Trang

Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014

19-02-2014 : THỨ TƯ TUẦN VI MÙA THƯỜNG NIÊN năm chẵn

19/02/2014
Thứ Tư sau Chúa Nhật 6 Quanh Năm

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 1, 19-27
"Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chớ đừng nghe suông".
Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em hãy biết rằng: Mọi người hãy mau nghe, nhưng đừng vội nói và vội nóng giận, vì sự nóng giận của người ta không thực hiện sự công chính của Thiên Chúa. Cho nên anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác; anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, là lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
Vì chưng, ai nghe lời mà không thực hành, thì giống như người soi mặt mình trong gương: soi rồi, ra đi, và không nhớ mình thế nào. Còn kẻ suy ngắm luật tự do hoàn hảo, và bền đỗ trong lề luật, thì không phải là kẻ nghe rồi quên, mà là nghe rồi thực hành; kẻ đó sẽ có phúc vì đã thực hành.
Nếu ai tưởng mình đạo đức mà lại không kìm hãm miệng lưỡi mình, nhưng lừa dối lòng mình, thì lòng đạo đức của nó vô giá trị. Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 5
Ðáp: Lạy Chúa, ai được cư ngụ trên núi thánh của Chúa? (c. 1b)
Xướng: 1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. - Ðáp.
2) Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.

Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 8, 22-26
"Người mù khỏi hẳn và thấy được mọi vật rõ ràng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đến Bếtsaiđa, người ta dẫn tới Chúa một người mù và xin Chúa đặt tay trên người ấy. Chúa cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng, Chúa phun nước miếng vào mắt anh và đặt tay trên anh mà hỏi: "Ngươi có thấy gì không?" Anh nhìn lên và trả lời: "Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi". Chúa lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng. Chúa Giêsu cho người ấy về nhà và căn dặn: "Ngươi hãy về nhà, và nếu có vào làng thì đừng nói với ai".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Ðôi mắt đức tin
Có một người đàn bà đạo đức nọ suốt đời chỉ có một khát vọng, đó là được thấy dung nhan Chúa trước khi chết. Một đêm kia, trong giấc mơ, Thiên Chúa cho biết Ngài sẽ đến thăm bà nội đêm mai. Thế là ngày hôm sau, người đàn bà dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa tiệc thịnh soạn để đón vị khách quí. Thế nhưng suốt buổi tối người đàn bà chờ đợi vẫn không thấy Chúa đến, bà thiếp ngủ đi trong chán nản. Bỗng có tiếng nói với bà rằng:
- Tại sao Ta đến mà con không đón tiếp Ta"
Người đàn bà giải thích cho Chúa là bà đã chờ Ngài ở trước cổng nhà. Người đàn bà ngạc nhiên khi Chúa nói là Ngài đã đến ở cửa sau.
Thế là cả ngày hôm sau, người đàn bà lại chuẩn bị với hy vọng sẽ gặp được Chúa. Ðêm đến, bà hết chạy ra cửa trước lại vào cửa sau, nhưng tuyệt nhiên vẫn không thấy Chúa. Lần này trong giấc mơ, Chúa lại hiện đến và trách người đàn bà. Ngài cho biết là Ngài đã đến qua cửa sổ. Ngài giải thích cho bà hiểu như sau:
- Nếu con chỉ muốn thấy Ta ở một nơi nào đó mà thôi, con sẽ không bao giờ có thể thấy Ta ở mọi nơi. Ta muốn cho con thấy Ta, nhưng không phải một lần trước khi con chết, mà là mỗi giây phút cuộc đời con. Và điều kiện để được thấy Ta là con hãy từ bỏ khát vọng được thấy Ta bằng con mắt xác thịt, vì con mắt ấy qua yếu ớt để có thể nhìn thấy sự vô biên của Ta. Con chỉ có thể xem thấy Ta bằng đôi mắt của quả tim mà thôi.
Con người chỉ có thể thấy Chúa bằng đôi mắt của quả tim, và đôi mắt này chính là đôi mắt đức tin mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho con người.
Tin Mừng theo thánh Marcô mà chúng ta lắng nghe hôm nay, thuật lại việc Chúa Giêsu cho một người mù được thấy. Ðặt câu truyện này vào bối cảnh cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với nhóm Biệt phái cũng như với các môn đệ, thánh Marcô muốn cho chúng ta thấy rằng đức tin tức ơn sáng mắt là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người Biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng tức trong ánh sáng riêng của họ để khước từ Chúa, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thể thấy được ý nghĩa các phép lạ của Chúa Giêsu. Chữa lành cho người mù, Chúa Giêsu vừa tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chỉ mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.
Qua phép Rửa, chúng ta nhận được ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài ban cho chúng ta chính đôi mắt của quả tim để có thể nhìn thấy Ngài trong mọi sự và trong từng phút giây cuộc sống. Ước gì chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa, để chúng ta có thể vượt thắng mọi gian nan thử thách trong cuộc sống và luôn tin vững nơi tình yêu của Chúa.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần VI TN2
Bài đọc: Jam 1:19-27; Mk 8:22-26.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần kiên nhẫn trong mọi việc.
Con người thường có khuynh hướng làm việc gì là muốn phải nhìn thấy kết quả ngay; nếu không sẽ dễ dàng chán nản và bỏ cuộc. Nhưng “dục tốc bất đạt,” làm việc gì cũng cần có thời gian, vội vã quá sẽ không mang lại kết quả mong muốn. Hơn nữa, việc càng khó, thời gian chờ đợi càng lâu. Ví dụ, để có thể tốt nghiệp đại học, con người cần ít nhất 16 năm, qua những giai đoạn: tiểu học, trung học đệ nhất cấp, đệ nhị cấp, và đại học. Mỗi giai đoạn đều phải qua một kỳ thi để chứng tỏ khả năng để tiến tới giai đoạn mới. Trong việc luyện tập các nhân đức cũng thế, con người phải kiên nhẫn với mình và với người khác; bắt đầu luyện tập bằng các việc nhỏ dễ làm, rồi tiến dần đến những nhân đức khó khăn hơn, trước khi có thể sống các nhân đức cách dễ dàng.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong đề tài phải kiên nhẫn chờ đợi trong mọi sự. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Giacôbê khuyên các tín hữu cần kiên nhẫn trong việc luyện tập các nhân đức; nhất là đức tự chủ trong việc kiềm chế miệng lưỡi của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa người mù qua hai giai đoạn. Lần đầu, anh mù chỉ thấy người ta đi đi lại lại như những cây cối. Lần thứ hai anh mới nhìn thấy tất cả rõ ràng.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
1.1/ Phải biết tự chủ con người: "Anh em thân mến của tôi, anh em nên biết rằng: mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận."
(1) Kiềm chế miệng lưỡi: là dấu chỉ của người khôn ngoan. Người thiếu khôn ngoan là người nói búa xua, nói không kịp thở, nói như sợ người khác giành nói hết. Vì nói không kịp suy nghĩ nên dễ bị bắt bẻ, khuyếch đại, nói hành người khác, và chẳng có việc nào liên quan đến việc nào. Có người cho Thiên Chúa rất khôn ngoan khi dựng nên con người có hai tai và hai mắt; nhưng chỉ có một miệng và một lưỡi. Người khôn ngoan là người biết lắng nghe và quan sát kỹ lưỡng trước khi cho người khác biết ý kiến của mình. Các Sách Khôn Ngoan cho chúng ta rất nhiều lời khuyên về việc kiềm chế miệng lưỡi để tránh những hậu quả tai hại cho mình.
(2) Kiềm chế tính nóng giận (orgê): "vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa." Chữ Hy-lạp tác-giả dùng ở đây (orgê), không phải tính nóng giận do lòng nhiệt thành khi thấy điều sai trái; mà là tính nóng giận vượt quá sự khôn ngoan của của con người nóng giận cách vô lý. Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền nóng giận với con người, thế mà Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi và ban mọi cơ hội để giúp con người ăn năn tội lội của mình.
1.2/ Thực hành Lời Chúa: Lời Chúa tự nó có tiềm năng giúp con người từ bỏ tội lỗi và tập tành nhân đức để mỗi ngày một trở nên thánh thiện hơn. Để thực hiện được những điều này, con người cần phải chuẩn bị, khiêm tốn đón nhận Lời Chúa, và đem ra thực hành. Dụ ngôn người gieo giống và 4 chỗ mà hạt giống được gieo vào giúp chúng ta thấu hiểu điều này. Vì thế, tác giả khuyên các tín hữu: "Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình." Ông đưa ra hai áp dụng cụ thể của Lời Chúa:
(1) Lời Chúa là gương soi giúp con người nhận ra tội lỗi của mình: "Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào." Như ai cũng phải soi gương mỗi ngày trước khi ra đường, chúng ta cũng phải soi gương bằng việc đọc hay lắng nghe Lời Chúa mỗi ngày để nhận ra con người thật của mình. Khi soi gương, con người không chỉ soi gương cho qua lần chiếu lệ; nhưng còn phải sửa sang sạch sẽ những gì nhơ bẩn và luộm thuộm trên thân thể của mình. Cũng vậy, chúng ta cũng không thể nghe Lời Chúa cho qua lần chiếu lệ; nhưng phải để Lời Chúa thấm nhập, xét đoán, và tinh luyện những tật xấu trong con người.
(2) Lời Chúa mang lại sự sống cho con người: Tác giả Thư Giacôbê chú trọng đặc biệt đến việc thực hành Lời Chúa; vì nếu chỉ nghe suông rồi quên mất, Lời Chúa sẽ chẳng sinh lợi ích gì cho bản thân: "Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão." Lề Luật không giới hạn tự do của con người; nhưng giúp con người nhận ra những nguy hiểm của tội lỗi và đừng làm nô lệ cho chúng. Vì thế, việc thực hành Lề Luật giúp con người tránh tội, tự do thực sự, và thành công trong mọi việc mình làm.
Tôn giáo thực thụ không chỉ hời hợt bằng các lễ nghi bên ngoài; nhưng phải sinh lợi ích cho tha nhân và cho chính mình. Yêu Chúa phải chứng tỏ qua việc yêu thương tha nhân; nhất là việc thăm viếng và giúp đỡ các "cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân" và luyện tập con người sao cho càng ngày càng tốt lành thánh thiện hơn.
2/ Phúc Âm: Chúa chữa người mù qua hai giai đoạn.
2.1/ Điểm đặc biệt của phép lạ: Phép lạ này chỉ được tường thuật bởi Marcô mà thôi. Trong các phép lạ Chúa Giêsu làm, rất ít khi Ngài dẫn bệnh nhân ra nơi khác như trình thuật hôm nay và trình thuật khi Chúa Chúa Giêsu chữa người điếc và ngọng. Tác-giả không cho biết lý do, nhưng có lẽ cho lợi ích của bệnh nhân. Người mù ở trong bóng tối lâu năm, nên rất nhạy cảm với ánh sáng. Đức Giêsu chữa anh qua hai giai đoạn:
(1) Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: "Anh có thấy gì không?" Anh ngước mắt lên và thưa: "Tôi thấy người ta, trông họ như cây cối, họ đi đi lại lại."
(2) Rồi Người lại đặt tay trên mắt anh, anh trông rõ và khỏi hẳn; anh thấy tỏ tường mọi sự.
Giống như những trình thuật khác trong Marcô, để bảo đảm “bí mật Đấng Thiên Sai,” Chúa Giêsu cho anh về nhà và dặn: "Anh đừng có vào làng."
2.2/ Hành trình đức tin trong việc nhận ra Thiên Chúa: Nếu so sánh phép lạ này với phép lạ Chúa chữa người mù từ lúc mới sinh trong Tin Mừng Gioan, chúng ta thấy có những điểm tương đồng và khác biệt: Điểm giống nhau là Chúa Giêsu lấy nước miếng trộn với đất và đem xức vào mắt người mù; điểm khác biệt là Chúa Giêsu lại đặt tay trên mắt anh trong Marcô và anh thấy rõ ràng; trong khi Chúa Giêsu sai anh mù đi rửa mắt ở Hồ Siloam trong Gioan, và sau khi rửa, anh được sáng.
Trình thuật Gioan nhấn mạnh đến sự khai mở niềm tin của người mù qua những giai đoạn khác nhau. Trong mỗi giai đoạn, anh tuyên xưng Chúa Giêsu bằng những tên khác nhau theo sự thật đầy đủ hơn: Lần thứ nhất khi được hỏi bởi hàng xóm ai đã chữa anh, anh tuyên xưng “Người tên là Giêsu.” Lần thứ hai, khi bị tra vấn bởi nhà cầm quyền, anh tuyên xưng: “Người là một tiên-tri.” Lần thứ ba, khi bị tra vấn bởi các kinh-sư, anh nói: “Người phải đến từ Thiên Chúa.” Lần cuối cùng, khi được hỏi bởi chính Chúa Giêsu, anh nhìn nhận: “Người là Đấng Thiên Sai.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thời gian chờ đợi là kẻ thù của con người. Rất nhiều người đã chán nản bỏ cuộc vì phải chờ đợi quá lâu, nhưng như lời Chúa phán: “Ai bền vững đến cùng, kẻ ấy mới được cứu thoát.”
- Để có thể thành công, chúng ta đừng vội phải nhắm ngay đích điểm, nhưng biết chia thành những giai đoạn với những đích nhỏ hơn. Người kiên nhẫn, tuy chậm, nhưng bò lâu ngày rồi cũng tới đích.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Mc 8,22-26


A. Hạt giống...
Muốn hiểu ý nghĩa phép lạ này (Chúa Giêsu chữa một người mù), ta phải đọc nó trong văn mạch những chuyện phía trước : Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mc 8,1-10), nhưng các người pharisêu chẳng những không tin vào quyền năng của Ngài mà lại còn thách Ngài làm một dấu lạ từ trời (Mc 8,11-13). Chính các môn đệ cũng không thấy được điều gì cao hơn là những miếng bánh (Mc 8,14-21). Họ đúng là những người mù không đọc ra ý nghĩa những dấu chỉ.
Người mù trong chuyện này là hình ảnh của những người không hiểu (pharisêu, các môn đệ, và chúng ta ngày nay) :
- Việc làm cho họ hiểu rất là khó. Vì thế Chúa Giêsu phải đặt tay vào mắt anh mù tới hai lần thì anh mới thấy.
- Tuy nhiên phép lạ này cũng khuyến khích chúng ta : nếu kiên trì tìm hiểu Chúa thì cuối cùng cũng sẽ thấy được Ngài : người mù ban đầu không thấy gì cả, sau khi được Chúa Giêsu sờ vào mắt thì anh thấy mờ mờ, sau khi Ngài đặt tay lần thứ hai thì anh hoàn toàn thấy rõ.

B.... nẩy mầm.
1. Ngày chúng ta được rửa tội, Linh mục cũng thay mặt Chúa nói với chúng ta "Epphata" nghĩa là hãy mở ra. Nhưng đức tin của chúng ta chỉ như một con mắt mới mở hé, cho nên phần nào đó chúng ta cũng còn giống như người mù. Hôm nay chúng ta hãy xin Chúa một lần nữa đặt tay Ngài trên mắt chúng ta, để cặp mắt đức tin của chúng ta được mở ra trọn vẹn để nhìn thấy Ngài.
2. Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận : "Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả." Vợ ông bước ra tiếp lời : "Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông". Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình. (Ernst Wilhelm Nusselein).
3. Hai ông cháu đi dạo trên hè phố. Họ đến cạnh hàng rào hoa hồng rất đẹp. Cô bé thở nhẹ nói : "Nội ơi, nội có thể ngửi những bông hồng này ? Chúng rất thơm phải không ?" Rồi hai ông cháu nghe giọng nói của một bà từ trong mái hiên vọng ra : "Cứ làm tất cả những gì các bạn muốn".
            Hai ông cháu ngắt một bông hoa rồi cám ơn bà và khen luống hoa thật đẹp. Bà nói : "Tôi trồng những bông hồng này mục đích là để những người khác được hạnh phúc. Tôi không thấy họ. Tôi mù" (Góp nhặt)
4. "Chúa Giêsu và các môn đệ đến Bétsaiđa. Người ta dẫn một người mù và xin Chúa Giêsu sờ vào anh ta… Người đặt tay trên mắt anh, anh trông rõ và khỏi hẳn" (Mc 8,22-25)
Tối 14-12-1995, hàng triệu người Việt nam hồi hộp đón xem trận đấu giữa Việt Nam và Mianma để tranh vào vòng chung kết Cúp vô địch Bóng đá Sea Games 18. Khoảng 22g30, đội tuyển VN đã làm nên một giây phút lịch sử khi ghi được tỉ số 2-1, thắng đội Mianma. Ngay lập tức, hàng vạn thanh niên thành phố đã tràn xuống đường trong niềm vui sướng tột độ. Họ diễn hành thành từng đoàn, cùng hô vang những khẩu hiệu "Việt nam vô địch. Việt nam chiến thắng".
Sài gòn một đêm tuyệt vời, một đêm không ngủ. Tuyệt vời vì những con người vốn xa lạ bỗng trở nên gần gũi thân quen. Muôn người như một hiệp nhất trong niềm vui. Hạnh phúc tưởng đâu xa, hóa ra thật gần khi con người yêu thương nhau.
Vậy mà đôi mắt con, vì bị che khuất bởi những tham vọng, bởi lòng hẹp hòi ích kỷ nên đã không nhận ra được hạnh phúc quanh mình.
Lạy Chúa, xin cho con có cái nhìn bao dung để có thể nhận ra những cái hay cái tốt nơi kẻ khác và cùng họ xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

19/02/14 THỨ TƯ TUẦN 6 TN
Mc 8,22-26

CUỘC SỐNG CÓ THẦY GIÊSU
Người lại đặt tay trên mắt anh ta, anh trông rõ và khỏi hẳn: anh thấy tỏ tường mọi sự. (Mc 8,25)

Suy niệm: Anh mù ở Bétxaiđa từ chỗ ở xa Chúa Giêsu, không thấy cũng không biết Chúa, nay được dẫn đến gần Ngài. Chúa còn muốn anh gần gụi với Ngài hơn nữa. Ngài nắm lấy tay anh, dắt anh ra khỏi làng. Ngài lại đụng chạm đến anh, lấy nước miếng của Ngài xức mắt anh. Chưa hết, Ngài hỏi anh hai câu, anh trả lời hai lần. Anh tin và anh được sáng: từ chỗ thấy người ta như cây cối đi đi lại lại, tới chỗ anh thấy tỏ tường mọi sự. Chúa nói anh đừng trở vào làng nữa. Tại sao? Để anh ở lại gần hơn với Ngài, Đấng đã chữa lành anh. Thầy Giêsu ở đó trước mắt anh. Anh đã rất gần Chúa, bằng xương bằng thịt; anh đã thấy Chúa rõ ràng. Cuộc sống của anh giờ đây có Thầy Giêsu.
Bạn ơi, cuộc sống bạn có Thầy Giêsu, bạn còn lo lắng chi? Hằng ngày, bạn vẫn nhìn thấy người ta, thấy mọi sự, nhưng đôi khi bạn vội vã để mọi việc lướt đi quá nhanh trước mắt mình, nên không kịp nhìn thấy tỏ tường. Nhất là bạn không nhận ra Thầy Giêsu vẫn ở gần bạn, không nhận ra tha nhân ở chung quanh bạn. Xin Thầy Giêsu ở với bạn, với tôi để chúng ta nhìn thấy nhau và nhìn nhau bằng con mắt của Ngài.
Chia sẻ: Có khi nào bạn cảm nhận Thầy đặt tay trên bạn chưa?
Sống Lời Chúa: Đọc lại đoạn Tin Mừng này vài lần và để nghe Chúa nói và cảm nhận Thầy Giêsu đang hiện diện bên cạnh mình.
Cầu nguyện: Thầy Giêsu ơi! xin cho chúng con luôn xác tín rằng: có Thầy con có thể làm được mọi sự. Xin xen vào đời sống của con, đứng giữa con và mọi việc, giúp con nhìn thấy rõ ràng Thầy đang ở với con và trong anh em con.

Anh có thấy gì không?
“Anh có thấy gì không?” Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi chúng ta như vậy. Hãy để Ngài chạm đến sự mù lòa của ta để ta được sáng mắt. 


Suy nim:
Trong phong trào hướng đạo có ngành Ấu.
Các em thuộc ngành này được gọi là sói con.
Các em sói con qua hai giai đoạn huấn luyện: mở một mắt, rồi mở hai mắt.
Sau khi được mở hai mắt, các em đã tiến bộ về kỹ năng hơn trước nhiều.
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Thầy Giêsu đã phàn nàn về sự mù lòa của môn đệ:
“Anh em có mắt mà không thấy sao?” (Mc 8, 18).
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu chữa anh mù ở vùng Bếtsaiđa.
Chuyện này có một số nét giống chuyện Chúa chữa người câm điếc (Mc 7, 31-37).
Cả hai anh đều được người ta đem đến cho Đức Giêsu và xin Ngài đụng đến.
Cả hai anh đều được dẫn đến một nơi riêng và được chữa lành bằng bôi nước miếng.
Chỉ mình Máccô kể lại hai câu chuyện lý thú trên.
Đức Giêsu đã không chữa người mù khỏi ngay lập tức.
Ngài phải chữa lần thứ hai anh mới thấy rõ hẳn.
Đây là chuyện lạ, vì nơi các sách Tin Mừng, chẳng bao giờ có chuyện như thế.
Đặc biệt nơi Tin Mừng Máccô, mọi sự đều xảy ra rất nhanh.
Trong chương 1, có 8 từ lập tức (euthus) ở các câu 12, 18, 20, 23, 28, 29, 30, 42.
Sau khi được Đức Giêsu bôi nước miếng trên mắt và đặt tay lần đầu
anh mù mới chỉ thấy lờ mờ, thấy người ta như những cái cây biết đi (c. 24).
Sau khi được Đức Giêsu đặt tay lần thứ hai trên mắt
anh mới thấy tỏ tường mọi sự (c. 25).
Đức Giêsu phải chữa đến hai lần, chắc không phải vì trường hợp này khó hơn.
Nhưng vì chuyện anh mù được sáng mắt ở đây
tượng trưng cho hành trình mở mắt đức tin của các môn đệ.
Họ sẽ phải đi từng bước một để nhận ra con người của Thầy Giêsu.
Lúc đầu họ chỉ thấy một phần con người Ngài, thấy không rõ như anh mù.
Phải đợi sau này, khi Thầy Giêsu được phục sinh, họ mới thấy Ngài trọn vẹn.
Anh có thấy gì không?
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi chúng ta như vậy.
Hãy để tay Ngài nắm lấy tay ta mà dắt vào chỗ riêng tư kín đáo.
Hãy để Ngài chạm đến sự mù lòa của ta để ta được sáng mắt,
nhờ đó ta thấy được Ngài, thấy được sự thật về mình và về tha nhân.
Nhưng ta cũng cần kiên nhẫn vì con đường giác ngộ là con đường dài.
Chỉ mong hôm nay tôi sáng hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.
Cầu nguyn:

Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Suy niệm

Phó thác

Có thể nói rằng người mù trong bài tin mừng hôm nay là một người may mắn. Anh là người may mắn vì anh đã gặp Chúa Giêsu, được Ngài đặt tay và được sáng mắt. Để được trở nên một người có đôi mắt sáng bình thường như thế, trước hết và trên hết, anh ta phải là người có đức tin mạnh mẽ. Với đức tin, anh ta đã để cho Chúa Giêsu làm bất cứ điều gì Ngài muốn, và rồi anh đã được sống trong hạnh phúc.

Cuộc đời nơi trần gian là một cuộc hành trình với nhiều thăng trầm thử thách gian nguy vất vả. Có vui có buồn và rất nhiều lúc tôi cảm thấy mình bị giống như người mù vì những khủng hoảng và bế tắc trong cuộc đời.

Bài tin mừng hôm nay rất ý nghĩa đối với tôi. Khi gặp khủng hoảng bế tắc, tôi đến với Chúa, gặp Chúa và phó thác mọi sự cho Chúa như người mù. Có Chúa và nhờ ơn Chúa, chắc chắn tôi sẽ vượt qua tất cả và sống trong bình an hạnh phúc.

Lạy Chúa, trước những khó khăn thử thách và những vui buồn trong cuộc đời, xin cho con biết đến với Chúa và tin tưởng và phó thác vào Chúa trong mọi sự. Amen.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG HAI
Khám Phá Tận Sâu Thẳm Con Người Mình
Làm thế nào chúng ta có thể hoán cải, trở về với Thiên Chúa? Hoán cải bắt đầu bằng việc nhìn lại nội tâm mình và lắng đọng tâm hồn trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Rồi, trái tim và lương tâm bạn có thể bắt đầu sực tỉnh.
“Hãy vào phòng, đóng kín cửa lại”, Đức Giêsu đã dạy chúng ta như thế (Mt 6, 6). Hoán cải trở về với Thiên Chúa – điều đó không thể xảy ra giữa những xao động chộn rộn của lòng trí. Cần phải hồi tâm và qui hướng về Chúa. Chúng ta phải khám phá ra con người thật của mình ở mức độ cao nhất và sâu xa nhất.
Tại sao phải khám phá ra con người thật, cao nhất và sâu xa nhất? Bởi vì sự nhận hiểu này về con người có liên hệ với thế giới tạo vật. Trong tương quan với tất cả tạo vật chung quanh mình, con người là chủ. Con người được kêu gọi làm chủ mọi vật và thống trị trái đất. Đây là mệnh lệnh đầu tiên mà con người nhận được từ Đấng Tạo Hóa.
Thiên Chúa không chỉ trao cho con người địa vị thống trị tạo vật, Ngài còn định hình con người theo chính hữu thể Ngài. Vì con người cũng là tinh thần, nên con người có thể đạt đến tầm mức mà mọi tạo vật khác không thể đạt đến được. Bản tính căn bản của con người – vừa tinh thần vừa thể xác – không cho phép con người tìm kiếm ý nghĩa cuối cùng duy chỉ nơi những gì là vật chất.
Khát vọng thâm sâu nhất của con người không thể được lấp đầy bởi thế giới vật chất hữu hình này. Con người cũng không thể gặp được hạnh phúc sâu xa đích thực ngay cả nơi việc chinh phục tạo vật và nơi việc tăng triển khả năng khám phá và sáng tạo của mình. Đức Giêsu đã nêu dấu hỏi: “Được cả thế gian thì ích gì?” (Mt 16, 26). Không, con người không thể lấp đầy khát vọng của mình bằng con đường ấy.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 19-02
Gc 1, 19-27; Mc 8, 22-26.

LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu và các môn đệ đến Bết-xai-đa. Người ta dẫn một người mù đến và nài xin Đức Giêsu sờ vào anh ta.”
Trong câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù tại Bết-xai-đa có một sự đặc biệt là Chúa cầm lấy tay anh ta và đưa ra khỏi làng, đặt tay trên anh đến hai lần, lần đầu anh chỉ thấy lờ mờ, lần sau anh ta mới thấy tỏ tường. Trong đời sống thiêng liêng của mỗi con người, cần phải biết tìm kiếm Chúa, đến gần Chúa, nghe Lời Chúa và trả lời với Chúa. Khi đó, Chúa Thánh Thần cũng sẽ khai mở từ từ để chúng ta hiểu rõ về Thiên Chúa và thờ phượng Ngài một cách xứng hợp.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con đang có nhiều cái mù về chính mình, về tha nhân, về Giáo Hội và về Chúa. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết đến với các lớp giáo lý và Kinh Thánh để chúng con nhìn thấy rõ hơn.
Mạnh Phương


19 Tháng Hai
Thiên Chúa Quan Phòng
Người Do Thái thường nói đến sự Quan Phòng của Thiên Chúa bằng mẩu chuyện như sau: Có hai người bộ hành đi lên đường đi đến một phương xa. Họ dùng một con lừa để chuyên chở hành lý. Ðể cho con lừa có bạn, họ mang theo một chú gà cồ. Và đêm đến họ đốt đuốc để soi đường.
Một người bộ hành là một tín hữu rất đạo đức. Trên miệng ông lúc nào cũng có câu nói: "Thiên Chúa là Ðấng tốt lành trong tất cả mọi sự". Người bạn đồng hành của ông thì lại là một người rất cứng lòng tin. Ông rất bực mình mỗi khi ông nghe người bạn ông thốt lên những lời ca tụng lòng thiện hảo của Thiên Chúa. Lên đường chừng vài phút đồng hồ, ông đã cảnh cáo người bạn có lòng tin như sau: "Rồi đây anh sẽ thấy anh tin Chúa đến độ nào".
Trước khi mặt trời lặn, họ đến một ngôi làng nhỏ. Họ tìm một nơi để qua đêm. Họ gõ cửa khắp nơi, nhưng không có ai đón tiếp họ. Cuối cùng họ đành phải ra khỏi làng và tìm đến bìa rừng để qua đêm. Trong cảnh màn trời chiếu đất, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: "Nào, Chúa của anh có tốt không?". Người bạn đồng hành luôn tin tưởng ở Chúa quan phòng bình tĩnh đáp lại: "Ðây là chỗ tốt nhất Chúa dành cho chúng ta ngủ qua đêm này". Ðêm đó, họ nằm ngủ dưới một gốc cây lớn nằm sát bìa rừng. Họ cột chú lừa vào một gốc cây gần đó. Họ chưa kịp đốt lên ngọn đuốc thì một tiếng mạnh từ xa vang lại. Thì ra, chỉ trong chớp nhoáng, một chú sư tử đã đến cắn xé con lừa và mang đi. Vừa thương tiếc cho chú lừa, vừa lo sợ cho thân phận của mình, hai người bộ hành chỉ còn biết leo lên cây để tránh tai họa.
Vừa tức giận, vừa mỉa mai, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: "Nào, Chúa của anh còn tốt nữa không?". Người tín hữu ngoan đạo dõng dạc tuyên bố: "Nếu con sư tử không bắt gặp con lừa trước, thì chắc chắn nó đã bổ nhào trên chúng ta rồi. Chúa là Ðấng tốt lành".
Một vài phút sau, con gà cồ bỗng kêu la thất thanh. Hai người bộ hành mới trèo cao hơn. Họ nhận ra con gà cồ đang nằm trong nanh vuốt của một chú mèo rừng. Người bạn cứng lòng tin chưa kịp thốt ra một lời cay đắng nào, thì người tín hữu ngoan đạo đã chúc tụng như sau: "Tiếng kêu thất thanh của con gà cồ lại một lần nữa giúp chúng ta thoát nguy hiểm. Cám ơn Chúa là Ðấng tốt lành".
Họa vô đơn chí. Chỉ vài phút sau đó, một cơn gió mạnh ùa đến, ngọn đuốc bỗng tắt ngụm đưa hai người vào trong cảnh tối tăm ghê rợn. Lần này con người cứng lòng tin lại lên tiếng mỉa mai như sau: "Xem chừng như Chúa của anh làm việc phụ trội trong đêm nay". Lần này, người tín hữu ngoan đạo chỉ biết giữ thing lặng.
Sáng hôm sau, hai người mon men trở lại làng để mua thức ăn. Họ mới hay biết rằng đêm hôm đó một băng cướp đã vào làng và họ đã vơ vét tất cả tài sản của dân làng. Nhìn cảnh tượng hoang tàn của ngôi làng và nhìn lại sự toàn vẹn của mình, người tín hữu ngoan đạo mới đắc thắng giải thích cho người bạn như sau: "Anh đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Giá như đêm hôm qua, chúng ta thuê được một chỗ trọ trong làng, thì có lẽ chúng ta cũng không thoát khỏi tay của bọn cướp. Nếu cơn gió lớn không làm tắt ngọn đuốc của chúng ta, thì hẳn bọn chúng đã nhìn thấy chúng ta. Bạn thấy chưa, trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa là Ðấng thiện hảo".
Tin ở Thiên Chúa quan phòng không có nghĩa là bảo rằng tất cả mọi tai họa rủi ro xảy đến trong cuộc sống đều do Chúa gửi đến, nhưng có nghĩa là, khi đứng trước một bất hạnh mà mình không thể tránh khỏi, chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa thiện hảo và quyền năng đến độ có thể biến sự bất hạnh ấy thành khởi điểm của một hồng ân cao cả hơn.
Trong ánh sáng Phục Sinh của Ðức Kitô, chúng ta được mời gọi để nhìn vào biến cố trong cuộc sống bằng cái nhìn lạc quan và tin tưởng ấy. Cái chết ô nhục của Ðức Kitô trên thập giá quả là một bất hạnh và là một tội ác, nhưng Thiên Chúa quyền năng và yêu thương đã biến thành khởi điểm của nguồn ơn cứu thoát.
Giữa muôn nghìn thử thách và đớn đau của cuộc sống, chúng ta hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa đang dành cho chúng ta một ân huệ cao cả hơn ngoài sự chờ đợi của chúng ta. Chúng ta hãy xưng tụng tình yêu quan phòng của Ngài.
(Lẽ Sống)

Thánh Conrad ở Piacenza

(1290 - 1350)  
Conrad đến một nơi hoang vắng ở Sicily và sống ẩn dật ở đây trong 36 năm, cầu nguyện cho chính mình cũng như cho thế gian. Sự cầu nguyện và ăn năn đền tội là cách ông đáp trả với những cám dỗ cản trở ông nên thánh. Ông từ trần khi còn quỳ gối trước tượng thánh giá.  
Sinh trong một gia đình giầu có thuộc miền bắc nước Ý, Conrad kết hôn với Euphrosyne, con gái của một người quý phái.
Một ngày kia, trong khi đi săn Conrad ra lệnh đốt một số bụi rậm để lùa thú ra ngoài. Lửa cháy lan ra cánh đồng kế cận và thiêu hủy cả một cánh rừng. Một nông dân vô tội bị cầm tù, bị đánh đập ép phải nhận tội và bị kết án tử hình. Tuy nhiên Conrad đã ra thú tội, cứu mạng người nông dân ấy và ông phải bồi thường thiệt hại.
Sau biến cố ấy không lâu, Conrad và vợ đồng ý ly thân: bà gia nhập tu viện Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn và ông đến với một nhóm người sống ẩn dật theo quy luật Dòng Ba Phanxicô. Tuy nhiên, không bao lâu, sự thánh thiện nổi tiếng của ông lan tràn. Vì sự cô quạnh bị khuấy động bởi các khách thăm viếng, Conrad di chuyển đến một nơi hoang vắng ở Sicily và ông sống ẩn dật ở đây trong 36 năm, cầu nguyện cho chính mình cũng như cho thế gian.
Sự cầu nguyện và ăn năn đền tội là cách ông đáp trả với những cám dỗ cản trở ông nên thánh. Ông từ trần khi còn quỳ gối trước tượng thánh giá. Ông được phong thánh năm 1625.
Lời Bàn
Thánh Phanxicô Assisi vừa quý trọng sự chiêm niệm vừa yêu quý đời sống rao giảng; giai đoạn cầu nguyện mãnh liệt là để nuôi dưỡng sức mạnh rao giảng. Tuy nhiên, một số môn đệ đầu tiên của ngài cảm thấy được mời gọi đến đời sống chiêm niệm, và ngài chấp nhận điều đó. Mặc dù đời sống Thánh Conrad ở Piacenza không phải là một quy tắc trong Giáo Hội, nhưng ngài và các vị chiêm niệm khác nhắc nhở chúng ta về sự vĩ đại của Thiên Chúa và niềm vui của thiên đàng.
Lời Trích
Trong Huấn Thị về Ðời Sống Chiêm Niệm, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI có viết như sau: "Rút lui vào nơi vắng vẻ là để người Kitô kết hợp chính mình một cách mật thiết với sự thống khổ của Ðức Kitô, và trong một phương cách đặc biệt, giúp họ chia sẻ mầu nhiệm vượt qua và hành trình của Ðức Kitô từ trần thế đến quê trời" (#1).
Suy niệm hạnh Thánh Conrad Piacenza 
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét