Trang

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

02-05-2012 : THỨ TƯ TUẦN IV MÙA PHỤC SINH


Thứ Tư sau Chúa nhật IV Phục Sinh
Cv 12,24–13,5a; Tv 66; Ga 12,44-50.
Phao-lô tại An-ti-ô-ki-a

Bài đọc 1                                 Cv 12,24–13,5a

12 24 Bấy giờ, lời Thiên Chúa vẫn lan tràn và phát triển. 25 Ông Ba-na-ba và ông Sao-lô, sau khi đã chu toàn công việc phục vụ tại Giê-ru-sa-lem thì trở về, đem theo ông Gio-an, cũng gọi là Mác-cô.
13 1 Trong Hội Thánh tại An-ti-ô-khi-a, có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông Ba-na-ba, Si-mê-ôn biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô. 2 Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo : "Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm." 3 Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.
4 Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xê-lêu-ki-a, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Sýp. 5a  Đến Xa-la-min, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người Do-thái.



Đáp ca                                     Tv 66,2-3.5.6 và 8 (Đ. c. 4)

Đáp :  Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
            chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài !


Hoặc:
Đáp :   Ha-lê-lui-a.

2          Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
            xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con,
3          cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
            và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.                      Đ.

5          Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ,
            vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh,
            Người cai trị muôn nước theo đường chính trực
            và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này.                     Đ.

6          Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
            chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.                        Đ.



Tung hô Tin Mừng                 x. Ga 8,12

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi ; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Ha-lê-lui-a.



Tin Mừng                                Ga 12,44-50

44 Khi ấy, Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng : "Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi ; 45 ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. 46 Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. 47 Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. 48 Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy : chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. 49 Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. 50 Và tôi biết : mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi."
(bản văn theo UB.Kinh Thánh/HĐGMVN)


Suy Niệm:
Ánh sáng rất cần thiết trong cuộc sống tự nhiên. Ánh sáng đem lại niềm vui tươi sinh động. Ở đây bài Tin Mừng muốn nói đến ánh sáng siêu nhiên, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa. Ðức Giêsu chính là ánh sáng. Ai không tin vào Ðức Giêsu, không giữ lời Ngài thì sống trong tối tăm bất hạnh. Ðức Giêsu được sai đến không để xét xử nhưng để ban ơn cứu độ. Bởi thế, nếu khước từ Lời Ngài, là tự lên án chính mình, tự tách mình ra khỏi ánh sáng vinh quang Thiên Chúa.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con hằng khao khát hạnh phúc. Mà chỉ có Chúa mới cho chúng con được hạnh phúc đích thực và trường tồn. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng con gặp những trở ngại, khó khăn, u ám. Xin cho chúng con biết tìm đến Chúa. Nhờ ánh sáng của Chúa, chúng con sẽ tìm ra con đường đem lại hạnh phúc: Ðó là chúng con biết tin tưởng phó thác và sống theo sự hướng dẫn của Chúa. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Tin Con Là Tin Cha

Anh chị em thân mến!
Lần nọ, một nhóm giáo sĩ Công giáo Trung Hoa đã nhờ giáo sư Kinh Thánh từ Mỹ đến giúp họ khóa học về Thánh Kinh. Mở đầu cho khóa học, vị giáo sư đề nghị nhóm giáo sĩ tìm ra bất kỳ một đoạn Tin Mừng nào mà họ cảm thấy đánh động mình nhất. Trước sự ngạc nhiên của vị giáo sư, nhóm người ấy họ không chọn bài giảng trên núi, hay cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hoặc biến cố Phục Sinh của Ngài. Nhưng họ lại chọn câu chuyện rửa chân cho các môn đệ. Và cũng chẳng phải là ngẫu nhiên mà sự chọn lựa của nhóm giáo sĩ người Trung Hoa này đã mang một ý nghĩa thật trùng hợp với lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh chị em thân mến!
Bài Tin Mừng hôm nay có thể tóm lược cách tổng quát về những lời rao giảng công khai của Chúa. Chúa Giêsu đã nhắc đến hai điểm chính yếu là: "Tin Ngài là tin Chúa Cha và thấy Ngài là thấy Chúa Cha".
Tin Chúa thì sẽ mang lại ánh sáng cho cuộc đời, vì đức tin là ánh sáng, không tin thì sống trong tối tăm. Từ chối không tin Con Người thì tự kết án mình, mặc dù Chúa Giêsu không đến để kết án mà để cứu rỗi. Không ai có thể thoát ra khỏi sự xét xử cuối cùng này, và sự xét xử ấy là bởi thái độ do con người tin nhận hay từ chối từ Thiên Chúa: "Ai nghe lời Ta mà không tin giữ thì không phải Ta kết án kẻ đó, nhưng chính Lời Ta sẽ xét xử nó" (Ga 12,47-48), không ai có thể thoát khỏi sự xét xử này, nhưng sự xét xử đó sẽ đến trong ngày sau hết.
Trong cuộc sống, Thiên Chúa luôn kêu mời con người trở về với Ngài sau những lần sa ngã hay lúc họ chối từ Ngài, thời giờ chúng ta đang sống là thời giờ của lòng nhân từ thương xót Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta đừng lạm dụng lòng nhân từ Chúa, đừng khinh dể bỏ qua ơn soi sáng của Ngài. Qua đoạn Phúc Âm trên, thánh sử cho thấy rõ ý Chúa muốn nói với mỗi người, đó là Ngài muốn chúng ta lắng nghe lời Ngài và sống kết hợp với Ngài "biết giới răn Cha Ta là sống đời đời" (Ga 12,50).
Lạy Cha là Ðấng Toàn Năng Hằng Hữu, Cha đã đặt vào tâm hồn con người một niềm khao khát sâu xa về Cha, đến độ con người sẽ được an bình chỉ khi nào họ đến gặp Cha. Xin Cha hãy thương làm sao để cho con người vượt qua những thử thách, những trở ngại mà nhìn nhận những dấu chỉ về lòng nhân từ của Cha, và có được niềm vui khi chân nhận Cha là Thiên Chúa duy nhất, Cha là Ðấng chân thật của mọi người. Amen.

(Veritas Asia)

Sẵn sàng vâng lời Thiên Chúa
Bài đọc: Acts 12:24-13:5; Jn 12:44-50.

Có rất nhiều khác biệt giữa lời của Thiên Chúa và lời của con người: Lời của Thiên Chúa khôn ngoan tuyệt đỉnh, không thay đổi, và mang lại sự sống cả đời này và đời sau; trong khi lời của con người không thể khôn ngoan bằng Lời Chúa, thay đổi, chưa chắc đã mang lại sự sống đời này, và không thể mang sự sống đời sau.
Các Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết vâng lời Thiên Chúa qua sự thúc đẩy của Thánh Thần và thực thi những gì Chúa Giêsu nói. Trong Bài Đọc I, tuy Hội Thánh Antioch mới lập, nhưng họ sẵn sàng theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, hy sinh Barnabas, Phaolô, và Gioan Marcô, để các ông lên đường rao giảng Tin Mừng đến các nơi chưa được nghe. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Ngài chỉ nói những gì Ngài nghe được nơi Thiên Chúa. Vì thế, tuân giữ Lời Ngài là tuân giữ Lời Thiên Chúa; nếu không, những Lời này sẽ trở nên quan tòa xét xử con người.
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hội Thánh tại Antioch vâng lời Thiên Chúa.
1.1/ Lời Chúa tiếp tục lan tràn và phát triển đến mọi nơi: Đây là mục đích trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa nên Ngài tạo mọi cơ hội cho các sứ giả loan báo Tin Mừng. Vài ví dụ cho chúng ta thấy điều này: Phải có cuộc bách hại tại Jerusalem sau khi Stephanô chịu tử đạo, các môn đệ Chúa mới chịu tản mác đi các nơi và rao giảng Tin Mừng; trong khi các Tông-đồ ở lại Jerusalem để củng cố Hội Thánh Trung Ương. Phó-tế Philip xuống Samaria và rao giảng Tin Mừng cho dân ở đây. Ông cũng gieo hạt giống cho dân Ethiopia khi rao giảng Tin Mừng và làm Phép Rửa cho viên Thái Giám. Ngài làm cho Saul, kẻ nhiệt thành bắt bớ đạo thánh, được trở lại; và giờ đây sẵn sàng để nhiệt thành rao giảng Tin Mừng như tường thuật hôm nay. Nơi nào Tin Mừng được rao giảng, Thiên Chúa cũng ban cho có các ngôn sứ và thầy dạy, như trong Hội Thánh tại Antioch, có các ông Barnabas, Simeon biệt hiệu là Đen, Lucius người Cyrene, Manaen, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Herode, và Phaolô.
1.2/ Giáo đoàn tại Antioch sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần.
- Sứ vụ riêng cho Phaolô và Barnabas: Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: "Hãy dành riêng Barnaba và Phaolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm." Đây là lệnh truyền không dễ làm cho Hội Thánh tại Antioch, vì hai ông là hai cột trụ của cộng đoàn và Hội Thánh địa phương còn non nớt. Theo sự suy nghĩ loài người: nếu mất hai ông, cộng đoàn sẽ suy xụp và không phát triển được. Nhưng họ quyết định không sống theo sự suy nghĩ của con người; nhưng theo niềm tin vào Thiên Chúa và sự hướng dẫn của Thánh Thần: "Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi."
- Đây là bài học quí giá cho mọi tín hữu: Phải hy sinh cho việc rao giảng Tin Mừng sao cho mỗi ngày một lan rộng, chứ không ích kỷ giữ người cho mình. Hơn nữa, khi nhà lãnh đạo đương nhiệm ra đi, Thiên Chúa sẽ gởi người khác tới, và mọi người trong Hội Thánh địa phương sẽ ý thức được vai trò của mình và cộng tác đắc lực hơn.
- Phaolô, Barnabas, và Gioan Marcô bắt đầu thành các cộng đoàn mới: "Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Seleucia, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Cyprius. Đến Salamis, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người Do-thái. Có ông Gioan giúp hai ông."
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha.
2.1/ Con người phải tin và vâng lời Chúa Giêsu: Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng:
- "Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi." Người được sai đi có đầy đủ chức vị và thẩm quyền như Đấng sai đi. Vì thế, tin vào sứ giả là tin vào người sai sứ giả; từ chối sứ giả là từ chối người sai sứ giả.
- "Ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi." Đây là lời mặc khải mới lạ. Đối với con người, Người sai đi và sứ giả là hai chủ thể riêng biệt. Đối với Thiên Chúa, Người sai đi (Chúa Cha) và Người được sai đi (Chúa Con) là một; vì cả hai đều là Thiên Chúa, nhưng làm các việc khác nhau. Điều này cũng được Chúa Giêsu xác tín, khi Philip yêu cầu: "Xin Thầy chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là chúng con mãn nguyện rồi." Chúa Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíp, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!" Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình" (Jn 14:9-10).
- "Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối." Ánh sáng và bóng tối là hai điều trái nghịch nhau: khi có ánh sáng thì không có bóng tối; và ngược lại. Người tin vào Đức Kitô không thể ở trong bóng tối, vì Đức Kitô là ánh sáng. Điều này không có ý nói, người nào đã tin Đức Kitô là sẽ không còn bóng tối trong mình; nhưng nếu người tin Ngài chịu để cho ánh sáng của Ngài soi dẫn vào mọi ngóc ngách trong tâm hồn, họ sẽ chỉ còn là ánh sáng.
- "Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian." Câu này lặp lại những gì Chúa Giêsu đã nói trong Jn 3:16-21. Chương 12 của Gioan là chương cuối cùng của cuộc đời công khai rao giảng của Đức Kitô, vì từ chương 13 tới 21 dành cho các môn đệ và Cuộc Thương khó của Ngài. Vì thế, chương 12 tóm gọn những đạo lý chính của Chúa Giêsu.
- "Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy - chính lời tôi đã nói sẽ là quan tòa xét xử người ấy trong ngày sau hết." Theo Jn 3:18, con người xét xử chính mình khi không tin vào Đức Kitô. Với những người không có cơ hội gặp Chúa Giêsu và những người thuộc các thế hệ sau như chúng ta, Lời Chúa trở thành quan tòa xét xử cho những ai không chịu tin vào Lời Ngài.
2.2/ Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha: "Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì." Người được sai đi phải nói những gì người sai đi muốn nói; nếu không, họ sẽ không còn là sứ giả hay ngôn sứ của người đã sai họ đi.
Tuy nhiên, sự vâng lời của Chúa Giêsu không có tính cách nô lệ hay mù quáng, vì Ngài phán: "Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi." Nói cách khác, Ngài biết Lời của Chúa Cha là sự thật, và có khả năng giải thoát con người khỏi tội, và cho con người được sống muôn đời.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn nhớ Thiên Chúa vẫn đang hoạt động và điều khiển mọi sự trong vũ trụ. Bổn phận của chúng ta là cầu nguyện để nhận ra và mau mắn thi hành thánh ý của Ngài.
- Chúng ta phải chịu trách nhiệm trong việc rao giảng Tin Mừng cho mọi người, chứ không ích kỷ chỉ biết lo lắng cho mình hay cho giáo xứ. Khi đã hiêu biết Lời Chúa rồi, chính chúng ta phải sống và làm chứng cho Tin Mừng.
- Đừng khinh thường Lời Chúa vì những Lời này sẽ trở thành quan tòa để phán xét chúng ta; hơn nữa, đó là những Lời mà vì yêu chúng ta, Thiên Chúa nói với chúng ta những Lời này.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP.

02/05/12 THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 4 PS
Th. Athanasiô, giám mục, tiến sĩ Hội thánh 

Ga 12,44-50

LỜI TỐI HẬU CỦA TÌNH YÊU

“Tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.” (Ga 12,47)

Suy niệm: Di ngôn của người sắp lìa trần bao giờ cũng hết sức quan trọng, bởi vì đó là những lời tâm huyết nhất mà người sắp ra đi muốn để lại cho con cháu, cho đời, mà đây là cơ hội cuối cùng để nói lên. Chính vì thế những lời ấy dù có thốt ra trong tiếng thều thào, cũng được những người thân chăm chú lắng nghe. Có thể coi những lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay chính là những di ngôn của Ngài vì đây là lần cuối cùng Ngài nói cho dân chúng trước khi chịu khổ hình. Lần này Chúa không nói thầm nhưng “kêu lớn tiếng” điều tâm huyết mà Ngài gửi đến cho mọi người “Tôi đến không phải để xét xử thế gian mà để cứu thế gian,” đó cũng là điều Ngài đã nói riêng cho ông Nicôđêmô từ những ngày đầu: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17).

Mời Bạn: Con Thiên Chúa được sai đến trần gian chỉ có một mục đích là cứu chúng ta. Bạn coi những lời Chúa nói đây là nghiêm túc chứ? Bệnh nhân phải nghe lời khuyên của bác sĩ để biết bệnh tình của mình thế nào và phải chữa trị làm sao, bạn cũng cần lắng nghe Lời Chúa để biết mình cần được cứu độ; quả thật Ngài yêu thương bạn đến nỗi hiến thân chịu chết để cứu bạn; nếu không, Chúa đã chẳng nói lên những lời thống thiết như thế. Bạn sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và tin vào Ngài chứ?

Sống Lời Chúa: Nghiền ngẫm câu Lời Chúa trên đây (Ga 12,47) để xác tín mình được Chúa yêu thương và cứu độ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin đặt trọn niềm tin vào Chúa để được Chúa thương và ban ơn cứu dộ.



Từ bóng tối đến ánh sáng
Tin mừng theo thánh Gio-an được viết ra sau một thời gian dài cầu nguyện đến lúc chín mùi. Trước khi cho chúng ta những lời chứng, thánh nhân đã dầy kinh nghiệm sống với sức sống của Thiên Chúa, Cha, Con và Thánh Thần. Tin mừng này bày tỏ về Thiên Chúa Ba ngôi, qua con tim của một người, một người xác tín, một người tông đồ yêu dấu.
Đức Giêsu tự định nghĩa mình là người được sai đi của Cha. Thánh Gio-an không giới thiệu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Cha. Hầu như bất cứ điều quan trọng nào đều chỉ về Cha và không chỉ về Con. Tất cả đều tương quan với Cha. Đức Giêsu thực hiện sứ mệnh do Cha ban, Người làm cho họ nhận biết sứ điệp của Cha. Đức Giêsu chính là sứ điệp của Cha.
Thái độ của Đức Kitô luôn luôn bày tỏ sự hoàn toàn tùy thuộc, hoàn toàn vâng lời lúc nào cũng sẵn sàng đối với Cha. Nếu Người cho lời Người là quan trọng vì đó là lời của Cha: “Chính lời Tôi nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết, thật vậy, không phải Tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai Tôi, truyền lệnh cho Tôi phải nói gì và tuyên bố gì”.
Chúng ta có lẽ phán đoán đây là một sự lệ thuộc quá nô lệ. Đức Giêsu không có một sự tự chủ của người trưởng thành …
Trái lại, chính đó là một hành động tự do của Đức Giêsu vì Người tự ý đặt mình sẵn sàng theo ý Cha: Đó chính là con đường cứu chuộc.
Con người muốn độc lập với Thiên Chúa, không muốn sống hợp với nguyên lý sự sống. Nhưng muốn được cứu chuộc phải vâng lời, phải tiến lại sống thân mật với Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: Vì không vâng lời của một người, mà án phạt đã đến trong thế gian.
Chúng ta hãy để cho con tim chúng ta được tự do dâng lời cảm tạ biết ơn Đức Giêsu, là nguồn ơn cứu chuộc chúng ta, và Thánh lễ tạ ơn chúng ta sắp cử hành để tuyên xưng hồng ân của Chúa Cha là đã sai Con Một Ngài đến cho chúng ta.
C.G
 Ánh sáng của Đức Kitô
Nơi con người Chúa Giêsu có nhiều thứ ánh sáng. Đó có thể là thứ ánh sáng phản chiếu vinh quang quyền năng, thứ ánh sáng mà khi đối diện con người phải cúi đầu. Chúa Giêsu không tỏ lộ ánh sáng này cho các môn đệ và dân chúng theo Ngài, ngoại trừ một lần trên núi Thabor, Ngài biến hình sáng láng trước mặt ba môn đệ: Phêrô, Yacôbê và Gioan.
Ánh sáng thường gặp nơi Ngài là ánh sáng soi đường dẫn lối, một thứ ánh sáng không làm cho con người sợ hãi, nhưng mời gọi bước theo. Anh sáng phát xuất từ ngọn lửa yêu thương phục vụ xem ra không huy hoàng rực rỡ, nhưng lại hữu hiệu. Đối diện với ánh sáng này, con người sẽ hoặc là tiếp nhận, hoặc là chối từ. Khi chối từ tức là con người còn nằm trong bóng tối và ánh sáng trở thành ánh sáng xét xử. Chúa Giêsu không kết án, vì Ngài đến để cứu chuộc, nhưng chính thái độ cố chấp của con người sẽ kết án họ.
Không có ánh sáng đồng thời với bóng tối, ở đâu có ánh sáng, ở đó sẽ không còn bóng tối. Nhưng để tiếp nhận ánh sáng, con người phải chấp nhận từ bỏ, tiêu hao chính mình. Chúa Giêsu đã đem lửa xuống trần gian và Ngài ước mong cho nó cháy lên. Gặp gỡ Đức Kitô, con người sẽ gặp được ngọn lửa yêu thương của Ngài. Ngọn lửa càng sáng, càng đòi tiêu hao nhiều nhiên liệu. Ngọn lửa Đức Kitô đã tỏa sáng khắp vũ trụ khi Ngài được giương cao trên Thập giá và hiến thân cho đến giọt máu cuối cùng.
Bước theo Đức Kitô, người kitô hữu chúng ta không những được mời gọi tiến vào miền ánh sáng, mà còn có bổn phận trở thành ánh sáng. Ngài không cần chúng ta phải chiếu ánh sáng quyền năng của Ngài bằng những việc phi thường, nhưng là sẵn sàng tiêu hao chính mình để ánh sáng Đức Kitô được chiếu tỏa, và nhờ đó chính chúng ta cũng được đổi mới và nhận được vinh quang Phục Sinh của Ngài.

(gp.longxuyen.net)

Ngày 02

Thánh Athanasiô, giám mục,
tiến sĩ Giáo hội


Cái chết là cơ hội làm rơi tất cả mặt nạ. Đây là thách thức đích thực đến với tôi: trong hành động cuối cùng của cuộc sống tôi, tôi có thực sự là người đầy ảo giác để thực hiện những dự phóng của cá nhân mình, tìm những sự bảo đảm trần thế hay không? Tôi có bị trói trong "hình ảnh lý tưởng hóa" và giam mình trong cái "Tôi" của mình hay không? Hay là tôi trở thành chính mình? Tôi có theo gương Đức Kitô, nhận thức cá nhân mình là con Thiên Chúa, đang trở về với Cha... có lẽ đến từ xa, quên đi tất cả khó khăn, tâ't cả cám dỗ, để đặt mình trước mặt Thiên Chúa như một chủ thể độc lập? Tôi có được một sự chọn lựa: từ chối để rời bỏ tội và can đảm trong khi xin ơn tha thứ để nhào vào bàn tay của Cha trong một hành động phó thác, vì biết rằng tinh yêu của Cha còn lớn hơn tất cả mọi lỗi lầm của mình và Người không muốn mất tôi. Bấy giờ tôi sống cuộc Vượt qua và đến với Cha, với Đức Giêsu, Đấng đón nhận tôi trong cái chết của Người để giúp tôi sống lại với Người.
André Daigneault

Thứ Tư 2-5

Thánh Athanasius

(296? - 373)

C
uộc đời Thánh Athanasius đầy bôn ba vì tận tụy phục vụ Giáo Hội. Ngài là quán quân bảo vệ đức tin đối với sự lan tràn của lạc thuyết Arian. Sự nhiệt huyết của ngài được thể hiện trong các trước tác giúp ngài xứng đáng là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Sinh trong một gia đình Kitô Giáo ở Alexandria và được giáo dục kinh điển, Athanasius gia nhập hàng giáo sĩ và là thư ký cho Ðức Alexander, Giám Mục của Alexandria, và sau đó chính ngài được nâng lên hàng giám mục. Vị tiền nhiệm của ngài, Ðức Alexander, từng là người lớn tiếng chỉ trích một phong trào mới đang bành trướng ở Ðông Phương thời bấy giờ, đó là lạc thuyết Arian, họ khước từ thiên tính của Ðức Kitô và không coi Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa.
Khi Ðức Athanasius đảm nhận vai trò Giám Mục của Alexandria, ngài tiếp tục chống với lạc thuyết Arian. Lúc đầu, cuộc chiến dường như dễ dàng chiến thắng và lạc thuyết Arian sẽ bị kết án. Nhưng thực tế thì trái ngược. Công Ðồng Tyre đã được triệu tập và vì một vài lý do không rõ ràng, Hoàng Ðế Constantine đã trục xuất Ðức Athanasius đến miền bắc nước Gaul. Ðây là chuyến đi đầu tiên trong một chuỗi hành trình và lưu đầy có nét phảng phất như cuộc đời Thánh Phaolô.
Khi Constantine từ trần, hoàng tử kế vị đã phục hồi quyền giám mục của Ðức Athanasius. Nhưng chỉ được có một năm, ngài lại bị truất phế vì sự liên hiệp của các giám mục theo phe Arian. Ðức Athanasius đã đệ đơn lên Rôma, và Ðức Giáo Hoàng Julius I đã triệu tập một công đồng để duyệt qua vấn đề và các khó khăn liên hệ.
Trong bốn mươi sáu năm làm giám mục, ngài đã phải lưu đầy mười bảy năm chỉ vì bảo vệ tín điều về thiên tính của Ðức Kitô. Trong một thời gian, ngài được an hưởng 10 năm tương đối bình an để đọc sách, viết lách và cổ võ lý tưởng của đời sống đan viện mà ngài hết lòng tận tụy.
Các văn bản và giáo lý của ngài hầu hết là các bài bút chiến, trực tiếp chống lại mọi góc cạnh của lạc thuyết Arian. Trong các văn bản của ngài về đời sống khổ hạnh, cuốn Ðời Sống Thánh Anthony được nhiều người biết đến và góp phần lớn trong việc thiết lập đời sống đan viện trên khắp thế giới Kitô Giáo Tây Phương.
Tượng thánh trong Nhà thờ Công Giáo Thánh A-tha-na-xi-ô tại Evanston, Illinois, Hoa Kỳ.

Lời Bàn

Khi là Giám Mục của Alexandria, Thánh Athanasius đã phải đau khổ nhiều vì những thử thách. Ngài được Chúa kiên cường để chống lại một điều tưởng như không thể nào vượt qua được vào lúc bấy giờ. Thánh Athanasius đã sống trọn vẹn trách nhiệm của một vị giám mục. Ngài bảo vệ đức tin chân chính cho đàn chiên, bất kể giá phải trả. Trong thế giới ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi để giữ vững đức tin chân chính với bất cứ giá nào.

Lời Trích

Những khó nhọc mà Thánh Athanasius đã phải đau khổ trong khi lưu đầy -- trốn tránh, bỏ chạy từ nơi này sang nơi khác -- nhắc nhở chúng ta về những gì mà Thánh Phaolô đã đề cập đến trong cuộc đời ngài: "Trong nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, ở sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; trong vất vả mệt nhọc, qua những đêm không ngủ, qua sự đói khát, thường xuyên phải nhịn ăn uống, qua sự lạnh lẽo và trần truồng. Ngoài những điều này, hằng ngày tôi còn bị ray rứt vì sự ưu tư lo cho tất cả các giáo hội" (2 Corinthians 11:26-28).

Copyright © 2001 by Nguoi Tin Huu. 



Tháng năm - 2012

Lịch Công Giáo theo Giáo Phận Sài Gòn

Ý chung:
 Cầu cho các sáng kiến bảo vệ và củng cố vai trò của gia đình. Xin cho các sáng kiến bảo vệ và củng cố vai trò của gia đình được khuyến khích trong xã hội.
Ý truyền giáo : Cầu cho các vị thừa sai được Đức Maria cùng đồng hành:Xin cho Đức Maria, Nữ Hoàng của thế giới và Sao Sáng của việc rao giảng Tin Mừng, đồng hành cùng tất cả các vị thừa sai trong công cuộc loan báo Đức Giêsu, Con của Mẹ.
THÁNG KÍNH ĐỨC MẸ
"Các tín hữu hãy nhớ rằng lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến Mẹ chúng ta và noi gương các nhân đức của Mẹ" (GH 67).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét