19/04/2020
Chúa Nhật tuần 2 PHỤC
SINH năm A.
CHÚA NHẬT VỀ LÒNG
THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
(phần II)
Phụng vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật II Phục Sinh A
Cv 2,42-47; 1 Pr 1,3-9; Ga 20,19-31)
NIỀM TIN PHỤC SINH
“Những điều đã
được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31)
Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Các bài đọc Lời Chúa
hôm nay làm nổi bật điểm thần học mấu chốt của Kitô Giáo: Đức Giêsu Kitô đã chết
và đã phục sinh. Những ai tin vào Người thì được cứu độ, nghĩa là được sự sống
đời đời.
1. Bài đọc 1
Đoạn sách Công vụ Tông
Đồ mô tả cuộc sống cộng đoàn của những người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, trong
đó phác họa những điểm chính yếu của một cộng đoàn Kitô hữu, đó là lắng nghe lời
rao giảng, tham dự lễ bẻ bánh, cầu nguyện và chia sẻ vật chất.
Nghe rao giảng: Các
tín hữu chuyên chăm nghe lời rao giảng và chứng tá của các môn đệ về một Đức
Giêsu đã chịu đóng đinh, chịu chết trên thập giá, nhưng đã được Thiên Chúa cho
sống lại, giải thoát khỏi những đau khổ của cái chết và được đặt làm Đức Chúa
và làm Đấng Kitô (Cv 2,23-24.36). Đức Giêsu mà người ta cho là đã chết như một
con người thì các môn đệ khẳng định đó là Đức Chúa, là Đấng vẫn sống và đang sống
giữa các tín hữu.
Dự lễ bẻ bánh: Trong bữa
Tiệc Ly Chúa Giêsu đã cử hành việc bẻ bánh và nhắc các môn đệ hãy tiếp tục việc
cử hành này mà tưởng niệm cuộc hiến tế của Người (Lc 22,19; 1 Cr 11,24-25).
Chính nhờ việc nghe giảng giải Kinh Thánh và nhất là việc bẻ bánh mà hai môn đệ
trên đường Emmaus nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh (Lc 24,30-32). Giờ đây, khi Chúa
Giêsu đã về trời, các tín hữu tiên khởi tưởng nhớ và cảm nhận sự hiện diện của
Đức Kitô Phục Sinh ở giữa họ, đồng thời được thông phần sự sống thần linh của
Ngài khi họ tham dự lễ bẻ bánh.
Cầu nguyện và chia sẻ
vật chất: Khi cùng chia sẻ niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, các tín hữu cùng hiệp
thông với nhau trong lời cầu nguyện, kết hợp mật thiết với nhau trong tình
huynh đệ, cũng như chia sẻ của cải vật chất cho nhau; họ đồng tâm nhất trí
trong việc ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến (Cv 2,44-47). Đời sống
hiệp nhất trong tinh thần cầu nguyện và sẻ chia của cải vật chất, đã trở thành
chứng tá sống động về một đời sống mới được canh tân nhờ sức sống của Chúa Kitô
Phục Sinh.
Tóm lại, chính niềm
tin vào Đức Kitô Phục Sinh đã nối kết các tín hữu và biến đổi họ thành cộng
đoàn của yêu thương, chăm chú nghe lời rao giảng, hiệp thông trong cầu nguyện
và không màng đến của cải vật chất. Đó là một cộng đoàn của những người được cứu
độ (Cv 2,47b).
2. Bài đọc 2
Tác giả thư thứ nhất
Phêrô cất lời ca tụng Thiên Chúa vì nhờ tình thương vô bờ của Ngài, Đấng đã cho
Đức Kitô sống lại từ cõi chết, mà các tín hữu được ơn tái sinh, nghĩa là được
Thiên Chúa ban cho sự sống mới bởi Thần Khí (x. Ga 3,3-5; 20,22).
Nhờ ơn tái sinh trong
Đức Kitô Phục Sinh, các tín hữu được lãnh nhận niềm hy vọng sống động. Đó là niềm
hy vọng về ơn cứu độ được biểu lộ qua việc phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết. Niềm
hy vọng này “sống động” vì dấu hiệu của sự tái sinh (hay ơn cứu độ) chính là sự
sống được trao ban cho các tín hữu do lòng thương xót của Thiên Chúa. Hơn nữa,
ơn tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh cho các tín hữu được hưởng gia tài cao
quý. Nếu như đối với Israel gia tài là Đất Hứa, thì đối với Hội Thánh, những
người thuộc về Đức Kitô, thì gia tài đó chính là Nước Trời; gia tài này là thứ
không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai, chỉ dành cho những ai tin vào
Đức Kitô Phục Sinh (1 Pr 1,3-5).
Niềm tin vào Đức Kitô
Phục Sinh là bảo đảm cho các tín hữu niềm hân hoan vui mừng khi họ được ân thưởng
trong thời cánh chung, khi Đức Kitô trở lại. Tuy thế, niềm tin đó không miễn
cho họ những gian nan thử thách trong cuộc sống hiện tại. Họ cần bày tỏ sự
trung tín với Đức Kitô ngay trong những thách đố của cuộc sống đức tin. Chính
những gian nan thử thách sẽ tinh luyện đức tin họ, nhờ đó “khi Đức Giêsu Kitô tỏ
hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh
quang, danh dự” (1 Pr 1,7); họ sẽ được “chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ
vinh quang”, khi họ “nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người”
(1 Pr 1,8-9).
3. Bài Tin Mừng
Đoạn Tin Mừng Gioan mặc
khải một vài điểm thần học quan trọng về Đức Kitô Phục Sinh: Người là Đấng đem
lại bình an và là Đấng sai các môn đệ ra đi; Người cũng là đối tượng của niềm
tin, một niềm tin dẫn tới sự sống đời đời.
Trước hết, Đức Giêsu
Phục Sinh là Đấng đem lại bình an. Ba lần trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu chúc
bình an cho các môn đệ (Ga 20,19.21.26). Bình an ở đây không phải là thứ bình
an vì không có gian nan, thử thách, đau khổ nhưng là thứ bình an vì có Chúa Phục
Sinh hằng ở cùng. Việc gặp Đức Kitô Phục Sinh không làm cho các môn đệ hết sợ
người Do Thái; bằng chứng là tám ngày sau lần hội ngộ đầu tiên cùng Thầy, các
môn đệ vẫn lo sợ đóng kín cửa. Và có lẽ đó là lý do để Chúa Phục Sinh khẳng định
lại một lần nữa rằng sự hiện diện của Người đem lại “bình an cho anh em” (Ga
20,26).
Tiếp đến, Đức Giêsu Phục
Sinh là Đấng sai các môn đệ ra đi, nhờ sức mạnh của Thần Khí, để tiếp tục sứ mạng
của Người. Tác giả Tin Mừng thứ tư cho thấy rằng sứ mạng này bắt nguồn từ Chúa
Cha: Như Chúa Cha sai Đức Giêsu và ban Thần Khí trên Người (x. Ga 1,32-34), Đức
Giêsu cũng sai các môn đệ (x. Ga 17,18) và ban Thần Khí trên các ông (Ga
20,22). Cũng như Thiên Chúa đã ban sự sống bằng cách thổi sinh khí vào con người
(St 2,7; Ed 37,5.9), Đức Kitô Phục Sinh cũng “thổi hơi” mà ban Thần Khí cho các
môn đệ. Các ông nhận lấy Thần Khí của Người để được hiệp thông vào quyền năng
mang lại sự sống Thần Khí cho những ai tin vào Người nhờ sứ mạng của các ông.
Như vậy, bóng dáng Chúa Ba Ngôi in đậm trong sứ mạng của các môn đệ.
Sau cùng, Tin Mừng thứ
tư nhấn mạnh rằng Đức Kitô Phục Sinh là đối tượng của niềm tin và nhờ tin mà được
sự sống đời đời. Niềm tin khởi đầu với việc thấy; thấy mới tin: Khi được Đức
Giêsu Phục Sinh “cho xem tay và cạnh sườn” của Người,
các môn đệ “vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,20); rồi các
ông khoe với ông Tôma, người vắng mặt hôm đó, rằng họ đã “được thấy Chúa”
(Ga 20,25). Trong khi đó ông Tôma còn đi xa hơn; ông không những đòi hỏi phải
“được thấy”, mà còn phải “được sờ” những vết thương của Đức Kitô Phục Sinh thì
mới tin. Đáp lại, Đức Kitô Phục Sinh bảo ông Tôma “đừng cứng lòng, nhưng hãy
tin” sau khi cho ông “được thấy, được sờ”; đồng thời, Người lại tha thiết mời gọi
và chúc phúc cho những ai “tin” mà không đòi hỏi phải “được thấy”. Từ đó trở
đi, đức tin không dựa trên những kinh nghiệm cụ thể về Đức Kitô Phục Sinh hiện
ra, nhưng trên lời chứng của các Tông Đồ là những người đã thấy và đã tin.
Tin Mừng thứ tư khép lại
với lời tuyên tín quan trọng, như là một tóm kết chủ đạo cho toàn bộ Tin Mừng
thứ tư, rằng tất cả những ai tin vào Đức Kitô Phục Sinh thì sẽ “nhờ tin mà được
sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Sách Công vụ Tông Đồ
cho thấy rằng Đức Kitô Phục Sinh là điểm quy chiếu và hiệp thông của các tín hữu
tiên khởi qua việc nghe các môn đệ rao giảng, tham dự lễ bẻ bánh, cầu nguyện và
chia cơm sẻ áo. Đức tin vào Đức Kitô Phục Sinh đã làm thay đổi hoàn toàn cách sống
của các tín hữu sơ khai. Ngày nay Đức Kitô Phục Sinh vẫn thôi thúc các Kitô hữu
khắp nơi qui tụ quanh bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, lắng nghe giáo huấn của Hội
Thánh và sống tinh thần chia sẻ vật chất với anh chị em mình.
2/ Thư thứ nhất Phêrô
nói đến niềm “hân hoan vui mừng”, mặc dù còn phải chịu “ưu phiền ít lâu giữa
trăm chiều thử thách” (1 Pr 1,6). Đức Kitô Phục Sinh mang lại niềm vui lớn lao
cho những ai tin vào Người, vì được tràn trề niềm hy vọng vào ơn cứu độ muôn đời.
Tuy vậy, niềm tin và hy vọng đó không miễn cho các tín hữu khỏi những thách đố
trong đời sống đức tin. Trái lại, những thử thách trong đời sống thường ngày là
cơ hội để các tín hữu cảm nhận sâu xa hơn niềm “hân hoan vui mừng” lớn lao mà
Chúa Kitô Phục Sinh mang lại và sẽ được bày tỏ cách tròn đầy trong thời cánh
chung.
3/ Các Tông Đồ là những
người đã được thấy Chúa Kitô Phục Sinh và đã tin; các ông được ban Thánh Thần
và được sai đi làm chứng về niềm tin đó và các ông cũng đã sẵn sàng trả giá bằng
chính mạng sống của mình để bảo vệ đức tin. Tác giả Tin Mừng thứ tư làm chứng rằng:
những ai tin vào Đức Kitô Phục Sinh thì sẽ nhờ tin mà được sự sống. Mỗi Kitô hữu
đều là những môn đệ được Chúa Giêsu Phục Sinh ban Thánh Thần và được sai đi làm
chứng rằng Đức Kitô Phục Sinh, nguồn bình an, niềm vui và hy vọng chắc chắn cho
sự sống đời đời.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Đức Kitô Phục Sinh chính là hiện thân lòng thương xót của Thiên
Chúa dành cho nhân loại; Ngài luôn hiện diện giữa thế giới để ban bình an và củng
cố đức tin cho các tín hữu. Chúng ta cùng chúc tụng Chúa và dâng lời cầu nguyện:
1. Chúa Phục Sinh
phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo
Hoàng Phanxicô và các mục tử trong Hội Thánh được tràn đầy Thánh Thần của Chúa
Phục Sinh, để các ngài chu toàn sứ mạng dẫn dắt đoàn chiên Chúa trao phó.
2. Niềm tin vào Đức
Kitô Phục Sinh đưa con người đến sự sống đời đời. Chúng ta cùng cầu nguyện cho
các dân tộc và quốc gia trên thế giới còn xa lạ với đức tin Kitô giáo, được
nghe loan báo Tin mừng Phục sinh, và tin nhận Đức Kitô là “sự thật và là sự sống”.
3. Chúa Phục Sinh đã
ban tặng bình an cho các Tông Đồ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người ở khắp
nơi trên thế giới đang lo âu và đau khổ vì dịch bệnh, biết tin tưởng vào lòng
Chúa thương xót, để được Chúa cứu chữa và luôn sống trong bình an.
4. “Phúc cho những ai
đã không thấy mà tin”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn
chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện và ân huệ của Chúa Phục Sinh trong cuộc sống,
để hết lòng yêu thương phục vụ tha nhân là hình ảnh của chính Chúa.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban
Thánh Thần giúp chúng con luôn can đảm và hăng hái làm nhân chứng cho Đức Kitô
Phục Sinh giữa thế giới hôm nay. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 2 Phục Sinh Năm A
*** Từ Chúa nhựt II
đến Chúa nhựt VI mùa Phục sinh,
– Bài đọc I luôn
trích từ sách Công vụ tông đồ, trình bày cuộc sống và hoạt động của Hội Thánh
sơ khai.
– Bài đọc II trích
nối tiếp từ thư thứ I của Thánh Phêrô, trừ Chúa nhựt IV không theo thứ tự liên
tục này vì hôm đó Phụng vụ muốn nhấn mạnh ý tưởng Đức Giêsu là mục tử.
– Bài Tin Mừng
trích từ Tin Mừng Gioan, trừ Chúa nhựt III.
KẾT QUẢ VIỆC CG PHỤC SINH TRONG CUỘC SỐNG CỦA CÁC TÍN HỮU
“Đức Giêsu hiện
ra giữa các tông đồ”(Ga 20,19)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc
I : Cuộc sống mới thắm tình huynh đệ của các tín hữu cộng
đoàn sơ khai.
– Bài đọc II : Nhờ
Đức Giêsu phục sinh, chúng ta được tái sinh và hưởng gia tài của
Thiên Chúa, vì vậy chúng ta hãy vui mừng.
– Bài Tin Mừng :
Hai cuộc hiện ra của Đức Giêsu phục sinh. Ngài ban cho các môn đệ bình
an, niềm vui và đức tin.
Sau tuần bát nhật lễ
Phục sinh, có lẽ chúng ta nghĩ rằng thế là xong, chúng ta trở về với cuộc sống
đơn điệu nhàm chán. Nghĩ thế là lầm, Đức Giêsu sống lại không phải chỉ là một
biến cố diễn ra một lần rồi hết, nhưng ảnh hưởng đến suốt cuộc đời chúng ta.
Chúng ta phải tiếp tục đào sâu đức tin và tận hưởng niềm vui của đức tin này.
– Mặc dù là thành phần
của cộng đoàn những người tin, nhưng nhiều khi chúng ta thờ ơ không quan tâm đến
những người khác.
– Mặc dù thừa hưởng niềm
hy vọng sống động, nhưng đôi khi chúng ta buồn chán, thất vọng.
– Mặc dù được Chúa
Thánh Thần tác sinh, nhưng nhiều khi chúng ta lại kém lòng tin.
Cuộc sống thắm tình
huynh đệ của cộng đoàn tín hữu sơ khai có những nét sau :
– Một cộng đoàn phượng
tự : việc phượng tự này gồm lời giáo huấn của các tông đồ và Thánh lễ
(lễ bẻ bánh).
– Một cộng đoàn bác
ái : việc bác ái được thể hiện cụ thể bằng việc mọi người tự nguyện để
tài sản riêng thành của chung.
– Một cộng đoàn mở
cửa : cộng đoàn tín hữu sơ khai không khép kín trong nội bộ, nhưng mở
rộng cửa trong việc duy trì liên hệ với đồng bào do thái (họ vẫn lên đền thờ
Giêrusalem) và “được mọi người mến thương”.
Kết quả của nếp sống
này là ảnh hưởng truyền giáo mạnh : “Số người gia nhập công đoàn ngày càng
tăng”.
(Như Chúa nhựt Phục
sinh).
Lời chúc tụng Thiên
Chúa của Thánh Phêrô :
– Lý do của tâm tình
chúc tụng là “Ngài cho ta được tái sinh nhờ việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết”
(xem thêm cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô về việc tái sinh, Ga 3).
– Chỗ dựa của tâm tình
này là niềm vui mà Đức Kitô phục sinh ban cho các tín hữu, một niềm vui vững bền
ngay cả giữa những gian nan khốn khó : “Anh em sẽ được vui mừng mặc dù còn
phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách”.
– Thể hiện bằng một niềm
tin vững vàng mặc dù không thấy : “Tuy anh em chưa bao giờ thấy Ngài mà vẫn
yêu mến, chưa được giáp mặt nhưng lòng vẫn kính tin”.
Tất cả những điều trên
là hoa quả của việc Đức Giêsu phục sinh.
Đoạn Tin Mừng này gồm
2 cuộc hiện ra của Đức Giêsu phục sinh :
a/ Cuộc hiện ra thứ nhất :
– Đấng phục sinh mang
đến niềm vui và bình an cho các tông đồ.
– Trao sứ mạng ra đi
cho các ông
– Ban Thánh Thần cho
các ông.
b/ Cuộc hiện ra thứ
hai vào 8 ngày sau nhằm củng cố đức tin : Đức tin được nâng lên trình độ
cao : tin không phải vì thấy mà vì nghe lời chứng của những người đã tin.
Từ nay tín hữu tin không phải vì được tiếp xúc trực tiếp với Đức Giêsu mà tin
vì lời chứng của các tông đồ.
Các bài đọc hôm nay
cho thấy một đặc tính tất yếu của đức tin : nếu thực sự tin thì tất nhiên
sẽ vui. Bài Tin Mừng kể rằng trước khi gặp Đức Giêsu phục sinh thì các tông đồ
sợ, nhưng khi gặp Ngài thì “các môn đệ vui mừng” ; Đoạn sách Công vụ kể :
các tín hữu cộng đoàn Giêrusalem “ăn uống với nhau rất đơn sơ vui vẻ” ;
còn trong bài đọc 2, thánh Phêrô bảo “Anh em sẽ được vui mừng mặc dù còn phải
ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức
tin của anh em”.
Vậy mà hiện nay nhiều
người ở ngoài nhìn vào Giáo Hội thì thấy hình như các kitô hữu có vẻ buồn, đức
tin giống như một cái khuôn, thậm chí một nhà tù giam hãm họ. Tại sao ?
Con người thời nay
khao khát được sống trong một cộng đoàn có tình có nghĩa. Có nhiều người than
“Tôi thấy mình chỉ là một con số giữa một đám đông vô tình”. Các nhà tâm lý xã
hội đặt cho tình trạng này cái tên là “đám đông cô độc”. Đó là kết quả của chủ
nghĩa cá nhân mà chúng ta được giáo dục ngay từ nhỏ.
Vậy niềm khao khát
trên phải chăng là một trong những dấu chỉ của thời đại ? Làm thế nào để
thỏa mãn được khát vọng tốt đẹp ấy ?
Bài trích sách Công vụ
có thể cho ta một số yếu tố để trả lời :
– Cầu nguyện và lắng
nghe lời Chúa : vì sống cộng đoàn huynh đệ là một việc vượt quá khả năng
con người ích kỷ, nên nếu có Chúa giúp thì mới thực hiện được.
– Chia sẻ : vì
yêu thương thì phải cho đi.
– Cởi mở : mỗi
người không tự khép kín trong cái tôi cô độc của mình nhưng phải mở lòng ra với
mọi người.
Trên lý thuyết, tin vì
thấy có giá trị hơn tin do nghe.
Nhưng trên thực tế,
người ta tin do nghe nhiều hơn tin vì thấy : đứa trẻ không dám thọc tay
vào ổ điện là do nó nghe lời cha mẹ căn dặn chứ không phải vì đã có kinh nghiệm
bị điện giật ; cậu học sinh tin rất nhiều điều thầy cô dạy mặc dù chưa bao
giờ cậu thấy…
Và xét cho cùng, nội
dung của một niềm tin có lẽ không quan trọng cho bằng lòng tín nhiệm vào uy tín
của người thông tin : do không tín nhiệm vào một tên bá vơ ngoài đường cho
nên dù hắn có hứa hẹn bao nhiêu điều tốt đẹp tôi vẫn không tin ; ngược lại
do tín nhiệm vào cha mẹ, thầy cô nên các vị này bảo gì tôi cũng tin.
Và như thế, cuối cùng,
tin do tín nhiệm là một thể hiện của tình yêu. Do đó tin do tín nhiệm có giá trị
hơn tin nhờ bằng chứng.
a/ Đức tin lớn lao
Có một
bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà
khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống
bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
– Thưa bà, có phải bà
có một đức tin lớn lao ?
– Ồ không, tôi không
phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một
Thiên Chúa lớn lao.
b/ Tin người đáng
tin
Một
bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng
biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên :
– Tôi định đi Bay
City, có phải đi tàu này không ?
– Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm.
Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi :
– Tôi định đi Bay
City, có phải đi tàu này không ?
– Phải đó bà.
Nhưng bà vẫn
chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi :
– Tôi định đi Bay
City, có phải đi tàu này không ?
– Phải, thưa bà.
Thế
là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế !
c/ Đức tin nhỏ, đức
tin lớn
Một đức tin nhỏ sẽ đưa
linh hồn bạn vào thiên đàng ; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn
bạn (H. Spurgeon).
CT : Anh chị em thân mến
Đức Giêsu Kitô đã sống
lại từ cõi chết, đem lại bình an, tin yêu và hy vọng cho tất cả những ai tin
vào Người. Trong niềm vui phục sinh, chúng ta cùng tin tưởng nguyện cầu.
1.
Trên con đường về
quê trời / Hội Thánh gặp không biết bao nhiêu là thử thách gian nan / Chúng ta
hiệp lời cầu xin Chúa / củng cố đức tin của Hội Thánh trên đường lữ thứ trần
gian / để Hội Thánh làm chứng cho nhân loại biết rằng / Chúa đã phục sinh vinh
hiển.
2.
Hiện tại có biết
bao người đang cộng tác với nhau / để xây dựng một cuộc sống xứng với nhân phẩm
/ Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban Thánh Thần trợ lực và thánh hóa những cố
gắng này.
3.
Đời sống đức tin
không phải là không có những khó khăn / người kitô hữu gặp biết bao là hoài
nghi / tăm tối / và nghe cũng không ít những lời xuyên tạc và bôi nhoi đầy ác ý
/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho ánh lửa đức tin / luôn cháy sáng trong tâm hồn
mỗi kitô hữu / đặc biệt là các kitô hữu trẻ.
4.
Đời sống đức tin
sâu sắc của các kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai / là một gương mẫu tuyệt vời cho
các tín hữu ngày nay / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta
/ biết luôn sống với nhau trong tình huynh đệ / siêng năng tham dự thánh lễ /
và cầu nguyện không ngừng.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết chúng con trí khôn chậm
chạp, còn tâm hồn thì cứng cỏi. Xin ban thêm đức tin cho chúng con, nhờ đó, dù
gặp thất bại hay đau khổ đến đâu đi nữa, chúng con vẫn luôn tin yêu, gắn bó và
dấn thân theo Chúa đến cùng. Chúa hằng sống và…
– Kinh Tiền Tụng :
nên dùng mẫu I
– Trước kinh Lạy
Cha : Mặc dù cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy Đức Giêsu, nhưng
chúng ta biết Ngài đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy hợp ý với
Ngài và dâng lên Chúa Cha lời nguyện sau đây : Lạy Cha chúng con ở trên trời
…
– Chúc bình an :
Đức Kitô phục sinh đã ban bình an cho các tông đồ. Giờ đây chúng ta cũng hãy
chúc bình an cho nhau.
Đức Giêsu phục sinh đã
đem lại niềm tin, yêu, hy vọng và bình an. Chúc anh chị em ra về trong tất cả
những tâm tình tốt đẹp ấy.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật II Phục Sinh – Kính Lòng Thương
Xót Chúa
Sunday 19 April, 2020
Lectio Divina
Nhiệm vụ của các môn
đệ và lời chứng của tông đồ Tôma
Ga 20:19-31
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Cha, trong Chúa Nhật
hôm nay con cái Cha đang tề tựu để ca tụng Đấng là Trước Hết mọi sự và là Sau Hết
mọi loài, Đấng Hằng Sống đã chiến thắng sự chết, xin ban cho chúng con sức
mạnh của Chúa Thánh Linh, Đấng đã chế ngự được sự dữ, làm trầm tĩnh các nỗi lo
sợ và do dự của chúng con, để chúng con có thể mạnh dạn đáp trả với sự vâng lời
và lòng yêu mến của chúng con, để ngự trị trong vinh quang với Đức Kitô.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa
dẫn đến bài đọc:
Chúng ta đang ở trong
“cuốn sách nói về sự phục sinh”, trong đó chúng ta được cho biết, không nhất
thiết theo một thứ tự lý lẽ nào, một số vấn đề liên quan đến Đức Kitô phục sinh
và đã được chứng minh là có thật. Trong quyển Tin Mừng thứ tư, những
sự kiện này đã được xảy ra vào buổi sáng (20:1-18) và buổi tối ngày đầu tiên
sau ngày thứ bảy, và tám ngày sau đó, tại cùng một địa điểm và cùng một ngày
trong tuần. Chúng ta đang đứng trước một sự kiện quan trọng nhất
trong lịch sử loài người, một sự kiện thách đố từng cá nhân chúng
ta. “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì việc rao giảng của chúng tôi
là vô ích và đức tin của anh em cũng trống rỗng … và anh em vẫn còn sống trong
tội lỗi của anh em” (1Cr 15:14,17) như thánh Phaolô tông đồ đã nói, người đã
không biết Đức Giêsu trước khi Người sống lại, nhưng lại là người sau này đã
hăng say rao giảng trọn cả quãng đời còn lại của ông. Chúa Giêsu đã
được sai đi bởi Đức Chúa Cha. Và Người cũng sai cả chúng ta. Sự sốt
sắng của chúng ta để “đi” đến từ chiều sâu đức tin mà chúng ta có nơi Đấng Đã Sống
Lại Từ Cõi Chết. Chúng ta có sẵn sàng để nhận lãnh “sự ủy thác” của
Người và dâng hiến cuộc đời chúng ta cho nước Trời của Người
chưa? Đoạn Tin Mừng này không chỉ nói về đức tin của những kẻ không
thấy mà tin (lời chứng của thánh Tôma), mà còn nói về sứ vụ được ủy thác cho
Giáo Hội bởi Đức Kitô.
b) Phân
đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Ga
20:19-20: Chúa hiện ra với các môn đệ và cho các ông xem những vết
thương
Ga
20:21-23: Ân sủng của Chúa Thánh Thần cho sứ vụ
Ga
20:24-26: Việc Chúa hiện ra đặc biệt cho ông Tôma tám ngày sau đó
Ga
20:27-29: Cuộc đối thoại của Chúa với ông Tôma
Ga
20:30-31: Mục đích Tin Mừng theo thánh Gioan
c) Tin Mừng
19 Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà
các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa
các ông và nói: “Bình an cho các con”. 20 Khi
nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ
các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. 21 Chúa Giêsu lại
phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã
sai Thầy, Thầy cũng sai các con “. 22 Nói thế rồi, Người
thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, 23 các
con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội
người ấy bị cầm lại”.
24 Bấy giờ trong mười hai tông đồ, có ông Tôma goi là
Điđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. 25 Các
môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy
Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi
không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh,
nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
26 Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có
Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện
đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. 27 Đoạn
Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy;
hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy
tin”. 28 Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa của tôi!” 29Chúa Giêsu nói với
ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc
cho những ai đã không thấy mà tin”.
30 Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ,
và không có ghi chép trong sách này; 31 nhưng các điều này
đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, con Thiên Chúa, và
để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
3. Giây phút
thinh lặng
Để cho Lời Chúa đi vào
trong tâm hồn chúng ta
4. Suy niệm
a) Một vài
câu hỏi gợi ý để giúp cho việc suy niệm của chúng ta:
Người nào hoặc điều gì
trong bài Tin Mừng đã tạo cho tôi sự chú ý và thắc mắc? Có thể nào một
người tự nhận là Kitô hữu mà lại chưa tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu được
chăng? Việc tin vào sự phục sinh quan trọng đến mức như thế
sao? Chuyện gì sẽ thay đổi nếu chúng ta dừng lại ở giáo lý của Chúa
và làm chứng nhân cho đời? Ân sủng của Chúa Thánh Thần cho sứ vụ
mang ý nghĩa gì đối với tôi? Sứ vụ của Đức Giêsu trên thế gian sau
khi Chúa Phục Sinh đã được tiếp tục như thế nào? Nội dung của việc
công bố sứ vụ truyền giáo là gì? Việc làm chứng của ông Tôma mang một
giá trị gì đối với tôi? Tôi có sự nghi ngờ nào về tín lý
không? Nếu có, đó là những điều gì? Tôi sẽ đối diện và vượt
qua những nghi ngại ấy bằng cách nào? Tôi có khả năng đưa ra những lý lẽ cho đức
tin của tôi không?
b) Lời chú giải:
Vào buổi chiều ngày
thứ nhất trong tuần: Các môn
đệ đang trải qua một ngày đặc biệt. Đối với cộng đoàn giáo hữu, vào
lúc quyển Tin Mừng thứ tư được viết, ngày sau ngày Sabbát đã là “ngày của Chúa”
(Kh 1:10), Chúa Nhật (Dies Domini), và nó còn quan trọng hơn cả ngày
Sabbát trong truyền thống của người Do Thái.
Những cửa nhà các
môn đệ họp đều đóng kín: Một
chi tiết cho thấy rằng thân thể của Đức Giêsu phục sinh, dù rằng vẫn có thể nhận
ra, đã không bị chi phối bởi các điều kiện vật lý như người phàm.
Bình an cho các con: Đây không phải là một lời chúc tụng, nhưng
đó chính là sự bình an thực sự đã được hứa hẹn với các ông khi các ông buồn rầu
vì sự ra đi của Chúa (Ga 14:27; 2Tx 3:16; Rm 5:3), sự bình an cứu chuộc, sự
hoàn thành các lời hứa của Thiên Chúa, giải thoát khỏi mọi sợ hãi, chiến thắng
tội lỗi và sự chết, giao hòa với Thiên Chúa, hoa trái của cuộc khổ nạn của Người,
tặng phẩm cho không của Thiên Chúa. Sự bình an này được lặp lại ba lần
trong đoạn Tin Mừng này cũng như trong phần dẫn nhập (20:19) và tiếp theo sau
đó (20:26) trong cùng một thể cách.
Người cho các ông
xem tay và cạnh sườn Người: Chúa
Giêsu cung cấp bằng chứng hiển nhiên và cụ thể rằng chính Người là kẻ đã bị
đóng đinh trên thập giá. Chỉ có thánh sử Gioan đã ghi lại chi tiết về
vết thương nơi cạnh sườn Người là do ngọn giáo của một tên lính La-mã đâm vào,
trong khi ấy Phúc Âm của Luca lại nhắc đến vết thương nơi chân (Lc 24:39). Khi
cho các môn đệ xem các vết thương, Chúa Giêsu muốn nói rằng sự bình an mà Người
ban cho các ông đến từ cây thập giá (2Tm 2:1-13). Những vết thương
này là một phần căn tính của Người là Đấng đã Sống Lại từ cõi chết (Kh 5:6).
Các môn đệ vui mừng
vì xem thấy Chúa: Niềm vui mừng
này giống như niềm vui mừng được diễn tả bởi tiên tri Isaia khi ông mô tả về bữa
tiệc của Thiên Chúa (Is 25:8-9), nỗi vui ngày tận thế đã được báo trước trong lời
từ biệt và rằng không ai có thể cất đi được (Ga 16:22, 20:27). (Xin
xem thêm Lc 24:39-40; Mt 28:8; Lc 24:41).
Như Cha đã sai Thầy,
Thầy cũng sai các con: Chúa
Giêsu là nhà truyền giáo đầu tiên, “chúng tôi tuyên xưng là vị tông đồ và thày
cả của đức tin” (Kh 3:1). Sau khi trải qua kinh nghiệm của thập giá
và sự phục sinh, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cùng Chúa Cha đã trở thành sự thật
(Ga 13:20; 17:18; 21:15,17). Đây không phải là một sứ vụ mới, nhưng
là sứ vụ của Đức Giêsu mở rộng đến những ai là môn đệ của Người, gắn liền với
Người như các cành nho gắn liền với cây nho (15:9), vì thế họ cũng gắn liền với
Giáo Hội của Người (Mt 28:18-20; Mc 16:15-18; Lc 24:47-49). Con
Thiên Chúa hằng sống đã được sai đến để “thế gian, nhờ Người, mà được cứu độ”
(Ga 3:17) và tất cả sự hiện diện của Người trên thế gian này, đã được xác định
đầy đủ với ý định cứu chuộc của Chúa Cha, là sự biểu hiện liên tục về thánh ý của
Chúa là tất cả được cứu rỗi. Người để lại dự án lịch sử này như một di sản cho
toàn thể Giáo Hội và, đặc biệt là những thừa tác viên đã được tuyển chọn trong
Giáo Hội.
Người thổi hơi vào
các môn đệ: Cử chỉ này gợi nhớ
lại việc Thiên Chúa đã thổi hơi ban sức sống vào con người (St 2:7), điều này
đã không thấy xảy ra bất cứ nơi nào khác trong Tân Ước. Nó đánh dấu
sự bắt đầu của một tác tạo mới.
Hãy nhận lấy Thánh Thần: Sau khi Đức Giêsu đã được tôn vinh, Thần Khí
Chúa đã được trao ban (Ga 7:39). Ở đây Thần Khí Chúa được truyền đến
cho một sứ vụ đặc biệt, trong khi tại ngày Lễ Ngũ Tuần (Cv 2) Chúa Thánh Thần
hiện xuống trên toàn thể dân Thiên Chúa.
Các con tha tội ai,
thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm
lại: Chúng ta cũng có thể tìm
thấy quyền năng tha tội hoặc không tha tội trong sách Phúc Âm của thánh Mátthêu
dưới một hình thức có vẻ pháp lý hơn (Mt 16:19; 18:18). Theo những người
Kinh Sư và Biệt Phái (Mc 2:7), và theo truyền thống (Is 43:25), chỉ có Thiên
Chúa là Đấng có quyền tha tội. Chúa Giêsu có quyền này (Lc 5:24) và
truyền nó lại cho Giáo Hội của Người. Trong lúc suy niệm, tốt hơn hết
là chúng ta không nên dừng lại với sự phát triển về thần học trong giáo hội
truyền thống của văn bản này và những cuộc tranh cãi về thần học sau
đó. Trong quyển Phúc Âm thứ tư, sự diễn đạt có thể được hiểu theo một
ý nghĩa rộng lớn. Ở đây nó là vấn đề của quyền tha tội trong Giáo Hội
như là cộng đoàn cứu rỗi và một cách đặc biệt cho những ai đã được thiên phú với
quyền lực này là những ai thừa kế và chia sẻ sứ vụ tông đồ. Trong
quyền năng tổng hợp này được bao gồm cả quyền tha tội sau khi đã rửa tội, điều
mà chúng ta gọi là “bí tích hòa giải” được nói đến qua nhiều hình thức khác
nhau trong suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội.
Bấy giờ một trong
Nhóm Mười Hai, có ông Tôma goi là Điđymô: Ông
Tôma là một trong những nhân vật chính trong Quyển Phúc Âm thứ tư và lòng hoài
nghi của ông, dễ bị hoang mang nản lòng, đã được làm nổi bật (11:16;
14:5). “Một môn đệ trong nhóm mười hai” vào lúc này là một lời nói
khuôn sáo (6:71), bởi vì thật ra họ chỉ còn lại mười một người. “Điđymô” có
nghĩa là “Sinh Đôi”, và chúng ta có thể là “anh em song sinh” của ông bởi vì sự
cứng lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chết và đã sống
lại.
Chúng tôi đã xem thấy
Chúa!: Khi các ông Anrê,
Gioan, và Philípphê đã gặp được Đấng Cứu Thế, họ liền chạy đi báo tin cho các
người khác (Ga 1:41-45). Giờ đây lại có lời tuyên bố chính thức bởi
những người chứng tận mắt (Ga 20:18).
Nếu tôi không nhìn
thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi
không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin: Ông Tôma không tin lời những người chứng. Ông
muốn chính mình sờ tận mặt bắt tận tay. Quyển Phúc Âm thứ tư ý thức
rằng có một số người có thể có lòng hoài nghi về việc Chúa Phục Sinh (Lc
24:34-40; Mc 16:11; 1Cr 15:5-8), đặc biệt là những kẻ chưa được gặp Đấng Phục
Sinh. Ông Tôma là người diễn đạt cho họ (và cho cả chúng
ta). Ông Tôma đã sẵn sàng để tin, nhưng ông muốn làm sáng tỏ tất cả
những hoài nghi trong lòng, vì lo rằng sẽ bị sai. Chúa Giêsu đã
không nhìn Tôma như một người hoài nghi không tin, mà xem ông như một người muốn
đi tìm chân lý và Người đáp ứng ông trọn vẹn. Tuy nhiên, điều này là
một dịp để thể hiện sự cảm kích về các tín hữu trong tương lai. (Câu
29)
Hãy xỏ ngón tay con
vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy;
chớ cứng lòng, nhưng hãy tin!: Chúa
Giêsu lặp lại những lời của Tôma và bắt đầu cuộc đối thoại với
ông. Người hiểu lòng hoài nghi của Tôma và muốn giúp
ông. Chúa Giêsu biết rằng Tôma yêu mến Chúa và vì vậy Người động
lòng trắc ẩn bởi vì Tôma chưa tận hưởng được sự bình an đến từ đức
tin. Chúa Giêsu giúp ông lớn lên trong đức tin. Để đi sâu
hơn vào trong chủ đề này, chúng ta có thể đọc thấy những tương đồng trong: 1Ga
1-2; Tv 78:38; 103:13-14; Rm 5:20; 1Tm 1:14-16.
Lạy Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa của tôi!: Đây là lời
tuyên xưng đức tin vào Đấng Đã Sống Lại và vào thiên tính của Người như đã được
công bố ở chương đầu của Phúc Âm theo thánh Gioan (1:1). Trong phần
Cựu Ước, nhưng chữ “Chúa” và “Thiên Chúa” được tương ứng với các chữ “Gia-vê”
và “Elohim” (Tv 35:23-24; Kh 4:11). Đây là lời tuyên xưng đức tin
vào Chúa Giêsu Phục Sinh một cách đầy đủ và trực tiếp nhất. Đối với
nền văn hóa Do Thái, các từ ngữ này mang một ý nghĩa giá trị hơn vì họ đã dùng
trong các văn bản liên quan đến Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không chỉnh
sửa những chữ dùng bởi ông Tôma như Người đã hiệu chỉnh những chữ mà người Do
Thái đã dùng để buộc tội Người là đã mong muốn được “bằng Thiên Chúa” (Ga
5:18); do đó Chúa đã xác nhận việc mang bản tính Thiên Chúa của Người.
Tôma, vì con đã xem
thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!: Chúa Giêsu không thể dung thứ cho những ai
chỉ biết đi tìm những dấu lạ và điềm thiêng để mà tin (Ga 4:48) và Người đã
dùng ông Tôma để làm việc ấy. Ở đây, chúng ta nên nhớ đến một đoạn
Phúc Âm khác nói về một đức tin chân chính hơn, một “phương cách hoàn hảo” hướng
về một đức tin mà chúng ta phải khao khát nhưng không có các đòi hỏi của Tôma,
một đức tin được nhận lãnh như một ân sủng và như là một hành động của lòng tín
thác, giống như gương đức tin của cha ông chúng ta (Kh 11) và của Mẹ Maria (Lc
1:45). Chúng ta, những người sống sau Chúa Giêsu hai ngàn năm, đã được
bảo cho biết về Người, dù rằng chúng ta chưa hề gặp Người, nhưng chúng ta vẫn
có thể yêu mến và tin tưởng vào Người để chúng ta có thể hân hoan chan chứa với
“một niềm vui khôn tả và rực rỡ vinh quang” (1Pr 1:8).
Các điều (dấu lạ)
này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, con Thiên
Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người: Quyển Phúc Âm thứ tư, như các quyển Phúc Âm khác, không
có nghĩa là viết một cuốn tiểu sử đầy đủ về Chúa Giêsu, nhưng chỉ để cho thấy rằng
Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Cứu Thế toàn dân đang mong đợi, Đấng Giải Thoát,
và Người chính là Con Thiên Chúa. Tin tưởng vào Người có nghĩa là
chúng ta có được sự sống đời đời. Nếu Đức Giêsu không phải là Thiên
Chúa, thì đức tin của chúng ta trở nên vô ích!
5. Đáp Ca
Thánh Vịnh 118
(117)
Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ;
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương!
Ít-ra-en hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Nhà A-a-ron hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Ai kính sợ CHÚA hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương!
Ít-ra-en hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Nhà A-a-ron hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Ai kính sợ CHÚA hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Chúng xô đẩy tôi, xô
cho tôi ngã,
nhưng Chúa đã phù trợ thân này.
Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi,
chính Người cứu độ tôi.
Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng trong doanh trại chính nhân:
nhưng Chúa đã phù trợ thân này.
Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi,
chính Người cứu độ tôi.
Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng trong doanh trại chính nhân:
Tảng đá mà người thợ
xây loại bỏ
lại trở nên tảng đá chính góc tường.
Đó chính là công trình của Chúa;
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ, lạy Chúa!
Ôi lạy Chúa, xin thương giúp thành công.
lại trở nên tảng đá chính góc tường.
Đó chính là công trình của Chúa;
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ, lạy Chúa!
Ôi lạy Chúa, xin thương giúp thành công.
6. Chiêm Niệm
Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, con
xin cảm tạ Chúa, Người là Chúa của con và là Thiên Chúa, Chúa đã yêu thương con
và đã cất tiếng gọi con, đã cất nhắc con trở nên người môn đệ của
Chúa. Chúa đã ban cho con Thần Khí Chúa, Đấng được sai đến để công bố
và làm chứng cho sự phục sinh của Chúa, cho lòng thương xót của Chúa Cha, cho
ơn cứu độ và tha thứ cho mọi người trên thế giới. Chúa chính là đường,
là sự thật và là sự sống, Chúa là bình minh không bao giờ xế tà, là vầng thái
dương của công lý và hòa bình. Xin ban cho con được cư ngụ trong
tình yêu của Chúa, xin ràng buộc con vào Chúa như cành nho gắn liền với cây
nho. Xin hãy ban cho con sự bình an của Chúa để con có thể khắc phục
đươc những yếu đuối, đối mặt với những nghi ngại của con và mạnh dạn bước theo
ơn gọi của Chúa và để con sống trọn vẹn với sứ vụ Chúa đã giao phó cho con và
con ca tụng Chúa muôn đời. Con cầu xin vì Chúa là đấng hằng sống, hằng
trị muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét