Trang

Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2020

19-04-2020 : (phần II) CHÚA NHẬT II PHỤC SINH - CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT


19/04/2020
 Chúa Nhật tuần 2 PHỤC SINH năm A.
 CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật II Phục Sinh A
Cv 2,42-47; 1 Pr 1,3-9; Ga 20,19-31)
NIỀM TIN PHỤC SINH
“Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người”
 (Ga 20,31)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay làm nổi bật điểm thần học mấu chốt của Kitô Giáo: Đức Giêsu Kitô đã chết và đã phục sinh. Những ai tin vào Người thì được cứu độ, nghĩa là được sự sống đời đời.
1. Bài đọc 1
Đoạn sách Công vụ Tông Đồ mô tả cuộc sống cộng đoàn của những người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, trong đó phác họa những điểm chính yếu của một cộng đoàn Kitô hữu, đó là lắng nghe lời rao giảng, tham dự lễ bẻ bánh, cầu nguyện và chia sẻ vật chất.
Nghe rao giảng: Các tín hữu chuyên chăm nghe lời rao giảng và chứng tá của các môn đệ về một Đức Giêsu đã chịu đóng đinh, chịu chết trên thập giá, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại, giải thoát khỏi những đau khổ của cái chết và được đặt làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô (Cv 2,23-24.36). Đức Giêsu mà người ta cho là đã chết như một con người thì các môn đệ khẳng định đó là Đức Chúa, là Đấng vẫn sống và đang sống giữa các tín hữu.
Dự lễ bẻ bánh: Trong bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu đã cử hành việc bẻ bánh và nhắc các môn đệ hãy tiếp tục việc cử hành này mà tưởng niệm cuộc hiến tế của Người (Lc 22,19; 1 Cr 11,24-25). Chính nhờ việc nghe giảng giải Kinh Thánh và nhất là việc bẻ bánh mà hai môn đệ trên đường Emmaus nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh (Lc 24,30-32). Giờ đây, khi Chúa Giêsu đã về trời, các tín hữu tiên khởi tưởng nhớ và cảm nhận sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh ở giữa họ, đồng thời được thông phần sự sống thần linh của Ngài khi họ tham dự lễ bẻ bánh.
Cầu nguyện và chia sẻ vật chất: Khi cùng chia sẻ niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, các tín hữu cùng hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện, kết hợp mật thiết với nhau trong tình huynh đệ, cũng như chia sẻ của cải vật chất cho nhau; họ đồng tâm nhất trí trong việc ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến (Cv 2,44-47). Đời sống hiệp nhất trong tinh thần cầu nguyện và sẻ chia của cải vật chất, đã trở thành chứng tá sống động về một đời sống mới được canh tân nhờ sức sống của Chúa Kitô Phục Sinh.
Tóm lại, chính niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đã nối kết các tín hữu và biến đổi họ thành cộng đoàn của yêu thương, chăm chú nghe lời rao giảng, hiệp thông trong cầu nguyện và không màng đến của cải vật chất. Đó là một cộng đoàn của những người được cứu độ (Cv 2,47b).
2. Bài đọc 2
Tác giả thư thứ nhất Phêrô cất lời ca tụng Thiên Chúa vì nhờ tình thương vô bờ của Ngài, Đấng đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết, mà các tín hữu được ơn tái sinh, nghĩa là được Thiên Chúa ban cho sự sống mới bởi Thần Khí (x. Ga 3,3-5; 20,22).
Nhờ ơn tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh, các tín hữu được lãnh nhận niềm hy vọng sống động. Đó là niềm hy vọng về ơn cứu độ được biểu lộ qua việc phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết. Niềm hy vọng này “sống động” vì dấu hiệu của sự tái sinh (hay ơn cứu độ) chính là sự sống được trao ban cho các tín hữu do lòng thương xót của Thiên Chúa. Hơn nữa, ơn tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh cho các tín hữu được hưởng gia tài cao quý. Nếu như đối với Israel gia tài là Đất Hứa, thì đối với Hội Thánh, những người thuộc về Đức Kitô, thì gia tài đó chính là Nước Trời; gia tài này là thứ không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai, chỉ dành cho những ai tin vào Đức Kitô Phục Sinh (1 Pr 1,3-5).
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh là bảo đảm cho các tín hữu niềm hân hoan vui mừng khi họ được ân thưởng trong thời cánh chung, khi Đức Kitô trở lại. Tuy thế, niềm tin đó không miễn cho họ những gian nan thử thách trong cuộc sống hiện tại. Họ cần bày tỏ sự trung tín với Đức Kitô ngay trong những thách đố của cuộc sống đức tin. Chính những gian nan thử thách sẽ tinh luyện đức tin họ, nhờ đó “khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự” (1 Pr 1,7); họ sẽ được “chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang”, khi họ “nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1 Pr 1,8-9).
3. Bài Tin Mừng
Đoạn Tin Mừng Gioan mặc khải một vài điểm thần học quan trọng về Đức Kitô Phục Sinh: Người là Đấng đem lại bình an và là Đấng sai các môn đệ ra đi; Người cũng là đối tượng của niềm tin, một niềm tin dẫn tới sự sống đời đời.
Trước hết, Đức Giêsu Phục Sinh là Đấng đem lại bình an. Ba lần trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu chúc bình an cho các môn đệ (Ga 20,19.21.26). Bình an ở đây không phải là thứ bình an vì không có gian nan, thử thách, đau khổ nhưng là thứ bình an vì có Chúa Phục Sinh hằng ở cùng. Việc gặp Đức Kitô Phục Sinh không làm cho các môn đệ hết sợ người Do Thái; bằng chứng là tám ngày sau lần hội ngộ đầu tiên cùng Thầy, các môn đệ vẫn lo sợ đóng kín cửa. Và có lẽ đó là lý do để Chúa Phục Sinh khẳng định lại một lần nữa rằng sự hiện diện của Người đem lại “bình an cho anh em” (Ga 20,26).
Tiếp đến, Đức Giêsu Phục Sinh là Đấng sai các môn đệ ra đi, nhờ sức mạnh của Thần Khí, để tiếp tục sứ mạng của Người. Tác giả Tin Mừng thứ tư cho thấy rằng sứ mạng này bắt nguồn từ Chúa Cha: Như Chúa Cha sai Đức Giêsu và ban Thần Khí trên Người (x. Ga 1,32-34), Đức Giêsu cũng sai các môn đệ (x. Ga 17,18) và ban Thần Khí trên các ông (Ga 20,22). Cũng như Thiên Chúa đã ban sự sống bằng cách thổi sinh khí vào con người (St 2,7; Ed 37,5.9), Đức Kitô Phục Sinh cũng “thổi hơi” mà ban Thần Khí cho các môn đệ. Các ông nhận lấy Thần Khí của Người để được hiệp thông vào quyền năng mang lại sự sống Thần Khí cho những ai tin vào Người nhờ sứ mạng của các ông. Như vậy, bóng dáng Chúa Ba Ngôi in đậm trong sứ mạng của các môn đệ.
Sau cùng, Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh rằng Đức Kitô Phục Sinh là đối tượng của niềm tin và nhờ tin mà được sự sống đời đời. Niềm tin khởi đầu với việc thấy; thấy mới tin: Khi được Đức Giêsu Phục Sinh “cho xem tay và cạnh sườn” của Người, các môn đệ “vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,20); rồi các ông khoe với ông Tôma, người vắng mặt hôm đó, rằng họ đã “được thấy Chúa” (Ga 20,25). Trong khi đó ông Tôma còn đi xa hơn; ông không những đòi hỏi phải “được thấy”, mà còn phải “được sờ” những vết thương của Đức Kitô Phục Sinh thì mới tin. Đáp lại, Đức Kitô Phục Sinh bảo ông Tôma “đừng cứng lòng, nhưng hãy tin” sau khi cho ông “được thấy, được sờ”; đồng thời, Người lại tha thiết mời gọi và chúc phúc cho những ai “tin” mà không đòi hỏi phải “được thấy”. Từ đó trở đi, đức tin không dựa trên những kinh nghiệm cụ thể về Đức Kitô Phục Sinh hiện ra, nhưng trên lời chứng của các Tông Đồ là những người đã thấy và đã tin.
Tin Mừng thứ tư khép lại với lời tuyên tín quan trọng, như là một tóm kết chủ đạo cho toàn bộ Tin Mừng thứ tư, rằng tất cả những ai tin vào Đức Kitô Phục Sinh thì sẽ “nhờ tin mà được sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Sách Công vụ Tông Đồ cho thấy rằng Đức Kitô Phục Sinh là điểm quy chiếu và hiệp thông của các tín hữu tiên khởi qua việc nghe các môn đệ rao giảng, tham dự lễ bẻ bánh, cầu nguyện và chia cơm sẻ áo. Đức tin vào Đức Kitô Phục Sinh đã làm thay đổi hoàn toàn cách sống của các tín hữu sơ khai. Ngày nay Đức Kitô Phục Sinh vẫn thôi thúc các Kitô hữu khắp nơi qui tụ quanh bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, lắng nghe giáo huấn của Hội Thánh và sống tinh thần chia sẻ vật chất với anh chị em mình.
2/ Thư thứ nhất Phêrô nói đến niềm “hân hoan vui mừng”, mặc dù còn phải chịu “ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách” (1 Pr 1,6). Đức Kitô Phục Sinh mang lại niềm vui lớn lao cho những ai tin vào Người, vì được tràn trề niềm hy vọng vào ơn cứu độ muôn đời. Tuy vậy, niềm tin và hy vọng đó không miễn cho các tín hữu khỏi những thách đố trong đời sống đức tin. Trái lại, những thử thách trong đời sống thường ngày là cơ hội để các tín hữu cảm nhận sâu xa hơn niềm “hân hoan vui mừng” lớn lao mà Chúa Kitô Phục Sinh mang lại và sẽ được bày tỏ cách tròn đầy trong thời cánh chung.
3/ Các Tông Đồ là những người đã được thấy Chúa Kitô Phục Sinh và đã tin; các ông được ban Thánh Thần và được sai đi làm chứng về niềm tin đó và các ông cũng đã sẵn sàng trả giá bằng chính mạng sống của mình để bảo vệ đức tin. Tác giả Tin Mừng thứ tư làm chứng rằng: những ai tin vào Đức Kitô Phục Sinh thì sẽ nhờ tin mà được sự sống. Mỗi Kitô hữu đều là những môn đệ được Chúa Giêsu Phục Sinh ban Thánh Thần và được sai đi làm chứng rằng Đức Kitô Phục Sinh, nguồn bình an, niềm vui và hy vọng chắc chắn cho sự sống đời đời.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tếAnh chị em thân mến! Đức Kitô Phục Sinh chính là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại; Ngài luôn hiện diện giữa thế giới để ban bình an và củng cố đức tin cho các tín hữu. Chúng ta cùng chúc tụng Chúa và dâng lời cầu nguyện:
1. Chúa Phục Sinh phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và các mục tử trong Hội Thánh được tràn đầy Thánh Thần của Chúa Phục Sinh, để các ngài chu toàn sứ mạng dẫn dắt đoàn chiên Chúa trao phó.
2. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đưa con người đến sự sống đời đời. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các dân tộc và quốc gia trên thế giới còn xa lạ với đức tin Kitô giáo, được nghe loan báo Tin mừng Phục sinh, và tin nhận Đức Kitô là “sự thật và là sự sống”.
3. Chúa Phục Sinh đã ban tặng bình an cho các Tông Đồ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người ở khắp nơi trên thế giới đang lo âu và đau khổ vì dịch bệnh, biết tin tưởng vào lòng Chúa thương xót, để được Chúa cứu chữa và luôn sống trong bình an.
4. “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện và ân huệ của Chúa Phục Sinh trong cuộc sống, để hết lòng yêu thương phục vụ tha nhân là hình ảnh của chính Chúa.
Chủ tếLạy Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban Thánh Thần giúp chúng con luôn can đảm và hăng hái làm nhân chứng cho Đức Kitô Phục Sinh giữa thế giới hôm nay. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.



Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 2 Phục Sinh Năm A
*** Từ Chúa nhựt II đến Chúa nhựt VI mùa Phục sinh,
– Bài đọc I luôn trích từ sách Công vụ tông đồ, trình bày cuộc sống và hoạt động của Hội Thánh sơ khai.
– Bài đọc II trích nối tiếp từ thư thứ I của Thánh Phêrô, trừ Chúa nhựt IV không theo thứ tự liên tục này vì hôm đó Phụng vụ muốn nhấn mạnh ý tưởng Đức Giêsu là mục tử.
– Bài Tin Mừng trích từ Tin Mừng Gioan, trừ Chúa nhựt III.
CHỦ ĐỀ :
KẾT QUẢ VIỆC CG PHỤC SINH TRONG CUỘC SỐNG CỦA CÁC TÍN HỮU

   
“Đức Giêsu hiện ra giữa các tông đồ”(Ga 20,19)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Cuộc sống mới thắm tình huynh đệ của các tín hữu cộng đoàn sơ khai.
– Bài đọc II : Nhờ Đức Giêsu phục sinh, chúng ta được tái sinh và hưởng gia tài của Thiên Chúa, vì vậy chúng ta hãy vui mừng.
– Bài Tin Mừng : Hai cuộc hiện ra của Đức Giêsu phục sinh. Ngài ban cho các môn đệ bình an, niềm vui và đức tin.

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Sau tuần bát nhật lễ Phục sinh, có lẽ chúng ta nghĩ rằng thế là xong, chúng ta trở về với cuộc sống đơn điệu nhàm chán. Nghĩ thế là lầm, Đức Giêsu sống lại không phải chỉ là một biến cố diễn ra một lần rồi hết, nhưng ảnh hưởng đến suốt cuộc đời chúng ta. Chúng ta phải tiếp tục đào sâu đức tin và tận hưởng niềm vui của đức tin này.
II.GỢI Ý SÁM HỐI
– Mặc dù là thành phần của cộng đoàn những người tin, nhưng nhiều khi chúng ta thờ ơ không quan tâm đến những người khác.
– Mặc dù thừa hưởng niềm hy vọng sống động, nhưng đôi khi chúng ta buồn chán, thất vọng.
– Mặc dù được Chúa Thánh Thần tác sinh, nhưng nhiều khi chúng ta lại kém lòng tin.
III. LỜI CHÚA
1.     Bài đọc I: Cv 2,42-47
Cuộc sống thắm tình huynh đệ của cộng đoàn tín hữu sơ khai có những nét sau :
– Một cộng đoàn phượng tự : việc phượng tự này gồm lời giáo huấn của các tông đồ và Thánh lễ (lễ bẻ bánh).
– Một cộng đoàn bác ái : việc bác ái được thể hiện cụ thể bằng việc mọi người tự nguyện để tài sản riêng thành của chung.
– Một cộng đoàn mở cửa : cộng đoàn tín hữu sơ khai không khép kín trong nội bộ, nhưng mở rộng cửa trong việc duy trì liên hệ với đồng bào do thái (họ vẫn lên đền thờ Giêrusalem) và “được mọi người mến thương”.
Kết quả của nếp sống này là ảnh hưởng truyền giáo mạnh : “Số người gia nhập công đoàn ngày càng tăng”.
2.                 Đáp ca: Tv 117
(Như Chúa nhựt Phục sinh).
3.                 Bài đọc II: 1 Pr 1,3-9
Lời chúc tụng Thiên Chúa của Thánh Phêrô :
– Lý do của tâm tình chúc tụng là “Ngài cho ta được tái sinh nhờ việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết” (xem thêm cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô về việc tái sinh, Ga 3).
– Chỗ dựa của tâm tình này là niềm vui mà Đức Kitô phục sinh ban cho các tín hữu, một niềm vui vững bền ngay cả giữa những gian nan khốn khó : “Anh em sẽ được vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách”.
– Thể hiện bằng một niềm tin vững vàng mặc dù không thấy : “Tuy anh em chưa bao giờ thấy Ngài mà vẫn yêu mến, chưa được giáp mặt nhưng lòng vẫn kính tin”.
Tất cả những điều trên là hoa quả của việc Đức Giêsu phục sinh.
4.                 Bài Tin Mừng: Ga 20,19-31
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 cuộc hiện ra của Đức Giêsu phục sinh :
a/ Cuộc hiện ra thứ nhất :
– Đấng phục sinh mang đến niềm vui và bình an cho các tông đồ.
– Trao sứ mạng ra đi cho các ông
– Ban Thánh Thần cho các ông.
b/ Cuộc hiện ra thứ hai vào 8 ngày sau nhằm củng cố đức tin : Đức tin được nâng lên trình độ cao : tin không phải vì thấy mà vì nghe lời chứng của những người đã tin. Từ nay tín hữu tin không phải vì được tiếp xúc trực tiếp với Đức Giêsu mà tin vì lời chứng của các tông đồ.
IV.GỢI Ý GIẢNG
1.     Tin thì vui
Các bài đọc hôm nay cho thấy một đặc tính tất yếu của đức tin : nếu thực sự tin thì tất nhiên sẽ vui. Bài Tin Mừng kể rằng trước khi gặp Đức Giêsu phục sinh thì các tông đồ sợ, nhưng khi gặp Ngài thì “các môn đệ vui mừng” ; Đoạn sách Công vụ kể : các tín hữu cộng đoàn Giêrusalem “ăn uống với nhau rất đơn sơ vui vẻ” ; còn trong bài đọc 2, thánh Phêrô bảo “Anh em sẽ được vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em”.
Vậy mà hiện nay nhiều người ở ngoài nhìn vào Giáo Hội thì thấy hình như các kitô hữu có vẻ buồn, đức tin giống như một cái khuôn, thậm chí một nhà tù giam hãm họ. Tại sao ?
2.                 Sống với nhau như anh em
Con người thời nay khao khát được sống trong một cộng đoàn có tình có nghĩa. Có nhiều người than “Tôi thấy mình chỉ là một con số giữa một đám đông vô tình”. Các nhà tâm lý xã hội đặt cho tình trạng này cái tên là “đám đông cô độc”. Đó là kết quả của chủ nghĩa cá nhân mà chúng ta được giáo dục ngay từ nhỏ.
Vậy niềm khao khát trên phải chăng là một trong những dấu chỉ của thời đại ? Làm thế nào để thỏa mãn được khát vọng tốt đẹp ấy ?
Bài trích sách Công vụ có thể cho ta một số yếu tố để trả lời :
– Cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa : vì sống cộng đoàn huynh đệ là một việc vượt quá khả năng con người ích kỷ, nên nếu có Chúa giúp thì mới thực hiện được.
– Chia sẻ : vì yêu thương thì phải cho đi.
– Cởi mở : mỗi người không tự khép kín trong cái tôi cô độc của mình nhưng phải mở lòng ra với mọi người.
3.                 Tin vì thấy và tin do nghe
Trên lý thuyết, tin vì thấy có giá trị hơn tin do nghe.
Nhưng trên thực tế, người ta tin do nghe nhiều hơn tin vì thấy : đứa trẻ không dám thọc tay vào ổ điện là do nó nghe lời cha mẹ căn dặn chứ không phải vì đã có kinh nghiệm bị điện giật ; cậu học sinh tin rất nhiều điều thầy cô dạy mặc dù chưa bao giờ cậu thấy…
Và xét cho cùng, nội dung của một niềm tin có lẽ không quan trọng cho bằng lòng tín nhiệm vào uy tín của người thông tin : do không tín nhiệm vào một tên bá vơ ngoài đường cho nên dù hắn có hứa hẹn bao nhiêu điều tốt đẹp tôi vẫn không tin ; ngược lại do tín nhiệm vào cha mẹ, thầy cô nên các vị này bảo gì tôi cũng tin.
Và như thế, cuối cùng, tin do tín nhiệm là một thể hiện của tình yêu. Do đó tin do tín nhiệm có giá trị hơn tin nhờ bằng chứng.
4.                 Chuyện minh họa
a/ Đức tin lớn lao
   Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
b/ Tin người đáng tin
   Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên :
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
– Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi :
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
– Phải đó bà.
 Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi :
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
– Phải, thưa bà.
   Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế !
c/ Đức tin nhỏ, đức tin lớn
Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng ; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn (H. Spurgeon).
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết, đem lại bình an, tin yêu và hy vọng cho tất cả những ai tin vào Người. Trong niềm vui phục sinh, chúng ta cùng tin tưởng nguyện cầu.
1.     Trên con đường về quê trời / Hội Thánh gặp không biết bao nhiêu là thử thách gian nan / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / củng cố đức tin của Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian / để Hội Thánh làm chứng cho nhân loại biết rằng / Chúa đã phục sinh vinh hiển.
2.     Hiện tại có biết bao người đang cộng tác với nhau / để xây dựng một cuộc sống xứng với nhân phẩm / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban Thánh Thần trợ lực và thánh hóa những cố gắng này.
3.     Đời sống đức tin không phải là không có những khó khăn / người kitô hữu gặp biết bao là hoài nghi / tăm tối / và nghe cũng không ít những lời xuyên tạc và bôi nhoi đầy ác ý / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho ánh lửa đức tin / luôn cháy sáng trong tâm hồn mỗi kitô hữu / đặc biệt là các kitô hữu trẻ.
4.     Đời sống đức tin sâu sắc của các kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai / là một gương mẫu tuyệt vời cho các tín hữu ngày nay / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sống với nhau trong tình huynh đệ / siêng năng tham dự thánh lễ / và cầu nguyện không ngừng.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết chúng con trí khôn chậm chạp, còn tâm hồn thì cứng cỏi. Xin ban thêm đức tin cho chúng con, nhờ đó, dù gặp thất bại hay đau khổ đến đâu đi nữa, chúng con vẫn luôn tin yêu, gắn bó và dấn thân theo Chúa đến cùng. Chúa hằng sống và…
VI.TRONG THÁNH LỄ
– Kinh Tiền Tụng : nên dùng mẫu I
– Trước kinh Lạy Cha : Mặc dù cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy Đức Giêsu, nhưng chúng ta biết Ngài đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy hợp ý với Ngài và dâng lên Chúa Cha lời nguyện sau đây : Lạy Cha chúng con ở trên trời …
– Chúc bình an : Đức Kitô phục sinh đã ban bình an cho các tông đồ. Giờ đây chúng ta cũng hãy chúc bình an cho nhau.
VII. GIẢI TÁN
Đức Giêsu phục sinh đã đem lại niềm tin, yêu, hy vọng và bình an. Chúc anh chị em ra về trong tất cả những tâm tình tốt đẹp ấy.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Chúa Nhật II Phục Sinh – Kính Lòng Thương Xót Chúa
Sunday 19 April, 2020
Lectio Divina
Nhiệm vụ của các môn đệ và lời chứng của tông đồ Tôma
Ga 20:19-31


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha, trong Chúa Nhật hôm nay con cái Cha đang tề tựu để ca tụng Đấng là Trước Hết mọi sự và là Sau Hết mọi loài, Đấng Hằng Sống đã chiến thắng sự chết, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Linh, Đấng đã chế ngự được sự dữ, làm trầm tĩnh các nỗi lo sợ và do dự của chúng con, để chúng con có thể mạnh dạn đáp trả với sự vâng lời và lòng yêu mến của chúng con, để ngự trị trong vinh quang với Đức Kitô.
2.  Bài Đọc
a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Chúng ta đang ở trong “cuốn sách nói về sự phục sinh”, trong đó chúng ta được cho biết, không nhất thiết theo một thứ tự lý lẽ nào, một số vấn đề liên quan đến Đức Kitô phục sinh và đã được chứng minh là có thật.  Trong quyển Tin Mừng thứ tư, những sự kiện này đã được xảy ra vào buổi sáng (20:1-18) và buổi tối ngày đầu tiên sau ngày thứ bảy, và tám ngày sau đó, tại cùng một địa điểm và cùng một ngày trong tuần.  Chúng ta đang đứng trước một sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử loài người, một sự kiện thách đố từng cá nhân chúng ta.  “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì việc rao giảng của chúng tôi là vô ích và đức tin của anh em cũng trống rỗng … và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1Cr 15:14,17) như thánh Phaolô tông đồ đã nói, người đã không biết Đức Giêsu trước khi Người sống lại, nhưng lại là người sau này đã hăng say rao giảng trọn cả quãng đời còn lại của ông.  Chúa Giêsu đã được sai đi bởi Đức Chúa Cha.  Và Người cũng sai cả chúng ta. Sự sốt sắng của chúng ta để “đi” đến từ chiều sâu đức tin mà chúng ta có nơi Đấng Đã Sống Lại Từ Cõi Chết.  Chúng ta có sẵn sàng để nhận lãnh “sự ủy thác” của Người và dâng hiến cuộc đời chúng ta cho nước Trời của Người chưa?  Đoạn Tin Mừng này không chỉ nói về đức tin của những kẻ không thấy mà tin (lời chứng của thánh Tôma), mà còn nói về sứ vụ được ủy thác cho Giáo Hội bởi Đức Kitô.
b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc: 
Ga 20:19-20:  Chúa hiện ra với các môn đệ và cho các ông xem những vết thương
Ga 20:21-23:  Ân sủng của Chúa Thánh Thần cho sứ vụ
Ga 20:24-26:  Việc Chúa hiện ra đặc biệt cho ông Tôma tám ngày sau đó
Ga 20:27-29:  Cuộc đối thoại của Chúa với ông Tôma
Ga 20:30-31:  Mục đích Tin Mừng theo thánh Gioan
c) Tin Mừng
19 Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói:  “Bình an cho các con”. 20 Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người.  Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. 21 Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng:  “Bình an cho các con.  Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con “. 22 Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông:  “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, 23 các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha.  Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
24 Bấy giờ trong mười hai tông đồ, có ông Tôma goi là Điđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. 25 Các môn đệ khác đã nói với ông rằng:  “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”.  Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng:  “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
26 Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông.  Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán:  “Bình an cho các con”. 27 Đoạn Người nói với Tôma:  “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. 28 Tôma thưa rằng:  “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!” 29Chúa Giêsu nói với ông:  “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin.  Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
30 Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này; 31 nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
3.  Giây phút thinh lặng
Để cho Lời Chúa đi vào trong tâm hồn chúng ta
4.  Suy niệm
a)  Một vài câu hỏi gợi ý để giúp cho việc suy niệm của chúng ta:
Người nào hoặc điều gì trong bài Tin Mừng đã tạo cho tôi sự chú ý và thắc mắc?  Có thể nào một người tự nhận là Kitô hữu mà lại chưa tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu được chăng?  Việc tin vào sự phục sinh quan trọng đến mức như thế sao?  Chuyện gì sẽ thay đổi nếu chúng ta dừng lại ở giáo lý của Chúa và làm chứng nhân cho đời?  Ân sủng của Chúa Thánh Thần cho sứ vụ mang ý nghĩa gì đối với tôi?  Sứ vụ của Đức Giêsu trên thế gian sau khi Chúa Phục Sinh đã được tiếp tục như thế nào?  Nội dung của việc công bố sứ vụ truyền giáo là gì?  Việc làm chứng của ông Tôma mang một giá trị gì đối với tôi?  Tôi có sự nghi ngờ nào về tín lý không?  Nếu có, đó là những điều gì?  Tôi sẽ đối diện và vượt qua những nghi ngại ấy bằng cách nào? Tôi có khả năng đưa ra những lý lẽ cho đức tin của tôi không?
b)  Lời chú giải:
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần:  Các môn đệ đang trải qua một ngày đặc biệt.  Đối với cộng đoàn giáo hữu, vào lúc quyển Tin Mừng thứ tư được viết, ngày sau ngày Sabbát đã là “ngày của Chúa” (Kh 1:10), Chúa Nhật (Dies Domini), và nó còn quan trọng hơn cả ngày Sabbát trong truyền thống của người Do Thái.
Những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín:  Một chi tiết cho thấy rằng thân thể của Đức Giêsu phục sinh, dù rằng vẫn có thể nhận ra, đã không bị chi phối bởi các điều kiện vật lý như người phàm.
Bình an cho các con:  Đây không phải là một lời chúc tụng, nhưng đó chính là sự bình an thực sự đã được hứa hẹn với các ông khi các ông buồn rầu vì sự ra đi của Chúa (Ga 14:27; 2Tx 3:16; Rm 5:3), sự bình an cứu chuộc, sự hoàn thành các lời hứa của Thiên Chúa, giải thoát khỏi mọi sợ hãi, chiến thắng tội lỗi và sự chết, giao hòa với Thiên Chúa, hoa trái của cuộc khổ nạn của Người, tặng phẩm cho không của Thiên Chúa.  Sự bình an này được lặp lại ba lần trong đoạn Tin Mừng này cũng như trong phần dẫn nhập (20:19) và tiếp theo sau đó (20:26) trong cùng một thể cách.
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người:  Chúa Giêsu cung cấp bằng chứng hiển nhiên và cụ thể rằng chính Người là kẻ đã bị đóng đinh trên thập giá.  Chỉ có thánh sử Gioan đã ghi lại chi tiết về vết thương nơi cạnh sườn Người là do ngọn giáo của một tên lính La-mã đâm vào, trong khi ấy Phúc Âm của Luca lại nhắc đến vết thương nơi chân (Lc 24:39).  Khi cho các môn đệ xem các vết thương, Chúa Giêsu muốn nói rằng sự bình an mà Người ban cho các ông đến từ cây thập giá (2Tm 2:1-13).  Những vết thương này là một phần căn tính của Người là Đấng đã Sống Lại từ cõi chết (Kh 5:6).
Các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa:  Niềm vui mừng này giống như niềm vui mừng được diễn tả bởi tiên tri Isaia khi ông mô tả về bữa tiệc của Thiên Chúa (Is 25:8-9), nỗi vui ngày tận thế đã được báo trước trong lời từ biệt và rằng không ai có thể cất đi được (Ga 16:22, 20:27).  (Xin xem thêm Lc 24:39-40; Mt 28:8; Lc 24:41).
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con:  Chúa Giêsu là nhà truyền giáo đầu tiên, “chúng tôi tuyên xưng là vị tông đồ và thày cả của đức tin” (Kh 3:1).  Sau khi trải qua kinh nghiệm của thập giá và sự phục sinh, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cùng Chúa Cha đã trở thành sự thật (Ga 13:20; 17:18; 21:15,17).  Đây không phải là một sứ vụ mới, nhưng là sứ vụ của Đức Giêsu mở rộng đến những ai là môn đệ của Người, gắn liền với Người như các cành nho gắn liền với cây nho (15:9), vì thế họ cũng gắn liền với Giáo Hội của Người (Mt 28:18-20; Mc 16:15-18; Lc 24:47-49).  Con Thiên Chúa hằng sống đã được sai đến để “thế gian, nhờ Người, mà được cứu độ” (Ga 3:17) và tất cả sự hiện diện của Người trên thế gian này, đã được xác định đầy đủ với ý định cứu chuộc của Chúa Cha, là sự biểu hiện liên tục về thánh ý của Chúa là tất cả được cứu rỗi. Người để lại dự án lịch sử này như một di sản cho toàn thể Giáo Hội và, đặc biệt là những thừa tác viên đã được tuyển chọn trong Giáo Hội.
Người thổi hơi vào các môn đệ:  Cử chỉ này gợi nhớ lại việc Thiên Chúa đã thổi hơi ban sức sống vào con người (St 2:7), điều này đã không thấy xảy ra bất cứ nơi nào khác trong Tân Ước.  Nó đánh dấu sự bắt đầu của một tác tạo mới.
Hãy nhận lấy Thánh Thần:  Sau khi Đức Giêsu đã được tôn vinh, Thần Khí Chúa đã được trao ban (Ga 7:39).  Ở đây Thần Khí Chúa được truyền đến cho một sứ vụ đặc biệt, trong khi tại ngày Lễ Ngũ Tuần (Cv 2) Chúa Thánh Thần hiện xuống trên toàn thể dân Thiên Chúa.
Các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha.  Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại:  Chúng ta cũng có thể tìm thấy quyền năng tha tội hoặc không tha tội trong sách Phúc Âm của thánh Mátthêu dưới một hình thức có vẻ pháp lý hơn (Mt 16:19; 18:18).  Theo những người Kinh Sư và Biệt Phái (Mc 2:7), và theo truyền thống (Is 43:25), chỉ có Thiên Chúa là Đấng có quyền tha tội.  Chúa Giêsu có quyền này (Lc 5:24) và truyền nó lại cho Giáo Hội của Người.  Trong lúc suy niệm, tốt hơn hết là chúng ta không nên dừng lại với sự phát triển về thần học trong giáo hội truyền thống của văn bản này và những cuộc tranh cãi về thần học sau đó.  Trong quyển Phúc Âm thứ tư, sự diễn đạt có thể được hiểu theo một ý nghĩa rộng lớn.  Ở đây nó là vấn đề của quyền tha tội trong Giáo Hội như là cộng đoàn cứu rỗi và một cách đặc biệt cho những ai đã được thiên phú với quyền lực này là những ai thừa kế và chia sẻ sứ vụ tông đồ.  Trong quyền năng tổng hợp này được bao gồm cả quyền tha tội sau khi đã rửa tội, điều mà chúng ta gọi là “bí tích hòa giải” được nói đến qua nhiều hình thức khác nhau trong suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội.
Bấy giờ một trong Nhóm Mười Hai, có ông Tôma goi là Điđymô:  Ông Tôma là một trong những nhân vật chính trong Quyển Phúc Âm thứ tư và lòng hoài nghi của ông, dễ bị hoang mang nản lòng, đã được làm nổi bật (11:16; 14:5).  “Một môn đệ trong nhóm mười hai” vào lúc này là một lời nói khuôn sáo (6:71), bởi vì thật ra họ chỉ còn lại mười một người.  “Điđymô”  có nghĩa là “Sinh Đôi”, và chúng ta có thể là “anh em song sinh” của ông bởi vì sự cứng lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chết và đã sống lại.
Chúng tôi đã xem thấy Chúa!:  Khi các ông Anrê, Gioan, và Philípphê đã gặp được Đấng Cứu Thế, họ liền chạy đi báo tin cho các người khác (Ga 1:41-45).  Giờ đây lại có lời tuyên bố chính thức bởi những người chứng tận mắt (Ga 20:18).
Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin:  Ông Tôma không tin lời những người chứng.  Ông muốn chính mình sờ tận mặt bắt tận tay.  Quyển Phúc Âm thứ tư ý thức rằng có một số người có thể có lòng hoài nghi về việc Chúa Phục Sinh (Lc 24:34-40; Mc 16:11; 1Cr 15:5-8), đặc biệt là những kẻ chưa được gặp Đấng Phục Sinh.  Ông Tôma là người diễn đạt cho họ (và cho cả chúng ta).  Ông Tôma đã sẵn sàng để tin, nhưng ông muốn làm sáng tỏ tất cả những hoài nghi trong lòng, vì lo rằng sẽ bị sai.  Chúa Giêsu đã không nhìn Tôma như một người hoài nghi không tin, mà xem ông như một người muốn đi tìm chân lý và Người đáp ứng ông trọn vẹn.  Tuy nhiên, điều này là một dịp để thể hiện sự cảm kích về các tín hữu trong tương lai.  (Câu 29)
Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin!:  Chúa Giêsu lặp lại những lời của Tôma và bắt đầu cuộc đối thoại với ông.  Người hiểu lòng hoài nghi của Tôma và muốn giúp ông.  Chúa Giêsu biết rằng Tôma yêu mến Chúa và vì vậy Người động lòng trắc ẩn bởi vì Tôma chưa tận hưởng được sự bình an đến từ đức tin.  Chúa Giêsu giúp ông lớn lên trong đức tin.  Để đi sâu hơn vào trong chủ đề này, chúng ta có thể đọc thấy những tương đồng trong: 1Ga 1-2; Tv 78:38; 103:13-14; Rm 5:20; 1Tm 1:14-16.
Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!:  Đây là lời tuyên xưng đức tin vào Đấng Đã Sống Lại và vào thiên tính của Người như đã được công bố ở chương đầu của Phúc Âm theo thánh Gioan (1:1).  Trong phần Cựu Ước, nhưng chữ “Chúa” và “Thiên Chúa” được tương ứng với các chữ “Gia-vê” và “Elohim” (Tv 35:23-24; Kh 4:11).  Đây là lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh một cách đầy đủ và trực tiếp nhất.  Đối với nền văn hóa Do Thái, các từ ngữ này mang một ý nghĩa giá trị hơn vì họ đã dùng trong các văn bản liên quan đến Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu đã không chỉnh sửa những chữ dùng bởi ông Tôma như Người đã hiệu chỉnh những chữ mà người Do Thái đã dùng để buộc tội Người là đã mong muốn được “bằng Thiên Chúa” (Ga 5:18); do đó Chúa đã xác nhận việc mang bản tính Thiên Chúa của Người.
Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin.  Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!:  Chúa Giêsu không thể dung thứ cho những ai chỉ biết đi tìm những dấu lạ và điềm thiêng để mà tin (Ga 4:48) và Người đã dùng ông Tôma để làm việc ấy.  Ở đây, chúng ta nên nhớ đến một đoạn Phúc Âm khác nói về một đức tin chân chính hơn, một “phương cách hoàn hảo” hướng về một đức tin mà chúng ta phải khao khát nhưng không có các đòi hỏi của Tôma, một đức tin được nhận lãnh như một ân sủng và như là một hành động của lòng tín thác, giống như gương đức tin của cha ông chúng ta (Kh 11) và của Mẹ Maria (Lc 1:45).  Chúng ta, những người sống sau Chúa Giêsu hai ngàn năm, đã được bảo cho biết về Người, dù rằng chúng ta chưa hề gặp Người, nhưng chúng ta vẫn có thể yêu mến và tin tưởng vào Người để chúng ta có thể hân hoan chan chứa với “một niềm vui khôn tả và rực rỡ vinh quang” (1Pr 1:8).
Các điều (dấu lạ) này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người:  Quyển Phúc Âm thứ tư, như các quyển Phúc Âm khác, không có nghĩa là viết một cuốn tiểu sử đầy đủ về Chúa Giêsu, nhưng chỉ để cho thấy rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Cứu Thế toàn dân đang mong đợi, Đấng Giải Thoát, và Người chính là Con Thiên Chúa.  Tin tưởng vào Người có nghĩa là chúng ta có được sự sống đời đời.  Nếu Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa, thì đức tin của chúng ta trở nên vô ích!
5.  Đáp Ca
Thánh Vịnh 118 (117)
 Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ;
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương!
Ít-ra-en hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Nhà A-a-ron hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Ai kính sợ CHÚA hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Chúng xô đẩy tôi, xô cho tôi ngã,
nhưng Chúa đã phù trợ thân này.
Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi,
chính Người cứu độ tôi.
Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng trong doanh trại chính nhân:
Tảng đá mà người thợ xây loại bỏ
lại trở nên tảng đá chính góc tường.
Đó chính là công trình của Chúa;
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ, lạy Chúa!
Ôi lạy Chúa, xin thương giúp thành công.
6.  Chiêm Niệm
Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, con xin cảm tạ Chúa, Người là Chúa của con và là Thiên Chúa, Chúa đã yêu thương con và đã cất tiếng gọi con, đã cất nhắc con trở nên người môn đệ của Chúa.  Chúa đã ban cho con Thần Khí Chúa, Đấng được sai đến để công bố và làm chứng cho sự phục sinh của Chúa, cho lòng thương xót của Chúa Cha, cho ơn cứu độ và tha thứ cho mọi người trên thế giới.  Chúa chính là đường, là sự thật và là sự sống, Chúa là bình minh không bao giờ xế tà, là vầng thái dương của công lý và hòa bình.  Xin ban cho con được cư ngụ trong tình yêu của Chúa, xin ràng buộc con vào Chúa như cành nho gắn liền với cây nho.  Xin hãy ban cho con sự bình an của Chúa để con có thể khắc phục đươc những yếu đuối, đối mặt với những nghi ngại của con và mạnh dạn bước theo ơn gọi của Chúa và để con sống trọn vẹn với sứ vụ Chúa đã giao phó cho con và con ca tụng Chúa muôn đời.  Con cầu xin vì Chúa là đấng hằng sống, hằng trị muôn đời.  Amen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét