Trang

Thứ Ba, 10 tháng 2, 2015

11-02-2015 : THỨ TƯ TUẦN V THƯỜNG NIÊN - ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC (Lễ Nhớ) - NGÀY QUỐC TẾ BỆNH NHÂN

Ngày 11 tháng 02
Ðức Mẹ Lộ Ðức
Lễ Nhớ


Bài Ðọc I: Is 66, 10-14c
"Nay Ta tuôn đổ xuống Thành Ðô ơn thái bình tựa dòng sông cả".
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
Ðức Chúa phán: "Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì Thành Ðô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người yêu mến Thành Ðô! Hãy cùng Giêrusalem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Ðô,
để được Thành Ðô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thỏa thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.
Vì Ðức Chúa phán như sau: Này Ta tuôn đổ xuống Thành Ðô ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối.
Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về.
Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc, thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh. Ðức Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Gđt 13, 18bcde.19 (Ð. Gđt 15,9d)
Ðáp: Bà làm cho giống nòi chúng ta được vinh dự lớn lao.
Xướng: 1) Này trang nữ kiệt, bà được Thiên Chúa Tối Cao ban phúc hơn tất cả các phụ nữ trên cõi đất này. Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa, Ðấng dựng nên trời đất. - Ðáp.
2) Vì cho đến muôn đời muôn thuở, những ai hằng nhớ đến sức mạnh của Thiên Chúa sẽ không lãng quên lòng trông cậy bà đặt nơi Người. - Ðáp.

Alleluia: Lc 1, 45
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Mẹ đồng trinh Maria, Mẹ thật diễm phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã cho Mẹ biết. - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 2, 1-11
"Trong tiệc cưới, có thân mẫu Ðức Giêsu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Ðức Giêsu. Ðức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Ðức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". Ðức Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến". Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo".
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Ðức Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc". Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ". Ðức Giêsu đã làm dấu lạ này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đễ đã tin vào Người.
Ðó là lời Chúa


Suy niệm : Ðức Mẹ Lộ Ðức

Buổi sáng ngày 11 tháng 2 năm 1858 tại Lộ Ðức, một thị trấn nhỏ nằm ở miền Nam nước Pháp, trời lạnh như cắt. Cô Bernadette Soubirous cùng với hai người em khác tự nguyện ra phía rừng cạnh bờ sông Gave để nhặt củi. Bernadette vừa lên 15 tuổi. Nhưng cô chưa biết đọc và biết viết. Cô vừa mới cắp sách đến trường của các sơ được một thời gian ngắn để học tiếng Pháp, bởi vì trong miền cô đang ở, mọi người đều nói một thứ thổ ngữ khác với tiếng Pháp. Hôm đó là ngày thứ năm, cô được nghỉ học. Mặc dù bệnh suyễn đang hoành hành, nhưng nghĩ đến cảnh nghèo túng của gia đình, nên Bernadette đã xin phép mẹ được đi nhặt củi.
Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng thứ năm đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới lần mò tiến về một hang động gần đó mà dân làng có thói quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay với công việc nhặt củi, thì kìa từ trong hang: một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ xuất hiện. Theo lời mô tả của Bernadette, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ cực kỳ diễm lệ đó chỉ mỉm cười.
Trong cơn xúc động bồi hồi, như một cái máy, Bernadette đã lôi tràng hạt từ trong túi áo ra và cô bắt đầu đọc kinh Kính Mừng trong ngôn ngữ quen thuộc của cô. Trong ánh sáng chan hòa giữa mùa đông vẫn còn lạnh đó, người thiếu nữ chỉ mỉm cười. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm dấu cho cô tiến lại gần hơn. Nụ cười vẫn chưa tắt trên môi người thiếu nữ. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn...
Ba ngày sau đó, sau khi đã có những tiếng xì xầm về hiện tượng lạ đó, bà mẹ của Bernadette nghiêm cấm không cho con gái mình trở lại hang Massabielle nữa. Nhưng do một sự thúc đẩy không thể cưỡng bách được, Bernadette đã trở lại chỗ cũ cùng với mấy chị em của cô. Lần này, khi người thiếu nữ mặc áo trắng xuất hiện Bernadette đã mạnh dạn hô lớn: "Nếu người đến từ Thiên Chúa, xin người hãy ở lại". Người thiếu nữ mỉm cười gật đầu. Ðây là lần thứ hai người áo trắng hiện ra với cô. Lần thứ ba cũng xảy ra như thế vào ngày 18 tháng 2 và liên tiếp trong vòng 15 ngày, Bernadette đã được diễm phúc gặp Ðức Maria hiện ra và tỏ lộ cho cô một danh tánh vô cùng kỳ lạ: "Ta là Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội".
Từ nơi cô đang quỳ cầu nguyện mỗi khi Ðức Mẹ hiện ra, một dòng suối nhỏ đã vọt lên có sức chữa trị mọi tật bệnh.
Ðó là nguồn gốc của hang Ðức Mẹ Lộ Ðức. Ngày nay, từng giờ từng phút, khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn đến để cầu nguyện và xin ơn. Ðến đó, dù tin hay không tin, mọi người đều cảm thấy có một sức mạnh lạ lùng lôi kéo để đốt lên một ngọn nến và quỳ gối cầu nguyện.
Hiện nay, khắp nơi trên thế giới, đều có những hang Lộ Ðức được thiết kế một cách tương tự để nhắc nhớ biến cố này cũng như kêu gọi lòng tôn sùng Mẫu Tâm.
Nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng có một lần mơ ước đến tận nơi để cầu nguyện. Mẹ Maria đã không hiện ra với tất cả mọi người. Phép lạ cũng không hiện ra một cách tỏ tường với tất cả mọi người đến cầu khấn. Ðiều quan trọng không phải là hành hương đến tận nơi Thánh, nhưng chính là sứ điệp mà Mẹ muốn nhắn gửi với chúng ta qua những người được diễm phúc thấy Mẹ hiện ra. Sứ điệp đó vẫn luôn luôn là hy sinh, là phục vụ và nhất là cầu nguyện.

Veritas Asia

Thứ Tư sau Chúa Nhật 5 Quanh Năm

Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 4b-9. 15-17
"Thiên Chúa đặt con người vào vườn địa đàng".
Bài trích sách Sáng Thế.
Trong ngày Thiên Chúa tạo dựng trời đất, thì chưa có bụi cây nào mọc ngoài đồng, không có một cây rau cỏ nào nẩy mầm ngoài đồng ruộng, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa rơi xuống đất, và chưa có người để trồng trọt, nhưng lúc đó mạch nước từ đất vọt lên, tưới khắp mặt đất.
Vậy Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống.
Thiên Chúa lập một vườn tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên.
Thiên Chúa cho từ đất mọc lên mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống ở giữa vườn, và cây biết lành dữ.
Vậy Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa và coi sóc vườn.
Và Thiên Chúa truyền lệnh cho con người như sau: "Ngươi được ăn mọi thứ trái cây trong vườn, nhưng chớ ăn trái cây biết lành dữ, vì ngày nào ngươi ăn nó, ngươi sẽ phải chết".
Ðó là Lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv. 103, 1-2a 27-28, 29bc-30
Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa (1a).
Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác. - Ðáp.
2) Hết thảy mọi vật đều mong chờ ở Chúa, để Ngài ban lương thực cho chúng đúng thời giờ. Khi Ngài ban cho thì chúng lãnh, Ngài mở tay ra thì chúng no đầy thiện hảo. - Ðáp.
3) Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất. - Ðáp.

Alleluia: Ga. 15, 15b
Alleluia, alleluia - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.

Phúc Âm: Mc 7,14-23
"Những gì từ con ngùi ta xuất ra, đó là cái làm cho người ta ra ô uế"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
Lúc Người lìa dân chúng mà về nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.
Người liền bảo các ông: "Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra".
Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch.
Người lại phán: "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.
Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".
Ðó là Lời Chúa.

Suy Niệm: Vấn đề sạch dơ

Khi bàn về chế độ ăn uống của các dân tộc và của cá nhân, những nhà văn hóa xã hội phải thú nhận không thể đưa ra một tiêu chuẩn chung để qui định đâu là thức ăn ngon, đâu là thức ăn dở, đâu là thức ăn sạch sẽ bổ dưỡng, đâu là cái bẩn thỉu và độc hại. Bởi vì, đối với dân tộc này, món óc khỉ chẳng hạn là một món ăn bổ dưỡng và sang trọng, nhưng đối với dân tộc khác, đó là một thức ăn của người còn mang nặng thú tính, chưa có nhân tính thuần thục. Người Do thái ngày xưa cũng tự qui định cho mình một số thức ăn được phép và một số thức ăn không được phép. Còn thái độ của Chúa Giêsu đối với vấn đề này như thế nào?
Trước hết, phải nhìn nhận rằng cả Chúa Giêsu lẫn người Do thái đều không đứng trên bình diện sinh học để cứu xét thức ăn sạch hay dơ, tốt hay xấu, nhưng cả hai phê phán giá trị thức ăn theo quan điểm luân lý. Người Do thái qui định một số thức ăn không được phép dùng, ban đầu có thể là do yếu tố vệ sinh, y học, nhưng về sau họ đánh giá theo một góc độ khác. Chẳng hạn người Do thái không ăn máu và những thú vật bị chết ngạt, vì họ cho rằng máu tượng trưng cho sự sống, mà sự sống là độc quyền của Thiên Chúa, do đó con người không được phép đụng tới. Quan niệm này tiếp tục tồn tại trong Giáo Hội Kitô tiên khởi và các tín hữu gốc ngoại giáo được yêu cầu nhượng bộ các Kitô hữu gốc Do thái ở điểm này.
Thắc mắc của các môn đệ và giải đáp của Chúa Giêsu được tác giả Marcô ghi lại ở đây, có lẽ phản ánh bầu khí tranh luận của Giáo Hội tiên khởi lúc ấy và hướng giải quyết vấn đề mà Giáo Hội dần dần phải theo, đó là mọi thức ăn đều thanh sạch; điều quan trọng hơn chính là tâm hồn con người, bởi vì thức ăn sạch, chén đĩa sạch, tay chân sạch có ích gì cho việc mưu cầu ơn cứu độ, nếu con người còn có tâm hồn lừa dối Thiên Chúa và phỉnh gạt người khác.
Có một lần Phêrô đã phản ứng như mọi người Do thái. Trong một thị kiến, Phêrô được lệnh phải giết và ăn các thú vật nằm trên tấm khăn lớn từ trời buông xuống, nhưng Phêrô lập tức từ chối vì cho đó là thức ăn dơ. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã sửa sai quan niệm của ông: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, thì con người chớ gọi là ô uế. Thật ra, thị kiến này chỉ có ý nghĩa tượng trưng: Phêrô được lệnh phải tiếp đón lương dân vào Giáo Hội, những người mà Do thái giáo cho là nhơ uế. Như vậy, khi trả lời cho câu hỏi về vấn đề sạch, dơ ở đây, Chúa Giêsu muốn nói rằng người ta không thể đánh giá người khác dựa trên mầu da, chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, giai cấp, vì tất cả những điều ấy chỉ là những hình thức phụ thuộc; mỗi người sẽ bị Thiên Chúa đánh giá dựa vào tâm địa tốt hay xấu của mình và những hành vi xuất tự tâm địa ấy.
Từ chỗ không kỳ thị về các sự vật, Kitô giáo tiến tới chỗ không kỳ thị về con người. Bằng chứng là trong giáo lý Công giáo hiện nay, không hề có dị ứng trước các thực tế của nhân loại, cũng không đặt bảng phân loại con người để tiếp nhận và Giáo Hội hay lập thang giá trị để đáng giá các phần tử trong Giáo Hội. Trái lại Kitô giáo mang tinh thần đại đồng và phổ quát, xứng đáng được gọi là đạo Công Giáo.
Xin cho chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô, không bao giờ có óc kỳ thị đối với các thực tại cuộc sống cũng như đối với nhau.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 5 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 2:5-9, 15-17; Mk 7:14-23.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cái gì làm con người ra xấu xa tội lỗi?
Có người cho là việc sống gần gũi với những kẻ tội lỗi, vì “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra, chứ không nhất thiết phải xảy ra. Chẳng hạn, người quân tử “sống gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Hay như Chúa Giêsu chủ trương: Ngài như một thầy thuốc đến tìm các con bệnh để chữa lành, mặc dù các biệt-phái và kinh-sư nghĩ Ngài cũng tội lỗi như những người thu thuế và gái điếm, nều Ngài giao thiệp với họ.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh đề tài “cái gì làm con người ra xấu xa tội lỗi.” Trong Bài Đọc I, tác-giả tường thuật một trình thuật khác về việc tạo dựng. Thiên Chúa tạo dựng nên con người và đặt ông vào Vườn Địa Đàng mà Ngài đã tạo dựng sẵn. Thiên Chúa truyền lệnh: Con người có thể ăn mọi trái cây trong Vuờn, ngọai trừ cây cho biết thiện và ác. Lệnh truyền này dẫn tới sự sa ngã của con người trong ít ngày tới, khi con người bất tuân lệnh Thiên Chúa. Chính hành động bất tuân này làm cho con người nhận ra sự xấu xa tội lỗi của mình. Trong Phúc Âm, truyền thống Do-Thái cho con người ra xấu xa tội lỗi là vì không cẩn thận giữ các luật thanh tẩy. Chúa Giêsu phủ nhận truyền thống này khi Ngài tuyên bố chỉ có những gì phát ra từ tâm hồn, mới làm con người ra xấu xa tội lỗi mà thôi.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Một trình thuật khác về việc tạo dựng
“Ngày Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Đức Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. Nhưng có một giòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Eden, về phía Đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.”
1.1/ Phân biệt 2 trình thuật khác nhau về việc tạo dựng vũ trụ, P và J: Nếu một người chú ý đến việc thay đổi cách gọi Thiên Chúa, người đó sẽ thấy có 2 trình thuật khác nhau về việc tạo dựng. Các nhà chú giải phân biệt 2 trình thuật tạo dựng khác nhau trong việc tạo dựng. Trình thuật của truyền thống giáo sĩ, P, gọi “Thiên Chúa;” trong khi trình thuật Yahweh, J, gọi “Đức Chúa là Thiên Chúa.” Kiểu trình thuật của J sống động và cụ thể hơn P. Kiểu mô tả về Thiên Chúa có vẻ con người hơn. Tổng quan nhắm tới trái đất và con người, chứ không tới vũ trụ và thần tính như P.
Theo nội dung của tòan thể trình thuật theo J, việc tạo dựng là phần giới thiệu vào việc sa ngã, và là hệ quả của sự xa cách dần dần giữa con người và Thiên Chúa. Tất cả những điều này là phần giới thiệu của những câu truyện của các Tổ-phụ, và cách tối hậu, cho những hành động cứu con người trong biến cố Xuất Hành. Vì thế, trình thuật của việc tạo dựng theo J, cũng như theo P, là bắt đầu của Lịch sử Cứu Độ.
Cũng như trình thuật của P, tác-giả nhấn mạnh đến tất cả là do Thiên Chúa tạo dựng. Ngài tạo dựng nên con người và ban cho người sự sống bằng cách “thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” Điều này làm cho con người khác với các sinh vật khác, vì sự sống của con người là chính hơi thở của Thiên Chúa. Thiên Chúa làm lên Vườn Địa Đàng Eden, và đặt con người vào đó. Nước để tưới cũng do Thiên Chúa dựng nên thay vì đã có sẵn như trình thuật của P. Theo tiếng Do-Thái, con người “adam” và đất “adamah” có chung mối liên hệ: con người bởi đất mà ra (câu 7); con người xử dụng đất để sinh sống (câu 5b); và con người sẽ trở về với đất (3:19).
1.2/ Lệnh truyền của Thiên Chúa cho con người:
(1) Hai cây hay một cây? Trình thuật kể: “Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác.” Theo câu này, có 2 cây ở giữa vườn: cây trường sinh và cây cho biết điều thiện điều ác. Chúng ta sẽ trở lại điều này trong trình thuật về sự sa ngã của con người.
(2) Lệnh truyền của Thiên Chúa: Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết." Hạnh phúc của con người có được là do việc tuân giữ lệnh truyền của Thiên Chúa. Tội lỗi và chết chóc xảy ra là khi con người bật tuân lệnh Ngài.
2/ Phúc Âm: Con người lẫn lộn giữa nhơ bẩn bên ngòai và xấu xa tội lỗi bên trong.
2.1/ Truyền thống Do-Thái và việc thanh tẩy: Họ tin việc giữ luật thanh tẩy không phải là cho những lý do vệ sinh bên ngòai; nhưng là cho sự thanh sạch bên trong để xứng đáng dâng lễ vật cho Thiên Chúa và được Ngài nhận lời cầu xin. Ví dụ, nếu một tư-tế đụng phải xác chết, ông sẽ không thanh sạch để dâng lễ vật; ăn vật dơ bẩn làm ô uế tòan thể con người.
2.2/ Giáo huấn về sự thanh sạch của Chúa Giêsu:
(1) Phân biệt giữa nhơ bẩn thân xác và xấu xa tâm hồn. Chúa Giêsu giải thích: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được… Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài?" Tác giả dùng cẩn thận 2 danh từ Hy-Lạp khác nhau: tim, “kardia” và bao tử, “koilia.”
Thực phẩm có dơ bẩn đến đâu chăng nữa, cũng không thể làm tâm lòng con người ra xấu xa tội lỗi; vì thực phẩm không thể nào vào tim, nhưng qua bao tử và rồi những chất dơ được thải ra ngòai. Thực phẩm có thể làm cho con người bệnh về phần xác, nhưng không bao giờ có thể đem bệnh tật về phần linh hồn.
(2) Xấu xa tội lỗi bên trong gây thiệt hại hơn: Chúa Giêsu tiếp tục giải thích: "Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." Ngài có ý muốn nói cho họ biết Thiên Chúa là Đấng nhìn thấu suốt mọi sự trong tâm hồn con người. Họ không thể đánh lừa Thiên Chúa bằng việc quan sát qua loa những luật lệ thanh tẩy bên ngòai. Rất nhiều lần trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước, Thiên Chúa đã từng nói với họ: của lễ Ngài ưa thích không phải là những hiến tế hay nghi lễ bên ngòai, nhưng là một tâm hồn thống hối và một trái tim ước muốn thi hành thánh ý của Thiên Chúa.
Lối giải thích của Chúa Giêsu đảo ngược những giá trị mà người Do-Thái vẫn tin từ bao đời. Họ khó chịu vì Chúa Giêsu đã vô hiệu hóa bao nhiêu Luật thanh tẩy của họ. Rất khó cho họ chấp nhận cách giải thích của Chúa Giêsu, vì một số trong họ, như 7 anh em nhà Maccabees sẵn sàng chấp nhận cái chết chứ không ăn thịt heo mà họ coi là con vật dơ bẩn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Điều làm con người ra xấu xa tội lỗi không phải là thực phẩm, hòan cảnh, hay làm bạn với tội nhân; nhưng chính là những ước muốn và việc làm xấu của con người.
- Chúng ta không thể đánh lừa Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự trong tâm hồn, bằng những lễ nghi và lề luật hời hợt bên ngòai.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

11/02/15 THỨ TƯ TUẦN 5 TN
Đức Mẹ Lộ Đức. Ngày Quốc tế Bệnh nhân.
Mc 7,14-23

Suy niệm: Chiến tranh, khủng bố, giết người, cướp của, ly dị, phá thai,… không phải là chuyện “bên lề” hay bên ngoài đối với con người, nhưng chúng là hậu quả của lòng ham muốn của cải, quyền lực và nhục dục từ trong con người. Lòng độc dữ của con người là nguyên nhân phát sinh mọi thứ tội ác và nỗi khổ của con người. Nói cách khác, thay vì làm khởi sắc linh hồn là hình ảnh của Thiên Chúa, con người bóp méo bôi nhọ hình ảnh cao quý đó bằng các ý hướng xấu xa bên trong mình. Thiên Chúa là Đấng thấu suốt bên trong, Đấng thích tâm hồn đơn thành hơn của lễ, Ngài đòi buộc mọi người nhìn tận sâu thẳm tâm hồn để nhận diện chính mình để Ngài biến đổi con người chúng ta từ bên trong. Ngài thay đổi cuộc đời của Phê-rô bằng cái nhìn thấu suốt, khiến Phê-rô hối hận và trở lại với Chúa; làm biến đổi Gia-kêu tận bên trong khiến Gia-kêu dám từ bỏ cuộc sống tội lỗi để trở nên người lành thánh. Nếu mọi điều xấu xa xuất phát từ lòng người, thì con người cũng cần được Thiên Chúa biến đổi từ bên trong.
Mời Bạn: Nhiều người muốn làm đẹp mình bằng những mỹ phẩm thay vì tập thể dục. Cũng vậy, nhiều người chú ý đến cái đẹp bên ngoài hơn nét đẹp tâm hồn. Một tâm hồn sáng đẹp sẽ làm vui lòng Chúa và làm thế giới tốt đẹp hơn.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày dành vài phút trầm lắng trước sự hiện diện của Chúa để cầu nguyện và xét mình.
Cầu nguyện: Xin Chúa chữa lành tâm hồn con, để con có một tâm hồn thánh thiện với những ước muốn ngay lành.

Từ trái tim con người
Suy nim:
Sách Lêvi chương 11 nói đến một số cấm kỵ về ăn uống dành cho người Do thái.
Chỉ được ăn những con vật vừa có móng chẻ hai, vừa nhai lại.
Bởi đó không được ăn thịt lạc đà, thỏ, heo (Lv 11, 3-8).
Chỉ được ăn những con vật ở dưới nước nếu chúng có vây và có vẩy.
Chỉ được ăn các côn trùng có cánh đi bằng bốn chân,
nếu chúng có thêm càng để nhảy trên đất.
Bởi đó được ăn dế, châu chấu, cào cào (Lv 11, 20-23).
Nếu ai ăn những thức ăn bị cấm, người đó sẽ trở nên ô uế,
không được tham dự những nghi lễ ở nơi thờ tự.
Chúng ta không quên chuyện bảy anh em bị vua Antiôkhô ép ăn thịt heo,
và họ đã chấp nhận cái chết hơn là vi phạm luật Chúa (2 Mcb 7).
Ngày nay chúng ta ngạc nhiên về chuyện cấm đoán này,
nhưng vấn đề ăn uống đã từng là chuyện nóng bỏng trong Giáo Hội sơ khai.
Một câu hỏi đã khiến Giáo Hội phải suy nghĩ:
Sau khi trở nên Kitô hữu, dân ngoại có phải giữ những cấm kỵ trên không?
Công đồng đầu tiên chỉ cấm họ không được ăn huyết và thú chết ngạt (Cv 15, 20).
Lập trường của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay rất khác thường.
Ngài nói một nguyên tắc có vẻ như đi ngược với sách Lêvi:
Không có gì từ ngoài vào trong con người, lại có thể làm nó ra ô uế” (c.15),
Mọi thứ từ bên ngoài vào trong con người không thể làm nó ra ô uế” (c. 18).
Đối với Đức Giêsu, chính cái xấu xa từ bên trong, từ trái tim con người,
cái ấy mới làm cho con người nên ô uế. (cc. 15, 20, 23).
Con người hôm nay dễ mắc bệnh tim mạch.
Trái tim, một cơ quan nhỏ bé nằm ở bên trái lồng ngực,
thường bị căng thẳng và quá tải, dẫn đến đột quỵ.
Đức Giêsu mời chúng ta đi vào trái tim mình (c.21),
khám phá ra thế giới tối tăm ẩn khuất của nó.
Chúng ta có thể ngỡ ngàng khi thấy ở đó không có tình yêu bác ái vị tha,
mà chỉ có những tình cảm hỗn độn của lòng vị kỷ (cc. 21-22).
Đức Giêsu mời chúng ta nhận ra
những cái ô uế từ ngoài đi vào bên trong trái tim (c. 19),
và những ý định ô uế từ trong trái tim xuất ra ngoài.
Những ý định này có thể biến thành hành động hết sức nguy hiểm.
Vấn đề không phải là khám tim định kỳ hay khi thấy đau ngực.
Vấn đề là thanh lọc trái tim khỏi những đam mê tội lỗi
đang làm nó bị hư hỏng từ bên trong.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
xin dẫn con vào nhà của con,
căn nhà của trái tim,
căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy
những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co,
những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy
những nhỏ mọn, ích kỷ,
 
những yếu đuối, khô khan,
những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức
những lo âu, sợ hãi
đang đè nặng làm con ngột ngạt,
những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui,
những vết thương không biết bao giờ lành,
những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người. Amen.  
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG HAI
Âm Nhạc Phản Ảnh Mối Hòa Điệu Trong Tạo Vật
Aâm nhạc là ngôn ngữ phổ quát của mọi con người. Aâm nhạc có thể khơi trào cảm xúc sâu xa, có thể truyền đạt những tình cảm thanh cao, và có thể đánh thức mối đồng cảm đối với tâm tư của người nghệ sĩ. Loài người cần đến âm nhạc, vì âm nhạc chuyển tải chính tinh thần của người ta, nâng tâm hồn người ta lên cao, thăng hoa xúc cảm, và giúp người ta hân hoan hướng nhìn về Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói rằng – một cách nào đó – con người trở thành ‘người’ hơn và trở thành ‘Kitôhữu’hơn nhờ âm nhạc.
Khẳng định những điều nói trên, tôi cũng nghĩ đến những giá trị độc đáo khác mà âm nhạc cống hiến. Sự hài hòa của giai điệu được tạo ra do sự kết hợp của các nốt nhạc; cũng thế, âm nhạc nếu được trình tấu bởi một nhóm sẽ sản sinh ra tình liên đới, mối đồng cảm và tình hữu nghị. Aâm nhạc có thể được xem như một lời mời gọi người ta tham dự vào một công cuộc cao quí chung – công cuộc ấy sẽ thăng hoa và củng cố tình cảm.
Những điều nói trên càng được thấy rõ ràng hơn khi âm nhạc làm dâng trào niềm vui trong các dịp lễ mừng của cộng đoàn. Nhờ âm nhạc, người ta cảm nghiệm được niềm phấn khởi hân hoan, lòng sốt sắng cầu nguyện và nhiệt tâm dấn thân vào hành động. Quả thật, âm nhạc có năng lực thúc đẩy người ta phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Vì thế, trong tư cách là một nghệ thuật, âm nhạc hướng lòng người ta chiêm ngắm vẻ đẹp vốn tuôn chảy từ chính Thiên Chúa, và âm nhạc cũng là một lời mời gọi người ta cảm thụ sự hòa điệu trong tạo vật. Uớc gì tất cả chúng ta biết dùng âm nhạc để ca ngợi Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 11-02
Đức Mẹ Lộ Đức
(Ngày Quốc Tế Bệnh nhân)
St 2,4b-9.15-17; Mc 7,14-23.

LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu lại gọi đám đông tới và bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra; là cái làm cho con người ra ô-uế. Ai có tai nghe thì nghe.”
Trong Cựu Ước, khi dân phải sống chung đụng với các dân tộc khác, để tránh cho dân khỏi bị đồng hóa về văn hóa và tín ngưỡng của dân địa phương. Nên đã có Luật: “Thanh sạch và ô-uế” để giúp dân Ít-ra-en giữ vững bản chất riêng của dân tộc mình. Dân chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa; ngoài Ngài ra không có một vị thần nào khác. Nhưng rồi giới lãnh đạo trong dân quan niệm sai lạc về “Thanh Sách và Ô-uế” để rồi lên án loại bỏ nhau. Chúa Giêsu không bằng lòng về quan niệm sai lạc của họ, nên Người mời gọi mọi người nghe cho rõ thế nào là ô-uế và không ô-uế; tất cả điều này đều tùy thuộc lòng đạo đức, hay không đạo đức; và Chúa đã nói rõ: “Từ lòng con người phát xuất ra những ý định xấu như là: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng,”, để chúng ta tránh.
Lạy Chúa Giêsu, Xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn hướng về Chúa để cầu nguyện, siêng năng đọc Lời Chúa, luôn luôn biết sửa mình lại hằng ngày để sống đẹp lòng Chúa và đẹp lòng nhau. Đặc biệt trong “Ngày quốc tế bệnh nhân” Xin Chúa thương đến các thầy thuốc và các bệnh nhân, nhận được tình thương của Chúa qua nhiều người.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-02
ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC

Lộ Đức (Lourdes) là một tỉnh nhỏ khoảng 6000 dân nằm giữa thung lũng Pyrênê, gần suối Gave. Hôm ấy là ngày 11 tháng 2 năm 1858. Trời lạnh lẽo. Vào buổi trưa, Bernadetta, cô gái 14 tuổi vui tươi, thiếu ăn và quê mùa cùng với mấy người bạn đi lượm củi khô ở bờ suối Gave.
Bỗng một bà mặc đồ trắng hiện ra với cô, trên một tảng đá bao quát cả hang Massabielle. Vừa sợ lại vừa vui, cô lần chuỗi và không dám tới gần theo lời Bà mời.
Chẳng ai muốn tin cô. Bị rắc rối chính cha mẹ cô không muốn cho cô trở lại hang đá nữa. Nhưng có một sức hấp dẫn lạ kỳ nào đó. Cô trở lại hang đá. Các cuộc thị kiến vẫn tiếp diễn. Bà lạ nói chuyện và kêu gọi cầu nguyện, rước kiệu và xây dựng một đền thờ tại đây.
Các bậc khôn ngoan chống đối. Dân chúng lại xúc động. Công an thẩm vấn Bernadetta. Cô bình thản trả lời và không hề nao núng trước những lời đe dọa. Cô cũng không bị vướng mắc vào những tiểu xảo của người thẩm vấn. Các nữ tu dạy học cũng bất bình. Nhưng Bernadetta vẫn khiêm tốn lịch sự .
Ngày 25 tháng 2, một đoàn người cảm kích theo cô sau khi cầu nguyện, Bernadetta đứng dậy, ngập ngừng tiến tới gần hang đá rổi quì xuống. Theo lệnh bà lạ, cô cúi xuống lấy tay cào đất. Một dòng nước vọt lên. Cứ 24 tiếng đồng hồ là có khỏang 120.000 lít nước chảy ra.
Ông biện lý cho gọi Bernadetta tới. Ông chế giễu, tranh luận và đe dọa cô nữa. Cuối cùng ông kết luận: - Cô hứa với tôi là sẽ không tới hang đá nữa chứ ?
Nhưng Bernadetta bình tĩnh trả lời cách rõ ràng. - Thưa ông, cháu không hứa như vậy.
Cha sở lo âu, Ngài cấm các linh mục không được tới hang. Bernadetta tới gặp Ngài và nói: - Bà lạ nói: Ta muốn gặp người ta rước kiệu tới đây.
Ngài liền quở trách và gằn từng tiếng: - Con hãy nói với bà ấy rằng, đối với cha sở Lộ đức, phải nói cho rõ rệt. Bà muốn những buổi rước kiệu và một nhà nguyện à ? Trước hết bà phải cho biết tên là gì và làm một phép lạ đã chứ.
Làm xong nhiệm vụ, Bernadetta bình thản ra về.
Đã có những phép lạ nhãn tiền: một người thợ đẽo đá mù lòa đã thấy được ánh sáng, một phụ nữ bại tay sáu năm nay bình phục, báo chí công kích dữ dội và cho rằng: đó chỉ là ảo tưởng.
Nhưng dòng nước vẫn chảy thành suối. Dân chúng vẫn lũ lượt kéo nhau tới, những kẻ hoài nghi phải chùn bước. Một em bé hai tuổi bệnh hoạn đang hấp hối trước những cặp mắt thất vọng của cha mẹ. Họ nghèo lắm, bà hàng xóm đã dọn sẵn cho một một cái quách. Người cha thở dài: - Nó chết rồi.
Người mẹ chỗi dậy. Không nói một lời bào, bà ôm đứa trẻ chạy thẳng ra hang đá, dìm nó vào trong dòng nước giá lạnh. Dân chúng cho rằng bà đã điên lên vì buồn khổ. Tắm em bé trong 15 phút xong, bà ẵm em về nhà. Sáng hôm sau, em hết bệnh. Ba bác sĩ đã chứng thực chuyện lạ này.
Bernadetta vẫn giản dị vui tươi tự nhiên. Hàng ngày cô trở lại hang đá.
Ngày 25 tháng 3 cô quì cầu nguyện và khuôn mặt bỗng rỡ nên rạng rỡ. Rồi cô quay lại nói với vài người có mặt: - Bà nói: Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội
Vài phút sau, lời Đức Trinh Nữ đã được truyền từ miệng người này sang người khác. Đám đông cất cao lời cầu khẩn: - Lạy Đức Mẹ Maria chẳng hề mắc tội tổ tông, xin cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Đức Mẹ.
Bernadetta hỏi một người chị bạn thân: - Vô nhiễm thai là gì nhỉ ?
Và cũng không bao giờ cô phát âm đúng chính xác từ ngữ này.
Luôn giữ mình khiêm tốn, Bernadetta đã ẩn mình trong một tu viện. Lúc 3 giờ chiều ngày 16 tháng năm 1879, cô từ trần, được 36 tuổi.
Dòng nước ở hang Massabielle vẫn chảy. Người ta lũ lượt tuôn đến cầu nguyện và không biết bao nhiêu ơn lành Đức Mẹ đã ban cho các tâm hồn thiết tha cầu khẩn. Đức Giáo hoàng Leo XIII cho phép mừng việc Đức Mẹ hiện ra tại Lộ đức, vào ngày 11 tháng 2, để ghi nhớ 18 lần mẹ đã hiện ra với Bernadetta, kể từ ngày 11 tháng 2 tới ngày 16 tháng 7 năm 1858.
Năm 1907, Đức Piô X cho phép toàn thể Giáo hội mừng lễ này. Cùng với Giáo hội, chúng ta kính nhớ biến cố Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức và đừng quên chạy đến Mẹ là nguồn suối chảy tràn muôn ơn phúc.
(daminhvn.net)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét