28/06/2020
Chúa Nhật 13 Thường
Niên năm A
(phần II)
Phụng vụ Lời
Chúa: Chúa nhật 13 Thường niên năm A
(2V 4,8-11,
14-16a; Rm 6,3-4.8-11; Mt 10,37-42)
ĐƯỢC VÀ MẤT KHI THEO CHÚA
“Ai không
vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,38)
Theo Đức Kitô để làm
môn đệ của Người đòi hỏi người ta phải từ bỏ nhiều thứ, nhưng lại được nhiều điều
khác quý giá hơn. Làm môn đệ của Đức Giêsu là đặt Người trên hết mọi sự, qua việc
sẵn sàng từ bỏ nghề nghiệp, tài sản, nếp sống cũ, từ bỏ cả những người thân
yêu, và đến mức phải từ bỏ cả mạng sống mình vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng. Tuy
nhiên người môn đệ lại được phần thưởng ngay cả ở đời này, và nhất là được sự sống
đời đời làm gia nghiệp.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1 (2V 4,8-11,
14-16a)
Bài đọc I trích Sách
Các Vua quyển thứ hai cho thấy Ngôn Sứ Êlisa, trong khi đi thi hành sứ mạng
Chúa trao phó, đã được gia đình một phụ nữ sang trọng ở thành Sunam tiếp đón nồng
hậu, vì bà nhận ra Êlisa là một vị Ngôn Sứ và là vị thánh của Thiên Chúa. Bà đã
quảng đại khi quyết định: “Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên sân thượng,
rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế,
khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó” (2V 4,9-10).
Vị Ngôn Sứ đã từ bỏ đời
sống riêng của mình để làm việc Chúa, lại được sống trong sự quan phòng của
Thiên Chúa. Ông bỏ gia đình bà con thân thuộc, nhưng đi đến đâu, ông lại được
nhiều người coi như người nhà của mình. Ông không mang theo gì, nhưng đi đến
đâu, ông lại được tiếp đón nồng hậu khi họ biết ông là người làm việc cho Chúa.
Cái ông có thể đem cho người khác là niềm vui xuất phát từ Thiên Chúa. Khi biết
vợ chồng bà tủi nhục vì đã già rồi mà chưa có con, Êlisa đã khẩn cầu cùng Chúa
ban cho gia đình bà một người con trai nối dòng: “vào thời kỳ này, vào độ này
sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng” (2V 4,16).
Về phần người phụ nữ,
bà đã đón tiếp vị Ngôn Sứ vô vị lợi, nhưng qua đó bà đã góp phần vào sứ vụ của
vị Ngôn Sứ, vì “kẻ nào đón tiếp một Ngôn Sứ với danh nghĩa là Ngôn Sứ, thì sẽ
lãnh phần thưởng của Ngôn Sứ” (Mt 10,42). Ở đây, phần thưởng mà bà
nhận được đó là niềm vui khi được Chúa ban cho người con trai nối dòng, niềm
vui được cất nỗi nhục khỏi ánh mắt người đời.
2. Bài đọc 2 (Rm 6,3‒4.
8-11)
Bài đọc 2 trích thư gửi
tín hữu Rôma diễn tả việc đòi hỏi từ bỏ và hy sinh khi theo Chúa. Thánh Phaolô
cho biết rằng nhờ được chịu Phép Rửa, các Kitô hữu đã cùng chịu đau khổ với Đức
Kitô: “Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập
giá với Ðức Kitô”. Đây chính là một cuộc từ bỏ, là cái mất. Nhờ đó, các Kitô hữu
đạt được hệ quả thật to lớn: “con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để
chúng ta không còn làm nô lệ cho tội nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi
quyền của tội lỗi”. Đó là cái được, cái lợi khi theo Đức Giêsu. Như vậy, chịu
Phép Rửa để trở thành Kitô hữu là chấp nhận bước vào một cuộc từ bỏ và sẵn sàng
chịu đau khổ. Tuy nhiên, nhờ liên kết với sự đau khổ và cái chết của Đức Giêsu
Kitô, mà Đức Kitô đã sống lại, nên các tín hữu đã đón nhận một phần thưởng xứng
đáng, đó là có được tình trạng mới và đời sống mới trong Đức Giêsu Kitô.
3. Bài Tin Mừng (Mt 10,37-42)
Bài Tin Mừng hôm này
được đặt trong bối cảnh Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ quyền trừ quỷ và chữa hết
các bệnh hoạn tật nguyền (Mt 10,1-4), rồi sai các ông đi rao giảng.
Trước khi sai đi, Đức Giêsu đã dạy các ông những điều cần thiết về tư cách người
môn đệ (Mt 10,5b-15). Kế đến, Đức Giêsu nói về những cuộc bách hại
mà người môn đệ sẽ gặp phải, những khó khăn từ nhiều phía, ngay cả từ trong gia
đình, nhưng các ông phải đón nhận (Mt 10,16-23), vì cả Thầy lẫn trò
đều bị như thế (Mt 10,24-25). Đó là những cái mất, những thiệt
thòi. Tuy nhiên, các ông cũng có nhiều cái được khi theo
Chúa.
Về phía mất:
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ơn gọi làm môn đệ đòi hỏi những điều kiện khắt
khe, đôi lúc phải trả giá đắt, phải mất nhiều thứ. Có khi phải mất những
tương quan nhân loại, ngay cả tương quan cao quý nhất như gia đình ruột thịt. Nếu
những điều đó ngăn cản sống đức tin, cản trở ơn gọi làm môn đệ Chúa, thì cũng
phải từ bỏ. Đức Giêsu đề cao sự từ bỏ triệt để như thế nhằm nhấn mạnh đến tính
cấp bách và ưu tiên cho Nước Trời hơn những thứ khác.
Với bản thân, có một sự
“đối nghịch tương ứng” đáng kể theo cách của con người và cách Đức Giêsu đề nghị.
Ai tự khẳng định mình, tự tìm cách để vun quén cho cuộc sống
hiện tại, đề cao bản thân với bất cứ giá nào thì sẽ mất cuộc sống
đời đời. Ngược lại, ai chịu mất mạng sống mình ở đời này, dành
cuộc sống mình để phục vụ Thiên Chúa, đặt Nước Trời làm ưu tiên trên mọi thứ
tương quan và giá trị khác, ngay cả bản thân mình, sẽ là những người tìm được hay đạt
được sự sống đời đời.
Về phía được:
Ngoài việc đạt được sự sống đời đời, Đức Giêsu cho biết nếu có
mất bản thân mình, thì họ lại được tha nhân, được Chúa,
và được phần thưởng dành cho bậc Ngôn Sứ, hay dành cho người
công chính, cũng như dành cho người loan báo Tin Mừng vì đã đón tiếp và giúp đỡ
họ, dù chỉ là một chén nước lã thôi. Nếu triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre
nói: “L’enfer c’est les autres - Tha nhân là hỏa ngục”, thì ở đây Đức
Giêsu lại cho thấy “Tha nhân là thiên đàng”, vì “tha nhân là hiện thân của
Chúa”, nên qua tha nhân chúng ta gặp được Chúa và nhờ tha nhân mà chúng ta được
vào Nước Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay
cũng cho thấy rằng Tin Mừng phải được loan báo, và ai cộng tác với sứ vụ này với
bất kỳ hình thức nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều góp phần của riêng mình
vào đó và đáng nhận được phần thưởng Nước Trời mà Chúa sẽ ban.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Người phụ nữ thành
Sunêm đã đón tiếp và giúp đỡ Ngôn Sứ Êlisa vô vị lợi dựa theo những gì bà có,
nhưng bà đã góp phần vào sứ vụ của vị Ngôn Sứ. Nhờ đó, bà cũng bất ngờ nhận được
phần thưởng to lớn, đó là niềm vui khi được vị Ngôn Sứ xin Chúa ban cho bà người
con trai để cất nỗi nhục khỏi ánh mắt người đời. Tôi có ý thức tìm cách cộng
tác với những người lo việc Chúa, về mặt tinh thần cũng như vật chất? Khi giúp
đỡ như thế, tôi có tính toán vụ lợi, hay làm một cách vô tư rồi để Chúa ân thưởng
xứng đáng?
2. Qua Phép Rửa, tôi
đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô. Để được trỗi dậy với Đức
Giêsu Phục Sinh, tôi có sẵn sàng đón nhận những rủi ro, những thiệt thòi, mất
mát thậm chí đau khổ với Đức Giêsu chịu đóng đinh hay không?
3. Đức Giêsu đưa ra một
điều kiện rất khắt khe đối với những người muốn bước theo Người. Tôi có ý thức rằng
đi theo Chúa thì phải mất nhiều thứ: có khi phải mất những tương quan nhân loại,
kể cả gia đình ruột thịt, nếu những điều đó ngăn cản sống đức tin? Đi theo Chúa
thì phải gặp nhiều khó khăn thiệt thòi, chịu những cuộc bách hại, thậm chí mất
mạng sống? Ngược lại, tôi có biết rằng đi theo Chúa cũng được nhiều thứ: được
thêm tha nhân, được Chúa, được phần thưởng cả ở đời này và nhất là đạt được sự
sống vĩnh cửu đời sau?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa hứa ban phần thưởng
lớn lao là sự sống đời đời cho những ai sẵn sàng từ bỏ mình để sống cho Chúa và
tha nhân. Tin tưởng vào lời Chúa hứa và với quyết tâm trở nên môn đệ đích thực
của Đức Kitô, cộng đoàn chúng ta cùng khiêm tốn dâng lời nguyện xin:
1. Người phụ nữ thành
Sunam đã góp phần vào sứ vụ của ngôn sứ Êlisê cách vô vị lợi. Chúng ta cùng cầu
nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn nhận
được sự cảm thông và cộng tác từ mọi thành phần dân Chúa.
2. “Ai đón tiếp anh em
là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” Chúng ta
cùng cầu nguyện cho các dân tộc chưa tin nhận Thiên Chúa biết mở lòng đón tiếp
các sứ giả Tin mừng, hầu được đón nhận hồng ân cứu độ Chúa trao ban.
3. ”Ai liều mất mạng
sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những
người sống đời thánh hiến luôn ý thức mình thuộc về Chúa và là chứng nhân của
Người, để không ngừng sống đời từ bỏ và trung thành theo Chúa đến cùng.
4. Mọi hành động bác
ái dành cho tha nhân đều được Chúa ghi nhận. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người
trong cộng đoàn chúng ta biết nỗ lực sống giới răn yêu thương trong gia đình và
lối xóm, luôn sẵn sàng tiếp đón và giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, xin thương chúc
lành cho những ý nguyện của cộng đoàn chúng con, để nhờ ơn Chúa giúp, chúng con
luôn sống xứng đáng với danh xưng Kitô hữu của mình. Chúng con cầu xin nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/phung-vu-loi-chua-chua-nhat-13-thuong-nien-nam-a-48330
Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 13 TN Năm A
CHIA SẺ
THÂN PHẬN CỦA ĐỨC KITÔ –
THÁI ĐỘ
TIẾP ĐÓN
“Ai cho một trong những kẻ bé
mọn dù chỉ một ly nước lã,
người đó sẽ không mất phần
thưởng đâu” (Mt 10,42)
– Bài đọc I (2V
4,8-11.14-18) : “Người đến trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa”
– Đáp ca (Tv
88) : “Tôi sẽ ca ngợi tình thương Chúa đến muôn đời”
– Tin Mừng (Mt
10,37-42) : “Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được
nó” – “Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy”
– Bài đọc 2 (Rm
6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ) : “Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ
cùng sống với Ngài”.
Sợi chỉ đỏ :
Lời Chúa hôm nay có
hai chủ đề :
1.
Chủ đề tiếp
đón : được diễn tả qua chuyện một gia đình miền Sunam cho ngôn sứ Êlisê đến
trọ tại nhà (Bài đọc I), và phần thứ hai của bài Tin Mừng : “Kẻ nào tiếp
đón các con là tiếp đón Thầy”
2.
Chủ đề chia sẻ thân
phận của Đức Giêsu : được diễn tả qua phần đầu của bài Tin Mừng : “Kẻ
nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó”, và bài đọc
II : “Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài”.
– (Nếu chọn chủ đề
I) : Anh chị em thân mến
Trong xã hội thời nay,
người ta thường sống theo kiểu chủ nghĩa cá nhân : mạnh ai nấy lo, sống chết
mặc bây, đèn nhà ai nhà nấy sáng. Kết quả của lối sống này là một xã hội thiếu
vắng tình thương, ích kỷ, thờ ơ.
Trong Thánh lễ này,
chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta biết quan tâm tới người khác, yêu
thương người khác và tiếp đón người khác như tiếp đón chính Chúa.
– (Nếu chọn chủ đề
II) : Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay trình
bày một nghịch lý : “Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất ; Kẻ nào
đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó”.
Trong Thánh lễ này,
chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu được chân lý lạ lùng đó, và nhất là
dám liều mạng sống vì Chúa, để được chia sẻ sự sống của chính Chúa.
– Chúng ta rất thờ ơ với
những anh chị em sống chung quanh chúng ta.
– Chúng ta coi thường
những người nghèo nàn, thất học và không có địa vị.
– Chúng ta ít khi hy
sinh vì Chúa.
1. Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18)
Tường thuật câu chuyện
giữa ngôn sứ Êlisê và một phụ nữ xứ Sunam :
– Trên đường sứ mạng,
ngày kia Eâlisê đến vùng Sunam
– Ở đấy, một phụ nữ đã
mời Ông vào nhà dùng bữa. Sau đó bà còn nói với chồng mình rằng Eâlisê là một vị
thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà còn dọn sẵn cho Eâlisê một
căn phòng có đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào ngôn sứ cũng có thể
đến trú ngụ.
– Đáp lại lòng tốt của
vợ chồng này, ngôn sứ Eâlisê đã làm phép lạ giúp họ đang son sẻ mà có được một
đứa con trai đầu lòng. (Sau này đứa con ấy chết, Eâlisê lại làm phép lạ cho nó
sống lại).
Tv này ca ngợi tình
thương của Chúa. Tác giả còn nguyện sẽ ca ngợi như thế mãi tới muôn đời.
Có thể chia đoạn Tin Mừng
này thành 2 phần :
– Phần đầu (các câu
37-39) Đức Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ : Nếu muốn làm môn đệ xứng
đáng của Ngài thì phải từ bỏ rất nhiều : tình yêu gia đình, mạng sống ;
và còn phải sẵn sàng vác thập giá mình mà đi theo Ngài.
– Phần sau (các câu
40-42) dạy về sự tiếp đón : ai tiếp đón các sứ giả Tin Mừng thì được coi
như là tiếp đón chính Đức Giêsu, thậm chí là tiếp đón chính Thiên Chúa là Đấng
đã sai Đức Giêsu đến ; ai tiếp đón một kẻ bé mọn thì cũng được phần thưởng.
4. Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ)
Văn mạch : Phaolô
đang đưa ra những lập luận để chứng minh rằng người ta được công chính hóa không
phải nhờ việc làm, mà nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Đoạn tuần trước là lập luận
thứ nhất : con người đã mất ơn nghĩa với Thiên Chúa do tội của Adam, nhưng
con người lại được ơn nghĩa nhờ cái chết của Đức Giêsu Kitô. Cho nên muốn được
ơn nghĩa thì phải tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đoạn tuần này đưa ra lập
luận thứ hai : muốn được ơn nghĩa với Thiên Chúa thì phải liên kết với Đức
Giêsu bằng phép rửa :
– Chịu phép rửa nghĩa
là cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
– Như thế, kẻ đã lãnh
nhận phép rửa hãy dứt khoác chết cho tội lỗi để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa.
1. Những nét đẹp của sự Tiếp đón
Thánh Kinh ghi lại những
cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương : 1/ Abraham thấy 3 người khách lạ
đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó
là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn
cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18) ; 2/ Một gia
đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Eâlisê, mà còn dọn hẳn cho ông một
căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Eâlisê cũng giúp họ
thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I) ; 3/ Gia đình Matta, Maria và
Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại,
Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
Qua những chuyện trên,
chúng ta hãy tìm hiểu thêm hai vấn đề :
1/ Tại sao những chủ
nhà ấy quảng đại tiếp đón khách ? Thưa vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà
còn quan tâm tới người khác : Abraham lo cho 3 người khách kia đi trong sa
mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy lại sức ; gia đình ở
Sunam lo sợ ngôn sứ Eâlisê phải bơ vơ tứ cố vô thân ở một miền đất lạ ;
gia đình Bêthania thì muốn Đức Giêsu và các môn đệ được nghỉ ngơi sau một thời
gian mệt mỏi vì công việc rao giảng Tin Mừng. Trong hai chuyện sau, còn một lý
do nữa, là những chủ nhà ấy ý thức rằng những người khách mà mình tiếp đón là sứ
giả của Thiên Chúa.
2/ Phần thưởng của tấm
lòng quảng đại ấy là gì ? Là sự sống : hai đứa con trai đầu lòng cho
hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét
cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên
Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Những câu chuyện rất đẹp
trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón :
– Tiếp đón không chỉ
là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết
quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
– Khi tiếp đón, dĩ
nhiên chúng ta phải mất mát : mất giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng Thiên
Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta : Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài
thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.
Phần đầu của bài Tin Mừng
hôm nay đặt vấn đề : người môn đệ của Đức Giêsu đặt Ngài ở số mấy trong đời
họ ?
Bình thường, người ta
coi bản thân là số một, vợ chồng số hai, gia đình số ba, thân nhân số bốn… Chúa
thì có lẽ cao lắm cũng chỉ từ số năm trở xuống.
Trong đoạn Tin Mừng
này, Đức Giêsu kể ra những người dành cho Chúa vị trí số hai :
– một là cha mẹ, hai
là Chúa
– một là con cái, hai
là Chúa
– một là mạng sống
mình, hai là Chúa
Được xếp ở vị trí số
hai như thế cũng là được coi trọng lắm rồi. Nhưng Đức Giêsu vẫn không chịu.
Ngài nhất quyết đòi vị trí số một : “Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không
xứng đáng với Thầy ; ai yêu mến con trai con gái hơn thầy thì không xứng
đáng với Thầy” ; Ngài còn đòi chúng ta phải dám mất mạng sống vì Ngài nữa !
Mỗi người chúng ta hãy
tự hỏi : phần tôi, tôi xếp Chúa vào vị trí số mấy ?
Có nhiều loại từ bỏ :
– Tôi soạn lại tủ áo của
tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt
để đem cho người nghèo.
– Trong sân nhà tôi có
hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây
nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt
hơn.
– Nha sĩ khám thấy có
một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi,
nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.
Đức Giêsu kêu gọi người
đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào ?
– Có những thứ ta có
thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.
– Có những thứ ta nên
bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa,
không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.
– Có những thứ ta bó
buộc phải bỏ như : tội lỗi, thói xấu, dịp tội.
4. Hai chi tiết quan trọng trong bài Tin Mừng
Trong bài Tin Mừng
này, có hai chi tiết mà nếu ta không dừng lại tìm hiểu kỹ thì sẽ để vuột mất những
ý nghĩa rất sâu sắc :
– Câu 38 (quyển Bài đọc
ấn bản 1970 bỏ sót không in câu này) “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy
thì không xứng với Thầy” : Theo cách xử tử của Rôma, người bị kết án tử
đóng đinh thập giá phải tự vác lấy thập giá của mình (chỉ vác thanh ngang, còn
thanh dọc để sẵn ở pháp trường) đi ra pháp trường. Vì thế, kiểu nói “vác thập
giá mình” có nghĩa là bị kết án tử. Do đó, câu nói của Đức Giêsu có nghĩa là ai
muốn xứng đáng làm môn đệ đi theo Chúa thì phải chấp nhận thân phận mình như là
người đã bị kết án tử.
– Câu 39 “Kẻ nào đành
mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó” : chữ hy lạp psyche có
nghĩa rất rộng, chỉ “lòng”, “trí”, “tim”, tổng quát là cả “cuộc sống”, toàn thể
“con người”. Như thế, “đành mất mạng sống” có nghĩa là dám mất tất cả. Và như vậy
thì kiểu nói này cũng đồng nghĩa với ý tưởng coi mình như người đã bị kết án tử
mà ta vừa phân tích ở trên.
Thông thường người ta
thích làm toán cộng và toán nhân, nghĩa là cứ muốn
có thêm và có thêm thật nhiều thật nhanh.
Nếu ta đọc kỹ lại những
lời Đức Giêsu dạy dỗ các môn đệ thì thấy Ngài dạy ta làm hai bài toán khác, đó
là toán trừ và toán chia : làm toán trừ là từ
bỏ, làm toán chia là bố thí, chia xẻ, phân phát cho người khác.
Tuy làm toán trừ và
toán chia thì ta sẽ bị mất mát. Nhưng chính Thiên Chúa sẽ đích thân làm toán cộng
và toán nhân cho ta : “Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con
cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà bây giờ ngay ở đời này lại không nhận
được… gấp trăm… và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,29-30).
a/ Tiếp đón
Chúa hứa với một bà là
Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau
chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ
cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền
nói : “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi
đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa
lại.
Mấy phút sau lại có tiếng
gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì ? Vài người già nghèo nàn. “Rất
tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà
đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng
gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua
đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người
ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và
màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn
không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên
giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói : “Hôm nay
Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta”.
b/ Mất và được
Tái ông thất mã :
Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm phàn
nàn cho sự rủi ro. Ông đáp : “Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may.”
Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ được một con ngựa Hồ rất hay. Có người
cho đó là điều may mắn. Ông nói : “Chưa hẳn được ngựa là may đâu.” Ông có
đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy
chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo
trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo
lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10
người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó
mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà
ngờ được. (Trích “Phúc”)
CT : Anh chị em thân mến
Muốn dấn thân theo
Chúa Giêsu, người kitô hữu phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Người.
Với quyết tâm bước theo Chúa đến cùng, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Hội Thánh dùng Lời
Chúa để giáo dục đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các
tín hữu biết lắng nghe lời giáo huấn của Hội Thánh / để nhờ đó mà đức tin ngày
càng trưởng thành hơn.
2- Đời sống thường
ngày cho chúng ta thấy có một số người chỉ thích sống an nhàn / chỉ lo hưởng thụ
mà không thích nghe đề cập đến hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
lúc nào cũng có nhiều người quảng đại / sẵn sàng phục vụ những người bất hạnh
nhất của xã hội.
3- Tận tình giúp đỡ những
người đang gặp hoạn nạn / những nạn nhân của thiên tai / những người mắc bệnh
nan y / những người mất hết niềm hy vọng để vui sống / là nghĩa vụ của những
người tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu biết cố gắng thực
hiện lời dạy của Thánh Phaolô / “vui với người vui, khóc cùng người khóc”.
4- Hết lòng nâng đỡ /
và chân thành cộng tác với các mục tử trong sinh hoạt của giáo xứ / là trách
nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng
ta / luôn biết rộng rãi giúp đỡ / và tích cực cộng tác với các Linh mục trong
việc mục vụ thường ngày.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trải qua con đường đau khổ
rồi mới bước vào vinh quang. Xin cho chúng con hiểu rằng : nếu muốn được
chia xẻ vinh quang thiên quốc với Chúa, chúng con cũng phải đi qua con đường thập
giá, con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ, nhưng chính là con đường dẫn đưa
đến sự sống bất diệt. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen
– Trước kinh Lạy
Cha : Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy nhớ rằng những người sống
chung quanh chúng ta cũng là anh chị em cùng một Thiên Chúa là Cha như chúng ta.
Vậy chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta yêu thương và tiếp đón những anh chị em ấy.
Lời Chúa hôm nay nhắc
chúng ta sống với người khác bằng thái độ tiếp đón, và sống với Chúa bằng cách
coi Chúa trọng hơn tất cả mọi người và mọi sự. Chúng ta hãy ra về và cố gắng sống
như thế.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina:
Chúa Nhật XIII Thường Niên (A)
Sunday 28 June, 2020
Lectio Divina | Lectio
Divina Năm A
Từ bỏ tất cả để theo
Chúa Giêsu
“Kẻ nào yêu mến cha
mẹ hơn Thầy,
thì chẳng xứng đáng
với Thầy!”
Mt 10:37-42
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin
Chúa hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình
mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường đến Emmau. Trong ánh sáng
Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được
sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong
chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng
và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống và trong những người chung
quanh, nhất là nơi những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa
hướng dẫn chúng con, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ hưởng được
sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang
sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa
bình. Chúng con cầu xin điều này vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng
đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng
con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Phân đoạn
bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 10:37: Tình
yêu dành cho Chúa Giêsu thì phải trọng hơn tình yêu dành cho cha mẹ và con cái
Mt 10:38: Thập
giá là một phần của việc đi theo Chúa Giêsu
Mt 10:39: Biết
cách đánh mất mạng sống mình để giữ được nó
Mt
10:40-41: Chúa Giêsu xác nhận mình với người đi rao giảng và người
môn đệ
Mt 10:42: Làm
việc tầm thường nhất cho một trong những kẻ bé mọn thì đã đáng được trả công
b) Chìa khóa
dẫn đến bài đọc:
Trong Chúa Nhật thứ 13
thường niên, chúng ta suy niệm về đoạn cuối của Bài Giảng về Sứ Vụ (Mt
10:1-42). Bài giảng này chứa đựng những câu nói và lời khuyên của Chúa
Giêsu, dạy chúng ta thực hiện sứ vụ loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu không đánh lừa, và chỉ rõ những khó khăn mà sứ vụ này bao hàm.
Khi chúng đọc văn bản này, chúng ta nên chú ý đến những điều sau đây: “Đòi hỏi
căn bản của Chúa Giêsu đối với những ai đi làm sứ vụ là gì?”
c) Phúc Âm:
37 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: “Kẻ nào
yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy; và kẻ nào yêu mến con
trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. 38 Kẻ
nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. 39 Kẻ
nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy,
thì sẽ tìm lại được nó.
40 “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón
tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. 41 Kẻ nào đón tiếp
một tiên tri với danh nghĩa tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và
kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh
phần thưởng của người công chính. 42 Kẻ nào cho một trong
những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ,
thì quả thật, Thầy nói các con, người ấy không mất phần thưởng đâu.”
3. Giây phút cầu
nguyện trong thinh lặng
Để Lời của Chúa có thể
thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi
gợi ý
Để giúp chúng ta trong
việc suy gẫm cá nhân.
a) Phần nào trong đoạn Tin Mừng này đã làm bạn cảm động
nhất? Tại sao?
b) Đoạn Tin Mừng này cho chúng ta những lời khuyên
gì? Điều kiện căn bản của nó là gì?
c) Chúa Giêsu phán rằng: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn
Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy” – Chúng ta nên hiểu câu nói này như thế
nào?
d) Văn bản nói với chúng ta điều gì về sứ vụ mà chúng
ta phải thực hiện khi là môn đệ của Chúa Giêsu?
5. Dành cho những
ai muốn đào sâu hơn vào chủ đề
a) Bối cảnh của
đoạn Tin Mừng trong sách Phúc Âm theo thánh Mátthêu:
Phúc Âm theo thánh
Mátthêu sắp xếp những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu xung quanh năm bài
giảng tuyệt vời: (i) Mátthêu chương 5 đến chương 7: Bài Giảng
Trên Núi mô tả đường vào Nước Trời. (ii) Mátthêu chương
10: Bài Giảng về Sứ Vụ Truyền Giáo mô tả cách những người
theo Chúa Giêsu phải công bố Tin Mừng Nước Trời và những khó khăn liên
quan. (iii) Mátthêu chương 13: Bài Giảng bằng Dụ Ngôn,
bằng phương cách dùng những tương đồng được lấy ra từ cuộc sống hằng ngày, Chúa
Giêsu cho thấy sự hiện diện của Nước Trời trong đời sống của người dân.
(iv) Mátthêu chương 18: Bài Giảng về Cộng Đoàn mô ta
cách thức các Kitô hữu nên sống cùng nhau theo một cách mà cộng đoàn trở thành
một sự mặc khải của Nước Trời. (v) Mátthêu các chương 24 và
25: Bài Giảng về Thời Cánh Chung mô tả tương lai của Nước
Thiên Chúa sắp đến. Nhờ vào dụng cụ văn học này, Mátthêu bắt chước năm
cuốn sách của Ngũ Kinh, và do đó trình bày Tin Mừng Nước Trời như là Lề
Luật Mới của Thiên Chúa.
Trong Bài Giảng về Sứ
Vụ Truyền Giáo (Mt 10:1-42), Tác Giả Tin Mừng đã kết hợp các câu nói và lời
khuyên của Chúa Giêsu làm sáng tỏ tình hình khó khăn của các Kitô hữu gốc Do
Thái vào hậu bán thế kỷ thứ nhất. Ông muốn khuyến khích họ đừng làm mất
lòng tin mặc dù có nhiều khó khăn và nghiêm trọng mà họ phải đối mặt khi công bố
Tin Mừng cho anh chị em cùng gốc Do Thái của họ. Thực ra tại thời điểm
này, vào những năm của thập niên 80, người Do Thái đang dần phục hồi sau thảm họa
của việc phá hủy Đền Thờ Giêrusalem xảy ra vào thập niên 70, và đang bắt đầu
quy tụ lại trong các vùng ở miền Syria và Galilêa. Mối căng thẳng giữa “Hội
Đường” và “Giáo Hội” đang gia tăng. Mối căng thẳng này, nguồn đau khổ
khôn nguôi và của bách hại, tạo nên bối cảnh cho Bài Giảng về Sứ Vụ và, do đó,
cho bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ 13 Thường Niên.
b) Lời
bình giải về bản văn:
Mt 10:37: Tình
yêu dành cho Chúa Giêsu thì phải trọng hơn tình yêu dành cho cha mẹ và con cái
Chúa Giêsu phán cùng
các môn đệ rằng: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy;
và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy.”
Chúng thấy cùng một lời nói trong sách Tin Mừng Luca thậm chí còn viết mạnh mẽ
hơn: “Ai đến với Ta mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống
mình nữa thì không thể nào làm môn đệ Ta được” (Lc 14:26). Vậy thì có phải
là Chúa Giêsu muốn phân ly đời sống gia đình không? Điều này không thể xảy
ra, bởi vì ở nơi khác, Người nhấn mạnh đến việc tuân giữ giới răn thứ tư là buộc
chúng ta phải yêu mến cha mẹ (Mc 7:8-13; 10:17-19). Chính Người cũng đã
vâng phục cha mẹ mình (Lc 2:51). Những câu nói này dường như mâu thuẫn
nhau. Có một điều chắc chắn là: Chúa Giêsu không mâu thuẫn với
chính mình. Chúng ta sẽ giải thích để chứng tỏ hai câu nói đều đúng và
không loại trừ lẫn nhau.
Mt 10:38: Thập
giá là một phần của việc đi theo Chúa Giêsu
Chúa Giêsu nói rằng:
“Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy.”
Trong Tin Mừng của Máccô, Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình mà theo!” (Mc 8:34). Vào thời đó, thập giá là án
tử hình do Đế Chế La Mã áp đặt đối với những kẻ trộm cắp và kẻ bị gạt ra bên lề
xã hội. Vác thập giá mình và theo Chúa Giêsu thì tương đương với việc chấp
nhận bị gạt ra ngoài lề bởi xã hội bất công của Đế Chế. Thập giá của Chúa
Giêsu là kết quả của sự tự nguyện cam kết đi loan báo Tin Mừng rằng Thiên Chúa
là Cha và vì thế, tất cả mọi người đều được chấp nhận và đối xử với nhau như
anh chị em. Bởi vì lời tuyên bố cách mạng này, Chúa Giêsu đã bị kết án và
đã không ngần ngại từ bỏ mạng sống mình. Không ai có tình yêu tuyệt
vời hơn tình yêu này, là người ấy đã thí mạng sống mình vì bạn hữu.
Mt 10:39: Biết
cách đánh mất mạng sống mình để giữ được nó
Cách nói này khá là phổ
biến trong những Kitô hữu tiên khởi bởi vì nó diễn tả điều họ đang phải trải
qua. Ví dụ, đối với thánh Phaolô, trung thành với Đức Giêsu và có được sự
sống, ông đã phải mất hết tất mọi thứ mình có, sự nghiệp, sự kính trọng của người
dân, và chịu sự bách hại. Điều tương tự cũng đã xảy ra với nhiều Kitô hữu.
Các Kitô hữu đã bị bách hại chỉ vì là Kitô hữu. Thánh Phaolô nói rằng:
“Tôi bị đóng đinh trên thập giá với Đấng Kitô.” “Tôi mong ước được trải
nghiệm thập giá và cái chết của Người, để tôi cũng có thể trải nghiệm sự sống lại
của Người.” “Tôi bị đóng đinh vào thế gian và thế gian vào tôi.”
Đây là điều nghịch lý của Tin Mừng: Kẻ đến sau hết là kẻ đến trước,
kẻ thua cuộc là kẻ chiến thắng, người cho đi tất cả là người giữ lại tất cả,
người chết đi thì lại sống. Người có can đảm đánh mất mạng sống mình thì
có được nó. Đây là một lý luận hoàn toàn khác hẳn với hệ thống tân tự do
đang thống trị thế giới ngày nay.
Mt
10:40-41: Chúa Giêsu xác nhận mình với người đi rao giảng và người
môn đệ
Đối với người đi rao
giảng và người môn đệ, điều rất quan trọng là biết rằng người ấy sẽ không bao
giờ bị đơn côi. Nếu người ấy vẫn trung thành với sứ vụ của mình, thì họ sẽ
có điều chắc chắn là Chúa Giêsu sẽ đồng nhất với họ, và nhờ Chúa Giêsu, Chúa
Cha sẽ tỏ mình ra với những người đi truyền giáo và người môn đệ đi công bố Tin
Mừng. Và như thế, giống như Chúa Giêsu đã phản ảnh khuôn mặt của Chúa Cha
như thế nào, thì người môn đệ cũng phải là tấm gương, nơi mà mọi người có thể
thoáng nhìn thấy điều gì đó về tình yêu thương của Chúa Giêsu.
Mt 10:42: Làm
việc tầm thường nhất cho một trong những kẻ bé mọn thì đã đáng được trả công
Để thay đổi thế gian
và các mối quan hệ giữa con người, các quyết định chính trị của những kẻ cầm
quyền thì không đủ, cũng chẳng phải là các nghị định của các Hội Đồng và của
các giám mục. Điều cần thiết là một sự thay đổi trong đời sống con người,
trong các mối quan hệ giữa các cá nhân và cộng đoàn, nếu không thì sẽ chẳng có
gì thay đổi. Đó là lý do mà Chúa Giêsu đặt trọng tâm đến những hành vi nhỏ
nhặt của việc chia sẻ: một ly nước cho người nghèo!
c) Một cái
nhìn sâu sắc hơn: yêu kính cha mẹ, ghét bỏ cha mẹ
Một trong những điều
mà Chúa Giêsu nhấn mạnh đến là dành cho những ai muốn đi theo Người thì phải để
lại cha mẹ, vợ con, anh chị em, nhà cửa, đất đai, để lại mọi thứ vì tình yêu
Ngài và Tin Mừng của Người (Lc 18:29; Mt 19:29; Mc 10:29). Thậm chí Người
còn truyền cho chúng ta “dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em. Nếu không thì
không thể nào làm môn đệ Ta được” (xem Lc 14:28). Những lệnh truyền này
không chỉ dành cho một số người mà cho tất cả những ai muốn theo Người (Lc
14:25-26, 33). Chúng ta có thể hiểu được những câu nói này như thế nào
khi mà chúng dường như tháo bỏ và phá vỡ tất cả mọi liên hệ gia đình?
Chúng ta không thể mường tượng được Chúa Giêsu đòi hỏi tất cả mọi người, nam
cũng như nữ, tại miền Galilêa phải lìa bỏ gia đình, đất đai, làng mạc, để đi
theo Người. Trong thực tế, điều này đã không xảy ra ngoại trừ một nhóm nhỏ
môn đệ. Như vậy, ý nghĩa của những lệnh truyền này là gì?
Nếu chúng ta đặt lời
yêu cầu phải lìa bỏ gia đình trong bối cảnh xã hội của thời ấy, chúng ta có thể
thấy một ý nghĩa khác, căn bản và thiết thực hơn. Cuộc xâm lăng của dân
Paléstin vào năm 64 trước Công Nguyên và sự áp đặt việc cống nạp bởi vua Hêrôđê
(năm 35 đến năm 3 trước Công Nguyên) và con ông ta là vua Hêrôđê Antipát (năm 3
trước Công Nguyên đến năm 37 sau Công Nguyên), một chính sách ủng hộ chính quyền
La Mã, đã mang lại sự nghèo khó tăng dần và nạn thất nghiệp gia tăng. Qua
chính sách của vua Hêrôđê Đế Quốc La Mã hỗ trợ, tư tưởng Hy Lạp thâm nhập vào đời
sống hằng ngày, do đó mang theo với nó chủ nghĩa cá nhân đang phát triển.
Tất cả điều này đã khiến cho những đại gia đình, gia tộc và cộng đồng tan rã.
Vì vậy tiểu gia đình đã bắt đầu cảm thấy bị ràng buộc tùy thuộc vào chính mình
và không thể thực hành việc giữ gìn lề luật. Ngoài ra, việc thực hành
nghi thức thanh tấy làm cho người ta khinh rẻ và loại trừ những người và các
gia đình sống trong môi trường ô uế theo luật lệ. Bối cảnh kinh tế, xã hội,
chính trị và tôn giáo đã khiến cho các gia đình sống vào chính mình và làm suy
yếu tình gia tộc. Sự bận tâm với các vấn đề gia đình đã khiến cho người
ta không đoàn kết trong cộng đồng nữa. Nó ngăn trở gia tộc
trong việc thực hiện mục đích mà nó được tạo ra, đó là, đem đến sự bảo vệ thực
sự và đầy đủ cho gia đình và người ta, để giữ gìn bản sắc, bảo vệ đất đai, ngăn
ngừa việc loại trừ và chào đón những kẻ bị loại trừ và người nghèo khó, và do
đó mặc khải thánh nhan của Thiên Chúa. Giờ đây, vì Nước Trời tự mặc khải
lần nữa trong sự chia sẻ, cần phải phá vỡ vòng lẩn quẩn quái ác. Người ta
phải vượt qua những thiếu sót nghiêm khắc của tiểu gia đình để mở lòng mình ra
với đại gia đình và với cộng đồng. Đây là bối cảnh tạo nên nền tảng cho
những lời được Chúa Giêsu công bố.
Chính Chúa Giêsu cho một
ví dụ. Khi gia đình của Người đi tìm Người, Người đã phản ứng lại và nói
rằng: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta? Ai thi hành ý muốn của Thiên
Chúa, người ấy là anh chị em Ta, là mẹ Ta” (Mc 3:33-35). Người đã nới rộng
vòng gia đình. Người tạo dựng cộng đoàn. Những kẻ mà Chúa lưu tâm
và kêu gọi là người nghèo và kẻ bị loại trừ (Lc 4:18; Mt 11:25). Chúa đòi
hỏi điều tương tự với những người muốn đi theo Ngài. Những kẻ loại trừ và
bị gạt ra ngoài lề phải được đón nhận lại vào trong sự chia sẻ và như thế cảm
thấy được Thiên Chúa đón nhận (xem Lc 14:12-14). Đây là cách để đạt được
cùng đích của Lề Luật nói rằng: “Tuyệt nhiên giữa anh em sẽ không có người
nghèo” (Đnl 15:4).
Chúa Giêsu cố gắng
thay đổi trình tự tan rã của gia tộc, của cộng đoàn. Giống như những tiên
tri vĩ đại trong quá khứ, Người tìm cách củng cố đời sống cộng đoàn trong các
làng mạc miền Galilêa. Chúa nhen nhúm lại ý nghĩa sâu xa của gia tộc, gia
đình, của cộng đoàn như một biểu hiện của sự nhập thể tình yêu của Thiên Chúa
trong tình yêu người lân cận. Đó là lý do mà Người đòi hỏi những ai muốn
trở thành môn đệ Người phải lìa bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, nhà cửa, tất cả
mọi sự! Họ phải mất đi mạng sống của mình để có được nó! Chúa là Đấng
bảo đảm cho điều này: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa,
anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay
bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng
đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc
10:29-30). Quả thật, những ai có can đảm phá vỡ vòng khép của gia đình
mình, sẽ tìm thấy lại, trong gia tộc, trong cộng đoàn, gấp trăm lần những gì họ
đã bỏ lại: an hem, chị em, mẹ, con, ruộng đất! Chúa Giêsu làm những
điều mà mọi người đã trông đợi ở thời kỳ Thiên Sai: dẫn dắt con tim của
cha mẹ về lại với con cái, và con tim của con cái về lại với cha mẹ, để xây dựng
lại tình gia tộc, phục hồi khuôn mẫu xã hội.
6. Thánh Vịnh
19:7-14
Luật pháp CHÚA quả
là toàn thiện
Luật pháp CHÚA quả là
toàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý CHÚA thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.
Huấn lệnh CHÚA hoàn
toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng.
Mệnh lệnh CHÚA xiết
bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời.
Lòng kính sợ CHÚA xiết
bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời.
Lòng kính sợ CHÚA luôn
trong trắng, tồn tại đến muôn đời.
Quyết định CHÚA phù hợp
chân lý, hết thảy đều công minh,
Thật quý báu hơn vàng,
hơn vàng y muôn lượng,
Ngọt ngào hơn mật ong,
hơn mật ong nguyên chất.
Nên tôi tớ Ngài đây
xin ra công học hỏi;
Ai giữ những điều này
sẽ được nhiều lợi ích.
Nhưng nào ai thấy rõ
các lầm lỗi của mình?
Xin Ngài tha các tội
con phạm mà chẳng hay.
Xin cũng giữ cho tôi tớ
Ngài khỏi kiêu ngạo,
Đừng để tính xấu này
thống trị con.
Như thế con sẽ nên vẹn
toàn
Không còn vương trọng
tội.
Lạy CHÚA là núi đá cho
con trú ẩn,
Là Đấng cứu chuộc con,
cúi xin Ngài vui nhận
Bấy nhiêu lời miệng lưỡi
thân thưa,
Và bao tiếng lòng con
thầm thĩ
Mong được thấu đến
Ngài.
7. Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng
con xin cảm tạ Chúa vì những Lời của Chúa đã giúp chúng con có thể hiểu cặn kẽ
hơn Thánh ý của Chúa Cha. Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho những
việc chúng con đang làm và ban cho chúng con sức mạnh để chúng con có thể thực
thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Chúng con nguyện xin được nên giống
như Đức Maria, mẹ Người, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp
nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
https://dongcatminh.org/event/lectio-divina-chua-nhat-xiii-thuong-nien-a/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét