thế hệ ấy
không có phúc? Chính Chúa đã có lần nói với họ: Phúc cho chúng con vì được xem
thấy, nghe thấy bao điều mà các tiên tri vua chúa không được thấy và nghe. Họ
có phúc vì đã thấy và đã tin, đang khi có bao kẻ cũng thấy mà không tin. Ðức
tin không chỉ căn cứ vào những điều đã thấy. Bọn Biệt phái có mắt mà như mù.
Nên Thôma đã thấy và đã tin, thì đã có phúc rồi. Và chắc chắn niềm vui của ông
thật đã to lớn khi thấy Chúa hiện ra và nói với mình. Câu nói kia không nhắm
ông nữa, nhưng hướng về độc giả sách Tin Mừng và chúng ta hết thảy. Chúng ta
không thuộc thế hệ những người mắt thấy, mà chúng ta tin, thì chúng ta là những
người có phúc. Có phúc vì đã được ơn Chúa ban, vì đức tin, cuối cùng, là ơn ban
của Chúa. Người ban cho những ai Người đã tiền định. Chính cái phúc đó mà chúng
ta phải suy nghĩ bây giờ theo lời thư 1 Phêrô.
B. Bài Thư Phêrô
Tác giả bắt đầu bằng lời chúc tụng Thiên Chúa
vì nghĩ đến hạnh phúc mình đã được với tư cách là tín hữu. Quả vậy, chỉ vì lòng
thương lớn lao mà Người đã ban cho tất cả chúng ta được ơn tái sinh nhờ mầu nhiệm
Ðức Kitô Phục sinh từ cõi chết. Chúng ta đâu đã thấy Người, thế mà chúng ta vẫn
mến tin Người. Do đâu vậy, nếu không phải do lòng thương xót lớn lao của Người?
Chính lòng thương xót ấy đã ban Ðức Kitô cho chúng ta, đã để Người chết cho
chúng ta và đã phục sinh Người từ kẻ chết cho chúng ta. Tất cả những việc lớn
lao đó nằm trong kế hoạch tình yêu muốn cho chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi và
trở nên nghĩa tử trong Ðức Kitô, khiến chúng ta được trông đợi hồng phúc lớn
lao bất diệt sau này. Sánh với phúc lộc ấy, những đau khổ ở đời này có là chi?
Ðó chỉ là tạm bợ và rơm rác làm cho vàng sáng tỏ. Thế nên chúng ta hãy giữ vững
niềm tin, nhìn vào Ðức Kitô sống lại trong vinh quang mà chắc chắn vào tương
lai rực rỡ đang chờ mình. Hạnh phúc ở ngay trong niềm tin ấy.
Như vậy bài thư Phêrô đã tiếp nối bài Tin Mừng
Yoan, cho chúng ta thấy hạnh phúc của mình khi tin Ðức Kitô sống lại và dùng niềm
tin ấy khuyến khích chúng ta trong cuộc đời phấn đấu ở trần gian. Nhưng thật lầm
tưởng khi suy nghĩ việc Chúa Phục sinh nguyên trong tương quan với mình mà
thôi. Khi nói với Thôma: phúc cho những ai không thấy mà tin, Chúa sống lại
gián tiếp ngỏ ý muốn có những người như vậy; nghĩa là Thôma và các Tông đồ phải
đi tìm những người như thế. Người cũng đã dạy Maria, khi đã nhận ra Người sống
lại, hãy đi báo tin cho các môn đệ. Niềm tin phục sinh bao hàm sứ điệp truyền
giáo. Ðức tin của những người đã thấy làm cho những kẻ không thấy mà tin. Những
kẻ này có phúc qua trung gian những người trên. Chúng ta nay được phúc lộc nhờ
lời giảng của các Tông đồ. Và tác động của các Ngài tới chúng ta qua Giáo Hội
mà buổi đầu đã được tác giả sách Công vụ mô tả như chúng ta vừa nghe đọc. Chúng
ta cần tìm hiểu đoạn Thánh Kinh này để biết rõ môi trường phải nung nấu niềm
tin hạnh phúc của chúng ta vào việc Chúa phục sinh.
C. Bài Sách Công Vụ
Rõ ràng câu cuối bài sách Công vụ cho thấy
"số những kẻ được cứu rỗi cứ mỗi ngày được Chúa ban thêm" cho cộng
đoàn các Tông đồ lập ra. Và ta phải hiểu niềm tin cứu rỗi nơi mỗi người cũng chỉ
tăng trong các cộng đoàn như thế. Thế nên tìm hiểu các cộng đoàn này là một
nghĩa vụ.
Tác giả sách Công vụ - thánh Luca - đã nhiệt
tình làm công việc ấy. Ở đây rõ ràng người không phác họa tự ý. Bản văn của người
thiếu thứ tự và có nhiều nét lặp lại, khiến ta có thể nói người đã nghe tin về
nhiều cộng đoàn khác nhau và thấy Ơn Chúa Thánh Thần làm việc ở các cộng đoàn
khác nhau thế nào, người ghi tất cả lại như là một bản thống kê các sinh hoạt
phong phú của Chúa Thánh Thần.
Trước hết chúng ta thấy các tín hữu bấy giờ
kiên trì (hay chuyên cần) với giáo huấn của các Tông đồ và sự hiệp thông, việc
bẻ bánh và kinh nguyện. Không có sự chuyên cần với giáo huấn của các Tông đồ,
không thể đào sâu và giữ vững đức tin. Người ta sẽ tin hời hợt và có thể lạc mất
niềm tin. Việc kiên trì kết hợp với các Tông đồ, với quyền giáo huấn ở trong Hội
Thánh là điều kiện để giữ được liên lạc và kết hợp được với Ðức Kitô hầu khỏi bỏ
rơi mất niềm tin.
Ðồng thời khi liên kết với đầu, người ta cũng
mật thiết với anh em là cùng chi thể trong một thân thể. Các tín hữu đầu tiên
đã chuyên cần với hiệp thông, không những trong cùng một đức tin nhưng còn
trong một lòng mến. Họ chỉ có một lòng một ý (4,32). Không một người nào nói là
mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự đều là của chung. Chắc chắn chúng
ta không nên hiểu chế độ "của chung" đã phổ cập ở mọi nơi, trong những
cộng đoàn đông đảo. Nhưng sự kiện có một số người sau khi đã đón nhận đức tin,
đã biết tình nguyện bỏ chung của để chia sẻ và tương trợ nhau, cũng nói lên ơn
Chúa Thánh Thần làm việc mạnh mẽ nơi tâm hồn các tín hữu. Luca ghi nhận sự kiện
ấy như là dấu chỉ về đời sống mới và hạnh phúc phục sinh. Ðó có thể là lý tưởng,
nhưng vẫn là đặc sủng, là tiếng gọi, là biểu thị của đức tin sống động và toàn
vẹn, là dấu chỉ đời sống phục sinh phát triển đến mức cụ thể chi phối đến cả đời
sống vật chất.
Tuy nhiên sự hiệp thông sâu xa và căn bản nằm ở
bình diện khác. Chính Thiên Chúa và sự sống của Người là nguồn mạch phát sinh
ra sự sống trong Hội Thánh. Thế nên hàng ngày các tín hữu chuyên cần với việc bẻ
bánh và kinh nguyện. Sách Công vụ nói: họ bẻ bánh ở nhà vì đó là nghi lễ riêng
của Kitô giáo, không làm tại Ðền thờ được. Họ làm việc ấy "lòng hân hoan,
dạ đơn thành, trong lòng ngợi khen Thiên Chúa", vì đây là lễ Tạ ơn Thiên
Chúa đã ban ơn cứu độ mọi người nơi Ðức Yêsu Kitô Tử nạn và Phục sinh. Chính
trong nghi lễ bẻ bánh họ nhận ra sự hiện diện của Chúa đã chết và sống lại; họ
thấy Thiên Chúa ra tay cứu độ loài người, nên lòng họ hân hoan, miệng dâng lời
ngợi khen. Lúc ấy tâm hồn được bồi dưỡng, dạ họ trở nên đơn thành; họ trở nên tạo
vật mới, nên bánh không men của lễ Vượt Qua, tức của mầu nhiệm Phục sinh.
Ngoài ra, họ tỏ ra chuyên cần với việc cầu
nguyện vì đó là thái độ chung của mọi người có tin tưởng. Người Dothái trung
thành với kinh nguyện ở Ðền thờ. Các môn đệ Chúa cũng vậy. Sách Công vụ kể
Phêrô và Yoan lên Ðền thờ cầu nguyện vào giờ chung với mọi người. Nhưng ngay từ
đầu các tín hữu đã có lối cầu nguyện riêng chung với nhau, như khi chờ nhận ơn
Chúa Thánh Thần. Và việc cầu nguyện này cần cho đời sống mới đến nỗi Phêrô khẳng
định các việc từ thiện bác ái không được làm suy giảm.
Chính nhờ nếp sống chuyên cần với việc giáo huấn,
hiệp thông, bẻ bánh và cầu nguyện như thế mà Hội Thánh lớn lên trong sự mến phục
của toàn dân và được Chúa chúc lành cho tăng trưởng.
Thế thì đời sống đức tin mới của mỗi người
cũng chỉ có thể phát huy được nhờ bốn sự chuyên cần trên, tức là nhờ việc tham
gia vào nếp sống chuyên cần của Giáo hội. Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta qua Ðức
Yêsu-Kitô, Ðấng đã chết và sống lại. Thôma đã xem thấy Người và đã tin. Chúng
ta không thấy nhưng vẫn tin vì Người đang hoạt động nơi các Tông đồ và Giáo hội.
Chính việc liên kết với các Tông đồ và hiệp thông với anh em trong việc bẻ bánh
và cầu nguyện làm cho chúng ta được hợp nhất với Chúa và nhận lấy sự sống của
Người. Sự sống này là sự sống Thần Linh hay Thánh Thần mà Ðức Kitô đã đem lại
khi Người Tử nạn-Phục sinh. Khi phát triển sự sống ấy có thể phát sinh ra một nếp
sống mới thật sự khiến toàn dân mến phục và nhiều người theo Chúa.
Chúng ta cần suy nghĩ về những điều ấy và đem
ra thực hành. Chắc chắn đời sống riêng của chúng ta và đời sống chung của giáo
xứ sẽ khả quan hơn nhiều. Và để bắt đầu, chúng ta hãy sốt sắng hiệp thông với
nhau trong việc tuyên xưng một đức tin, trong việc cầu nguyện và bẻ bánh, để có
thể hiệp thông trong việc chia sẻ tương trợ nhau trong đời sống.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật II Phục Sinh, Năm A
Bài đọc: Acts
2:42-47; 1 Pet 1:3-9; Jn 20:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Niềm tin của các môn đệ vào Tin Mừng Phục Sinh
Nếu cuộc đời con người
chấm dứt với cái chết, con người cứ việc ra sức ăn chơi, mua sắm, và hưởng thụ
mọi thú vui trên đời; nhưng nếu con người biết có một cuộc sống vĩnh cửu mai
sau, con người phải biết suy xét, và làm mọi cách để đạt được cuộc sống mai sau
đó. Lý do đơn giản vì đó là cuộc sống mai sau là cuộc sống hạnh phúc và vững bền
mãi mãi.
Tuần trước chúng ta đã
được chứng kiến Tin Mừng Phục Sinh qua các bài đọc. Tuần này, các bài đọc cho
chúng ta nhìn thấy những khía cạnh khác nhau của niềm tin vào sự phục sinh.
Trong bài đọc I, Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật cho chúng ta một cộng đoàn lý
tưởng, sống hạnh phúc với nhau đặt căn bản trên niềm tin của sự phục sinh. Tác
giả muốn cho chúng ta thấy niềm tin vào sự phục sinh mai sau có sức mạnh biến đổi
các cá nhân và cộng đoàn, để sống theo một lý tưởng tuyệt vời: để mọi sự làm của
chung và sống tình hiệp thông huynh đệ trọn hảo với nhau. Trong bài đọc II,
thánh Phêrô chúc tụng Thiên Chúa đã ban cho con người Đức Kitô để chịu chết
thay cho con người. Nhờ Ngài, con người sẽ không phải chết đời đời; nhưng được
hy vọng để đạt tới cuộc sống muôn đời. Để đạt được ơn cứu độ, đức tin con người
cần được tinh luyện bằng những thử thách; nhưng đức tin sau khi được tinh luyện
sẽ đem lại cho con người thành quả tuyệt vời là ơn cứu độ. Trong Phúc Âm,
Thomas được Chúa Giêsu cho thấy bằng chứng để ông tin, nhưng Ngài cũng quở
trách Thomas, và là lời răn dạy cho những người đòi bằng chứng trước khi tin:
“Phúc cho những người không thấy mà tin.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Trình thuật ngắn gọn của sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng
ta cái nhìn bên trong vào cộng đoàn Kitô hữu nguyên thủy, và hai nguyên tắc cốt
yếu để xây dựng và làm cho cộng đoàn mỗi ngày mỗi lớn mạnh lên.
1.1/ Để thỏa mãn những
nhu cầu tâm linh, họ làm ba việc:
(1) Chuyên cần nghe
các Tông Đồ giảng dạy: Cộng đoàn đầu tiên phải ý thức rất rõ lời dạy của Chúa
Giêsu, khi ma quỉ cám dỗ Ngài: “Con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng
còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Các Tông-đồ không chỉ nhớ những lời
giảng dạy của Thiên Chúa, nhưng đức tin của các ông còn được vững mạnh qua việc
chứng kiến Chúa Giêsu Phục Sinh. Nghe và thực hành những gì Chúa dạy qua các
Tông-đồ sẽ giúp xây dựng đời sống cá nhân, và như một hệ quả, cũng sẽ xây dựng
đời sống cộng đoàn.
(2) Siêng năng tham dự
Lễ Bẻ Bánh: Vì sách Công Vụ Tông Đồ được viết rất sớm (khoảng 50 AD), nên cộng
đoàn đầu tiên phải thực hành lời Chúa Giêsu dạy trong Bữa Tiệc Ly chỉ ít năm sau
khi Chúa Phục Sinh: “Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy.” Lễ Bẻ Bánh cung
cấp sức sống cho cá nhân, và như một hệ quả, cũng cung cấp sức sống cho cộng
đoàn. Lời Chúa và Lễ Bẻ Bánh trong cộng đoàn đầu tiên là hai yếu tố chính giúp
hình thành cấu trúc của Thánh Lễ sau này.
(3) Cầu nguyện không
ngừng: Giống như Chúa Giêsu, cộng đoàn đầu tiên phải đương đầu với nhiều nguy
hiểm từ phía Thượng Hội Đồng, các hoàng đế Rôma, và ngay cả trong nội bộ. Họ
vâng lời Chúa Giêsu dạy bằng cách cầu nguyện không ngừng để khỏi sa vào những
chước cám dỗ.
1.2/ Để bày tỏ tình
bác ái với nhau, họ cũng làm ba việc:
(1) Sống hiệp thông với
nhau: Lễ Bẻ Bánh là căn nguyên của đời sống hiệp nhất. Chúa Giêsu là tấm bánh bẻ
ra cho muôn người được ăn. Khi họ ăn Mình Thánh Chúa, tất cả cùng trở nên các
chi thể của thân thể Ngài. Để giữ cho thân thể Chúa được vẹn toàn, sự hiệp nhất
là điều không thể thiếu. Hiệp nhất cần để gìn giữ cộng đoàn khỏi những chia rẽ
đến từ bên ngoài lẫn bên trong.
(2) Họ để mọi sự làm của
chung: “Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.”
Đây là lý tưởng tuyệt vời và cũng là ý định của Thiên Chúa. Ngài dựng nên mọi sự
cho tất cả mọi người hưởng dùng, chứ Ngài không muốn của cải nằm trong tay một
số người trong khi những người khác phải thiếu thốn đau khổ. Cộng đoàn các Kitô
hữu đã được trang bị đức tin đầy đủ để sống theo lý tưởng này. Nếu cộng đoàn
các Kitô hữu không sống được lý tưởng này, sẽ không có một cộng đoàn hay chính
thể nào trên thế giới có thể làm chuyện đó.
(3) Họ dùng bữa với
lòng đơn sơ, vui vẻ: “Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn
sơ vui vẻ.” Khó có thể xác định Lễ Bẻ Bánh và bữa ăn huynh đệ là một hay hai biến
cố khác nhau trong cộng đoàn đầu tiên; nhưng chúng ta có thể chắc chắn là họ
dùng bữa với nhau với tâm hồn đơn sơ và vui vẻ.
2/ Bài đọc II: Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng
sống động.
2.1/ Sự sống đời đời
được thực hiện nhờ Đức Kitô.
(1) Đức Kitô mang cho
chúng ta niềm hy vọng là cuộc sống đời đời: Tác giả Thư Phêrô I dâng lời cảm tạ
lên Thiên Chúa: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng
sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại.” Trước khi Đức Kitô tới,
con người không có hy vọng được hưởng cuộc sống đời đời; nhưng vì yêu thương,
Chúa Cha đã cho Con Một của Ngài chịu chết để đền tội cho nhân loại. Nhờ cái chết
và sự phục sinh, Ngài mang lại cuộc sống đời đời cho con người.
(2) Đặc điểm của gia
tài của Đức Kitô: Tác giả nói cho chúng ta một số những chi tiết quan trọng về
kho tàng là cuộc sống đời đời:
+ Không thể hư hại: Những
gì thuộc về trái đất sẽ bị hư hại và hủy diệt; những gì thuộc thượng giới sẽ tồn
tại muôn đời.
+ Không thể vẩn đục:
Cuộc sống nơi trái đất có nhiều ô nhiễm, bệnh tật; cuộc sống trên thượng giới
giải phóng con người khỏi mọi ô nhiễm của đời này.
+ Không thể tàn phai:
Những gì là vật chất sẽ có ngày phai tàn; những gì thuộc thượng giới sẽ vĩnh viễn
mãi mãi.
+ Được lãnh nhận trong
Ngày sau hết: Con người chỉ có được kho tàng này sau khi chết.
2.2/ Phải trung thành
trong mọi thử thách mới hy vọng đạt sự sống đời đời: Tác giả liệt kê một điều
kiện cần thiết để đạt được kho tàng: Phải trung thành giữ vững đức tin vào Đức
Kitô. Theo Tin Mừng, con người cần tin vào Đức Kitô; nhưng đức tin này sẽ bị thử
thách vì những giá trị hào nhoáng của thế gian và của ma quỉ. Khi Đức Giêsu
Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem
lại vinh quang, danh dự cho người tin. Một điều khó cho con người là họ phải
tin và yêu Đức Kitô dù chưa thấy mặt Ngài; nhưng chính vì điều này, con người sẽ
lãnh nhận phần thưởng của mình. Tác giả viết: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn
yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan
chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức
tin, là ơn cứu độ con người.”
3/ Phúc Âm: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”
3.1/ Chúa Giêsu hiện
ra với các Tông đồ, lúc không có Thomas.
(1) Bình an của Chúa
Giêsu: Sự lo lắng và sợ sệt làm con người bất an, như trình thuật kể tâm trạng
của các tông đồ vào những ngày sau khi Chúa chết: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ
nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái.”
Đang khi các ông hoảng hốt lo sợ như thế, Đức Giêsu biết rõ các ông cần điều gì
nhất. Ngài đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! Nói xong, Người
cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”
Bình an các ông có được
là nhờ tin Đức Kitô sống lại. Các ông tưởng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy
Ngài nữa, và còn đang bị khủng hoảng bởi những việc mới xảy ra; nhưng giờ đây
các ông vui mừng vì được thấy Ngài bằng xương bằng thịt. Hơn nữa, Ngài còn chứng
minh cho các ông biết tất cả những gì Ngài đã nói với các ông là sự thật, tất cả
những gì Ngài tiên báo về Cuộc Khổ Nạn của Ngài đều hiện thực. Sự hiện diện của
Đức Kitô mang lại cho các ông sự bình an đích thực trong tâm hồn, vì Ngài bảo đảm
cho các ông uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa, được biểu lộ qua Đức Kitô.
(2) Lệnh được sai đi:
Khi Đức Kitô chọn các tông đồ, Ngài muốn các ông tiếp tục thi hành sứ vụ Ngài
đã khởi sự; nên Người lại nói với các ông: “”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha
đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và
bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được
tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”” Sự bình an các tông đồ có được,
không phải chỉ do sự hiện diện của Đức Kitô, nhưng còn do sự hiện diện và quyền
năng của Thánh Thần, mà Đức Kitô đã thổi hơi vào các tông đồ. Với sự bình an và
quyền năng của Thánh Thần, Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trước đây, sự
lo lắng và sợ hãi làm cho các ông không dám sống và làm chứng cho sự thật;
nhưng giờ đây, sau khi đã cảm nhận được sự bình an qua niềm tin vào Chúa sống lại
và sức mạnh của Thánh Thần; các tông đồ mở tung cửa đi vào thế giới và làm chứng
cho Đức Kitô. Các ông biết nếu Đức Kitô đã chinh phục kẻ thù ghê gớm nhất là sự
chết, còn gì phải sợ nữa.
3.2/ Chúa Giêsu hiện
ra với các Tông đồ, có cả Thomas.
(1) Sự cứng lòng của
Thomas: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Thomas, cũng gọi là Didymus,
không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi
đã được thấy Chúa!” Ông Thomas đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu
tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi
chẳng có tin.” Chúng ta đừng vội trách Thomas, vì các tông đồ khác cũng từng cứng
lòng như ông khi họ chưa nhìn thấy Chúa. Tuy nhiên, cách thức “khi nhìn thấy mới
tin” chỉ là một trong nhiều cách thức con người dùng để tin một điều là sự thật.
(2) Phản ứng của
Thomas khi nhìn thấy Chúa: “Tám ngày sau, các môn đệ của Đức Giêsu lại có mặt
trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến,
đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Thomas: “Đặt
ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.
Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”
Ông Thomas thưa Người:
“Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy,
nên anh tin. ” Lời thưa của Thomas không đơn thuần chỉ là niềm tin vào Chúa sống
lại; nhưng là lời tuyên xưng Đức Kitô là Thầy và là Thiên Chúa của ông. Tin khi
đã thấy là cách thức thấp nhất con người dùng khi muốn tin điều gì là thật;
nhưng Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến những cách thức cao hơn, khi Ngài nói:
“Phúc thay những người không thấy mà tin!” Con người có thể tin Thiên Chúa qua
các việc Ngài làm trong vũ trụ, hay qua Kinh Thánh, hay qua lời chứng của các
chứng nhân. Lề Luật Do-thái chỉ đòi lời của 2 chứng nhân có thế giá. Chúng ta
đã có hàng triệu chứng nhân đã làm chứng cho sự phục sinh của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Đức tin giúp biến đổi
mỗi cá nhân và cộng đoàn. Để có thể trở thành một cộng đoàn lý tưởng, mọi thành
phần đều phải không ngừng thăng tiến niềm tin.
– Gian nan thử thách
không thể thiếu để tôi luyện đức tin. Vì thế, chúng ta đừng sợ phải đương đầu với
chúng, nhưng hãy khôn ngoan dùng sức mạnh của niềm tin để vượt thắng
chúng.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
19/04/2020 – CHÚA NHẬT TUẦN 2 PS – A
KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Ga 20,19-31
HỌP MỪNG CHÚA SỐNG LẠI
“Các môn đệ vui
mừng vì được thấy Chúa.” (Ga 20,25)
Suy niệm: Khi đại dịch Covid-19 bùng phát, việc “ở nhà” là biện
pháp phòng tránh dịch bệnh hữu hiệu. Các y bác sĩ đưa ra lời kêu gọi: “Chúng
tôi đi làm vì các bạn, các bạn hãy ở nhà vì chúng ta.” Các tông đồ cũng đã từng
sống kinh nghiệm của một nhóm người chịu cách ly. Sau khi Chúa Giê-su chịu chết
và được an táng trong mồ, các môn đệ sợ hãi tụ tập trong nhà, đóng kín cửa.
Trong khung cảnh ‘nội bất xuất, ngoại bất nhập’ này, Chúa Giê-su phục sinh đã
hiện ra đứng giữa họ. Ngài chúc bình an cho họ. Ngài cho các ông xem các dấu
đinh nơi tay và cạnh sườn để các ông thấy Chúa và có niềm vui gặp Chúa. Ngài thổi
hơi trên các ông, trao ban ơn Đức Chúa Thánh Thần, và sai các ông ra đi loan
báo Tin Mừng.
Mời Bạn: Nối tiếp truyền thống trong Hội Thánh từ thời các
Tông đồ, hàng tuần các tín hữu tham dự thánh lễ Chúa nhật để họp mừng Chúa sống
lại. Đây là cơ hội vàng để cộng đoàn gặp Chúa phục sinh, lắng nghe Lời Chúa, củng
cố đức tin và nhận lấy sức mạnh để dấn thân phục vụ cho Nước Chúa giữa thế
gian. Thế nhưng, có khi vì dịch bệnh, nhà thờ phải đóng cửa. Lúc đó, cùng trải
nghiệm cách ly như các tông đồ, bạn vẫn có thể “ở nhà” với cộng đoàn, gia đình
mình gặp gỡ Chúa qua lời cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa để được Ngài sai đi.
Sống Lời Chúa: Suy niệm Tin Mừng ngày Chúa Nhật và dành ít phút hồi
tâm và kết hợp với Chúa bằng việc rước lễ thiêng liêng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su. Chúa muốn ở cùng chúng con mọi
ngày cho đến tận thế. Chúng con cũng muốn dành thì giờ mỗi ngày để gặp Chúa và
tâm sự với Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Chúng tôi đã thấy
Chúa (19.4.2020 – Chúa nhật 2 Phục Sinh, Năm A – Kính Lòng thương xót của Chúa)
Suy Niệm
Sau khi được phục sinh, Ðức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa,
nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ.
Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp,
khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u.
Ngài chúc cho họ bình an ba lần (c.19.21.26),
thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Ðức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương.
Thân xác chiến thắng của Ngài
sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa,
vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng:
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ.
Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp,
khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u.
Ngài chúc cho họ bình an ba lần (c.19.21.26),
thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Ðức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương.
Thân xác chiến thắng của Ngài
sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa,
vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng:
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma.
Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5).
Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Ðức Giêsu phục sinh.
Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ, lúc Ngài đến.
Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách.
Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn,
khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn:
“Chúng tôi đã thấy Chúa.”
Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan.
“Nếu tôi không thấy… nếu tôi không xỏ ngón tay…
nếu tôi không thọc bàn tay… tôi sẽ chẳng tin đâu.”
Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Ðức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai.
Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến.
Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em,
nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi.
Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Ðức tin của chúng ta hôm nay
dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin,
đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại.
Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5).
Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Ðức Giêsu phục sinh.
Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ, lúc Ngài đến.
Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách.
Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn,
khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn:
“Chúng tôi đã thấy Chúa.”
Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan.
“Nếu tôi không thấy… nếu tôi không xỏ ngón tay…
nếu tôi không thọc bàn tay… tôi sẽ chẳng tin đâu.”
Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Ðức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai.
Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến.
Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em,
nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi.
Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Ðức tin của chúng ta hôm nay
dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin,
đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người giống Tôma.
Họ đòi “thấy và chạm đến” những thực tại vô hình,
như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu “thấy và chạm” có nghĩa là “có cảm nghiệm”,
thì đòi hỏi trên thật là chính đáng.
Ðức Giêsu đã cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp người khác
thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật.
Chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa,
cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao,
cần bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác
như người đã cảm được cái nhẹ bổng của linh hồn.
Họ đòi “thấy và chạm đến” những thực tại vô hình,
như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu “thấy và chạm” có nghĩa là “có cảm nghiệm”,
thì đòi hỏi trên thật là chính đáng.
Ðức Giêsu đã cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp người khác
thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật.
Chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa,
cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao,
cần bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác
như người đã cảm được cái nhẹ bổng của linh hồn.
Truyền giáo là làm cho người ta tin,
làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa.
Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được rằng:
“Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18).
Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói được rằng:
“Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa.
Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được rằng:
“Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18).
Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói được rằng:
“Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác…
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác…
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG TƯ
Thoát Khỏi Ách Thống
Trị Của Sự Chết
Nếu chúng ta không thuộc
về Thiên Chúa như các chứng nhân và các môn đệ của Đức Kitô, thì chúng ta sẽ
hoàn toàn thuộc về thế giới đã sa ngã này. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta sẽ dẫn
đến sự chết. Qua cái chết, thế giới vật chất sẽ khống chế hoàn toàn phẩm giá của
chúng ta trong tư cách là những con người, làm cho chúng ta trở thành ‘bụi đất’
không hơn không kém. Nếu không có đức tin vào Chúa Kitô, thì đấy sẽ là viễn tượng
duy nhất của cuộc sống con người. Sự hiện hữu của con người sẽ thật là ảm đạm.
Cuộc Phục Sinh của Đức
Kitô giải thoát chúng ta khỏi một viễn tượng tối tăm như thế. Cuộc Phục Sinh ấy
giải thoát chúng ta khỏi ách thống trị của sự chết. Đó là lý do tại sao niềm
vui Phục Sinh của chúng ta tiên vàn là một niềm vui bật ra từ mầu nhiệm sáng tạo.
Bởi đó, chúng ta vui mừng, vì Chúa là Thiên Chúa, vì Ngài đã dựng nên chúng ta,
vì chúng ta thuộc về Ngài.
Chúng ta vui niềm vui
Phục Sinh vì chúng ta là dân của Thiên Chúa, là đàn chiên do Ngài dẫn dắt.
Trong Mùa Phục Sinh, hình ảnh Đức Kitô là Chúa Chiên Lành hiện lên rõ ràng. Người
nói về chính mình: “Ta là mục tử tốt lành. Ta biết các chiên Ta, và các chiên
Ta biết Ta.” (Ga 10,14)
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 19/4
Chúa Nhật II Phục
Sinh
Chúa Nhật Kính Lòng
Thương Xót của Thiên Chúa
Cv 2, 42-47; 1Pr 1,
3-9; Ga 20, 19-31.
Lời Suy Niệm: “Lạy Chúa của
con, Lạy Thiên Chúa của con!”
Với lòng thương xót của Chúa, Chúa không muốn mất một ai trong chúng ta, cho dù
chỉ là một người. Chúa sẽ đến với từng người trong từng hoàn cảnh sống, giúp họ
nhận ra Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gìn giữ bà Maria Mác-đa-la, hai môn đệ trên đường Emau,
Nhóm Mười Một đặc biệt với Tôma. Xin Chúa thương đến mỗi người trong chúng con,
ban ân sủng của Chúa, để chúng con nhận ra Chúa trong cuộc sống của chúng con
cũng như nhận ra Chúa nơi người anh em, và qua các thụ tạo chung quanh chúng
con.
Mạnh Phương
19 Tháng Tư
Trò Chơi Hòa Bình
Một ngày kia, trên
con đường đi bách bộ ngang qua một sân chơi, ông Marschak, một nhà văn Liên Xô,
dừng lại quan sát các trẻ em vừa lên sáu, lên bảy đang chơi đùa với nhau trên
sân cỏ.
Thấy chúng chơi trò
gì là lạ, ông cất tiếng hỏi: “Này các em, các em đang chơi trò gì đó?”. Bọn trẻ
nhôn nhao trả lời: “Các em chơi trò đánh nhau”.
Nghe thế, ông
Marschak hơi cau mày. Rồi ra dấu cho các em đến gần, ông ôn tồn giải thích: “Tại
sao các em chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các em biết chứ, đánh nhau hay chiến
tranh có gì đẹp đẽ đâu. Các em hãy chơi trò chơi hòa bình xem nào”.
Ông vừa dứt lời, một
em bé reo lên: “Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao”. Rồi
cả bọn kéo nhau chạy ra sân, chụm đầu nhau bàn tán. thấy chúng chấp nhận ý kiến
của mình, nhà văn Marschak tỏ vẻ hài lòng, mỉm cười tiếp tục cất bước. Nhưng
không được bao lâu, ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông
nghe một giọng trẻ em hỏi: “Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không
biết”.
Vâng, làm sao bọn trẻ
có thể chơi trò chơi hòa bình khi chúng chỉ thấy người lớn “chơi trò chiến
tranh”. Khi chúng thấy các anh lớn lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự trong
lúc đất nước không còn một bóng quân thù.
Làm sao bọn trẻ có thể
chơi trò chơi hòa bình, khi mỗi ngày chúng thấy trên truyền hình, trên các mặt
báo hình ảnh của những người lớn bắn giết nhau, thủ tiêu nhau, ám sát nhau.
Làm sao bọn trẻ có thể
chơi trò chơi hòa bình, khi trong chính gia đình chúng thấy anh chị, thậm chí
đôi khi cả cha mẹ chúng lớn tiếng cãi vã, mắng chửi nhau. Có khi họ dùng cả tay
chân để thay lời nói. Trong thức tế, bầu khí người lớn tạo ra để cho các trẻ em
lớn lên không phải là bầu khí hòa bình.
Ðến bao giờ thế giới của
người lớn mới hiểu và thực tâm tìm phương thế giải quyết sự mâu thuẫn: là hằng
ngày thế giới của người lớn bỏ ra cả tỷ Mỹ kim cho việc nghiên cứu và trang bị
về vũ khí.
Trong khi đó, trên thế
giới có 800 triệu người sống dưới mức tối thiểu cần thiết cho con người, nghĩa
là họ đang bị đe dọa chết đói. Có 600 triệu người trên thế giới đang bị mù chữ.
Chỉ có 4 trong số 10 trẻ em được cắp sách đến trường tiểu học trong hơn ba năm.
Và cứ 10 đứa trẻ sinh ra trong cảnh cơ hàn thì 2 trẻ bị chết trong năm đầu
tiên.
Vâng, thế giới người lớn
phải bắt đầu loại bỏ chiến tranh và xây dựng hòa bình, nếu họ muốn trẻ con cũng
noi gương chơi trò chơi ấy.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét