28/06/2020
Chúa Nhật 13 Thường
Niên năm A
(phần I)
BÀI ĐỌC I: 2 V 4, 8-11.
14-16a
“Người đến trọ nhà mình, là một
vị thánh của Thiên Chúa”.
Trích sách Các Vua
quyển thứ hai.
Một ngày nọ, Êlisê đi ngang qua miền Sunam. Ở đó có một bà sang trọng mời
ông ở lại dùng bữa. Và từ đấy, mỗi khi ông đi ngang qua đó, ông đều đến nhà bà
dùng bữa. Bà nói với chồng bà rằng: “Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình
là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên
lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một
cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó”.
Một ngày nọ Êlisê đến, ông lên căn phòng trên lầu và nghỉ tại đó. Ông nói
(với Giêzê, tiểu đồng của ông): “Bà muốn chúng ta làm gì cho bà?” Giêzê nói
rằng: “Thầy khỏi hỏi, bà ấy không có con, và chồng bà đã già”. Êlisê bảo gọi
bà ta. Nghe gọi, bà liền đến đứng trước cửa, ông nói với bà rằng: “Năm tới
cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 88, 2-3.
16-17. 18-19
Đáp: Lạy Chúa, con
sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Xướng:
1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng
con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng
vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. – Đáp.
2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng
nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài.
– Đáp.
3) Vì Chúa là vinh quang quyền năng của họ; nhờ ân huệ Chúa, uy quyền của
chúng tôi được suy tôn. Bởi chưng khiên thuẫn chúng tôi là của Chúa, và vua
chúng tôi thuộc về Đấng Thánh của Israel. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 6, 3-4.
8-11
“Chúng ta chịu mai táng với
Ngài nhờ phép rửa, chúng ta phải sống đời sống mới”.
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, tức là
đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với
Người, bởi vì được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Đức Kitô nhờ vinh
hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống
đời sống mới như thế. Mà nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng:
chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô một khi từ cõi chết
sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người
đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống
cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội
lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó là lời
Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống; không ai đến được với
Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 10, 37-42
“Kẻ nào không mang lấy thập
giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn
Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy,
thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì
không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào
đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là
đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên
tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính
với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính.
Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với
danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần
thưởng đâu”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðòi Hỏi Và Vinh Dự Của Môn Ðệ
Với ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta có thể
suy nghĩ nhiều điều về đời sống của người môn đệ đi theo Chúa Yêsu. Ðó cũng là
đời sống của chính chúng ta, xét về mặt đạo đức thiêng liêng. Chúng ta đã thực
thụ trở thành môn đệ Chúa Yêsu khi cùng chịu mai táng và sống lại với Người
trong bí tích Rửa tội, như bài Thánh thư hôm nay nói. Từ ngày đó chúng ta không
ngừng phải vác Thập giá hàng ngày để đi theo Người, nhưng đồng thời cũng nhận
được vinh dự của người môn đệ đi theo Thầy, như Người đã hứa trong bài Tin Mừng.
Và trong Hội Thánh luôn có những Ngôn sứ muốn sống triệt để ơn gọi làm Môn đệ của
Chúa như Êlisê ngày trước mà bài sách các Vua còn kể lại nhiều mẩu truyện rất ý
nghĩa. Chúng ta thử đọc về đời sống của người môn đệ đi theo Chúa, tức cũng là
ơn gọi của chính chúng ta.
A. Chúng Ta Ðã Trở Thành Môn Ðệ
Ðoạn thư Rôma hôm nay được chọn để đọc một
cách long trọng đặc biệt trong Canh thức Phục sinh. Chúng ta nên dùng để suy
nghĩ mỗi khi có nghi thức Rửa tội. Nhưng bất cứ khi nào tự hỏi về ơn gọi Kitô hữu
của mình, chúng ta cũng có thể đem đọc để thấy rõ mình đã trở nên môn đệ của
Chúa như thế nào.
Vẫn biết ơn Chúa kèm theo lời rao giảng Tin Mừng
đã ban nhân đức tin cho chúng ta. Chúng ta đã bắt đầu đi theo Chúa ngay từ khi
chúng ta để Lời Chúa và tình yêu của Người lôi cuốn chúng ta. Có thể nói được
chúng ta đã là tín hữu của Chúa vì chúng ta đã tin Người có lời ban sự sống cứu
độ chúng ta. Một phần nào chúng ta đã là môn đệ của Chúa rồi, vì theo Thánh
Kinh người môn đệ luôn để tai nghe Lời Chúa. Tuy nhiên, chưa có hành vi nào xác
nhận chúng ta là tín hữu và môn đệ. Phải đợi đến ngày chúng ta chịu phép Rửa
nhân Danh Chúa Yêsu Kitô.
Phép Rửa này độc nhất vô nhị. Không thể so
sánh với một nghi lễ tôn giáo nào, kể cả phép rửa của Yoan Tẩy giả. Thánh Kinh
nói rõ và chính Yoan đã khẳng định: "Tôi rửa trong nước; còn Người rửa
trong Thánh Thần". Do đó đây không phải là biểu tượng và lễ nghi, nhưng là
hoạt động của Thánh Linh. Sức mạnh của Thiên Chúa làm việc thật sự trong Hội
Thánh dội nước trên con người. Nước chảy trên đầu không phải chỉ diễn tả ơn
thanh tẩy tội lỗi. Và việc chịu phép Rửa không phải chỉ là một nghi lễ phải làm
để được công nhận là tín hữu và môn đệ. Có hoạt động thật sự của Thiên Chúa
trong việc dội nước và làm nghi lễ này. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay nói:
Chúng ta đã chịu phép Rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu mai táng với Người.
Chúng ta cùng chết với Người trong cái chết xóa sạch tội lỗi mà Người đã chịu
trên thập giá. Vì chấp nhận muốn cùng chết với Người cho tội lỗi như vậy mà
chúng ta được tha tội và nước dội trên đầu chúng ta có sức mạnh thanh tẩy tâm hồn.
Thế nên mọi người lớn, khi chịu phép Rửa tội, đều phải có lòng thống hối ăn năn
và từ bỏ tội lỗi. Và tất cả chúng ta, khi muốn ý thức lại ơn trở thành môn đệ
và tín hữu của Chúa đều phải tuyên xưng lại ý chí muốn chết cho tội lỗi và các
khuynh hướng xấu xa. Không có việc muốn kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu
nhiệm chết cho tội lỗi dù người ấy có lòng thống hối ăn năn và chịu rửa như nhiều
người dưới thời ông Yoan Tẩy giả. Mọi hành vi thú nhận tội lỗi và ăn năn thống
hối của con người đều không làm cho con người được khỏi tội. Chỉ có lòng từ bỏ
tội lỗi trong tinh thần kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm tử nạn cứu
thế của Người mới mang lại ơn thanh tẩy tâm hồn.
Vì sao vậy?
Vì mọi lễ đền tội mà loài người dâng lên đều bất
xứng và không được chấp nhận nếu không tựa vào lễ hy sinh đền tội mà Người Con
Chí Ái của Thiên Chúa đã dâng lên khi Người chịu chết trên Thập giá. Thiên Chúa
đã tỏ ra ưng thuận lễ dâng này khi cho Con Người sống lại từ kẻ chết. Người đã
chết vì tội lỗi loài người, thì khi phục sinh Người trong sự chết này, Thiên
Chúa đã tỏ ra chấp nhận tha thứ hết mọi tội lỗi cho loài người chúng ta. Sự sống
lại của Con Thiên Chúa là ơn tha thứ tội lỗi vậy. Người ta được ơn tha thứ tội
lỗi không phải khi kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong sự chết của Người nhưng là
khi được cùng Người sống lại trong sự phục sinh của Người. Không thể tách rời
việc cùng chịu mai táng với Ðức Kitô và việc cùng Người sống lại, vì sự chết của
Người chỉ có giá trị cứu thế khi Thiên Chúa phục sinh Người từ kẻ chết. Thế nên
chết đi cho tội lỗi là việc của con người, nhưng ban ơn thanh tẩy đổi mới tâm hồn
là ơn của Thiên Chúa ban cho. Thiên Chúa hoạt động và ban Thánh Thần cho con
người khi họ chấp nhận chết đi cho tội lỗi trong mầu nhiệm Tử nạn cứu thế của Ðức
Yêsu Kitô. Nhờ và trong bí tích Rửa tội, con người tội lỗi cũ kỹ đã chết đi để
Thánh Thần tạo dựng con người mới sạch tội và thánh thiện trong Con Thiên Chúa.
Như vậy lễ nghi Rửa tội không phải chỉ là nghi
thức phải làm để được công nhận là tín hữu và môn đệ. Và Nước Rửa tội không phải
chỉ diễn tả ơn thanh tẩy tâm hồn. Nhưng thật sự Thiên Chúa hành động trong lễ
nghi này. Người dùng Thánh Thần để mai táng tội lỗi trong sự chết của Ðức Kitô
và để tạo dựng con người mới trong sự phục sinh của Người. Có một biến đổi thật
sự nơi người chịu phép Rửa. Từ thân phận một kẻ xa lạ thù địch với Thiên Chúa,
con người nhờ ý chí kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh
của Người, trở nên tạo vật mới đối với Thiên Chúa, không những sạch tội mà còn
thánh thiện vì đã đồng hình, đồng dạng, đồng hóa với Con Thiên Chúa. Chúng ta
không còn thuộc về thế giới tội lỗi nữa, nhưng đã được đưa sang Nước sáng láng
của Chúa Yêsu Kitô phục sinh. Người đang sống sự sống mới và ban sự sống mới ấy
cho hết thảy những ai sống trong Nước của Người.
Như vậy việc trở nên tín hữu và môn đệ của Người
thật là vô thường, không thể dùng nghi thức xã hội nào để so sánh được. Trong mọi
nghi thức xã hội công nhận một môn sinh hay môn đệ, chỉ có sự công nhận có thể
nói là bề ngoài, không thay đổi gì bản chất con người môn đệ. Còn ở đây, trong
bí tích Rửa tội, có sự biến đổi, tạo dựng thật sự, khiến một kẻ trước đây là tội
nhân nay trở nên công chính; trước đây là xa lạ, thù địch, nay là nghĩa tử và
là con cái Thiên Chúa; trước đây ở ngoài Ðức Kitô, nay là Kitô hưũ và kết hiệp
với Người như cành với thân cây, như chi thể với thân thể.
Ai hiểu như vậy mà không quý trọng ơn của bí
tích Rửa tội? Ai thấy như thế mà không xác tín về nội dung của ơn làm môn đệ của
Ðức Kitô? Chúng ta hết thảy đã trở thành môn đệ của Người khi chịu phép Rửa tội.
Chúng ta phải sống ơn gọi môn đệ ấy thế nào đây?
B. Ðòi Hỏi Và Vinh Dự Của Môn Ðệ
Bài Tin Mừng hôm nay nói rất rõ. Chúa Yêsu
tuyên bố: ai yêu mến cha mẹ, con cái hơn Người thì không xứng đáng là môn đệ của
Người. Và Người còn đòi hỏi hơn nữa khi tuyên bố tiếp theo: "Kẻ không vác
lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta". Nếu được phép làm một
phân tích văn chương nho nhỏ, chúng ta có thể nói các đòi hỏi đã được đưa ra
càng ngày càng gắt gao hơn. Ðầu tiên Chúa chỉ đòi người môn đệ phải yêu Người
hơn cha mẹ; rồi Người bảo họ phải yêu Người hơn cả con cái là những giọt máu của
chính bản thân mình; cuối cùng Người lại buộc họ phải vác lấy khổ giá mà đi
theo Người tức là phải yêu Người đến nỗi không sợ chết và dám bỏ mạng sống vì
Người.
Nói cách khác, Chúa đòi người môn đệ phải từ bỏ
tất cả, ngay cả mạng sống mình để đi theo và yêu mến Người. Người không cho
phép môn đệ nào được lấy cớ yêu cha yêu mẹ, yêu con cái hay sự sống của mình mà
từ chối với Người một điều gì khiến Người thấy tình yêu của môn đệ đối với Người
chưa thật hoàn toàn và Người chưa là tất cả đối với họ. Người đòi hỏi tình yêu
tuyệt đối, nên Người không nhận làm môn đệ những kẻ muốn đi theo Người nhưng lại
còn xin phép về nhà lo an táng cha hay thu xếp những công việc khác. Người có
thể đòi hỏi như thế bởi chính Người đã từ bỏ tất cả vì môn đệ và để cho người
ta trở thành môn đệ. Chúng ta đã thấy Người đã nộp mình chịu chết cho những kẻ
Người thương yêu như thế nào. Tình yêu lớn lao như vậy và tuyệt đối như thế chỉ
thấy người môn đệ xứng đáng khi họ cũng yêu tuyệt đối và lớn lao như vậy.
Tuy nhiên luận lý như trên hãy còn quá đơn giản.
Chúng ta chưa hiểu bản chất con người đòi hỏi như vậy là ai. Không phải Người
đã yêu và làm cho môn đệ như vậy nên Người đòi môn đệ phải yêu và phải làm như
thế. Thực ra khi tuyên bố những đòi hỏi kia, Ðức Yêsu Kitô chưa nộp mình chịu
chết cho môn đệ và môn đệ chưa thấy Người vác Thập giá đi trước để bảo mình phải
vác khổ giá đi sau. Ðức Yêsu đã đưa ra những đòi hỏi tuyệt đối, không phải nhân
danh sự chết của mình cho những người mình yêu thương, nhưng nhân danh bản tính
Thiên Chúa ở nơi mình và vì mình là Thiên Chúa. Và Thiên Chúa và chỉ có Thiên
Chúa mới có thể đòi hỏi một cách tuyệt đối như vậy. Mọi sự, mọi người và nhất
là sự sống đều là của Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người có quyền đòi chúng ta
phải dâng tất cả lại cho Người, nhất là khi hiến dâng đây, chúng ta không những
không mất mát mà còn được lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn.
Ðó là ý tưởng của Lời Chúa tiếp theo. Người
tuyên bố: Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất, còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta
thì sẽ gặp lại. Ðừng vội kết luận rằng sự hy sinh của người Kitô hữu cuối cùng
vẫn có tính cánh vụ lợi và tính toán. Vẫn biết có lần Chúa Yêsu đã trả lời cho
Phêrô khi ông này lên tiếng: "Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy".
"Qủa thật, Người nói, không ai bỏ nhà cửa, hay anh chị em, hay cha mẹ, hay
con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng, mà lại không lĩnh lấy gấp trăm
bây giờ ở đời này... và sự sống đời đời trong thời sẽ đến" (Mc 10,28-31).
Nhưng nếu đọc kỹ, đọc hết mọi lời của Chúa, chúng ta sẽ thấy Người đã mau lẹ
chuyển từ bình diện tự nhiên sang bình diện siêu nhiên, từ những sự ở đời này
sang những thực tại vô hình. Những hy sinh mà người môn đệ phải chịu rất là thực
tế, còn phần thưởng dành cho họ vẫn đòi hỏi một niềm tin. Thế nên không thể nói
đến sự hy sinh của họ không thoát khỏi vòng danh lợi. Ngược lại chính để thoát
khỏi vòng danh lợi giam hãm con người trong vũ trụ vật chất chóng qua mà họ chấp
nhận hy sinh để đạt được những giá trị và chân lý mà cùng lắm những giá trị đời
này chỉ là hình ảnh.
Ở đây chúng ta không cần suy tư triết học.
Chúng ta ý thức rõ ràng Chúa Yêsu Kitô đòi người môn đệ phải dám hy sinh tất cả
cho Người để chứng tỏ tình yêu tuyệt đối đối với Người và để minh chứng Người
thật là Thiên Chúa. Và khi hy sinh như vậy họ tìm được sự sống.
Trong khi ấy họ đẹp lòng Thiên Chúa đến nỗi
Người sẵn sàng thưởng công cho những ai có một cử chỉ tốt lành nào đó đối với họ,
dù chỉ cho họ một bát nước lã mà thôi. Với lời hứa này Người khuyến khích mọi
người yêu mến các môn đệ của Người, cho dù họ thật bé mọn trước mặt thế gian.
Và như thế chúng ta có thể tạm kết luận về bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Yêsu
tuyên bố rõ ràng là người môn đệ đi theo Người phải có lòng yêu mến Người đến nỗi
sẵn sàng hy sinh đến cả mạng sống vì Người. Và điều này phù hợp với lời thư
Phaolô hôm nay nói: người môn đệ hãy tự kể mình như đã chết cho tội lỗi và nay
sống cho Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô. Ðó là nếp sống mới, nếp sống của người
môn đệ đối với Thiên Chúa. Còn đối với nhau họ được vinh dự như là "báu vật"
của Người đến nỗi ai làm cho họ việc gì tốt đều không mất phần thưởng trên Nước
Trời. Từ đó họ phải sống bác ái phục vụ nhau như thế nào!
C. Những Bậc Thang Giá Trị
Bài sách các Vua có thể dùng để nói về việc phục
vụ này. Quả vậy, bà lớn ở thành Shunem nọ đúng là "người đã đón tiếp một vị
tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, nên đã lãnh phần thưởng của nhà tiên
tri". Bà là người sang trọng. Bà thấy tiên tri Êlisê đến thăm thành mình.
Bà mời ông quá bộ đến ở tại nhà bà vì bà là con người đạo đức, nghĩ rằng Thiên
Chúa đã cho mình có của thì mình phải phục vụ những "người của Thiên
Chúa", tức là các môn đệ đặc biệt của Người. Và hiểu rằng nhà tiên tri có
nhiều dịp qua lại Shunem, bà bàn với chồng phải trang bị cho người một phòng đặc
biệt dành riêng và ở trên gác cao để người được tự do giao tiếp với Thiên Chúa.
Bà ta thật tế nhị và am hiểu các đòi hỏi của đời sống một tiên tri: không thể để
người chung đụng với phàm tục. Thái độ và cử chỉ của bà thật quý hóa. Nhà tiên
tri mủi lòng, và muốn thưởng công. Ông hứa cho bà sẽ sinh con trong tuổi già của
người chồng.
Chắc chắn đó là phần thưởng quá mức mong đợi đối
với hai người. Nhưng câu nói của bài Tin Mừng hôm nay như muốn so sánh và bảo
chúng ta rằng: đó chỉ là phần thưởng của một tiên tri cho một việc lành đối với
nhà tiên tri. Còn phần thưởng của Thiên Chúa cho người làm phúc cho môn đệ của
Người một bát nước lã, còn đáng trông đợi hơn nhiều!
Nhưng chúng ta cũng có thể đọc câu truyện trên
về phía nhà tiên tri để thấy Êlisê cũng là hình ảnh người môn đệ đi theo Chúa.
Ông như không có gia cư và không bám vào đâu cả. Ông sống cho Thiên Chúa và
luôn đi làm theo ý của Người. Người ta thấy rõ ông đã thoát tục, chết cho thế
gian này nên bà lớn kia khi rước ông vào nhà đã dọn cho ông một phòng riêng biệt
và ở trên gác cao, để ông xa tránh phàm tục và sống cho Thiên Chúa. Chắc chắn
ông thông thạo các việc của Người, nhưng khi muốn khen thưởng người đã có công
đối với mình, ông phải nhờ đến ý kiến của người tiểu đồng đi theo. Anh này gần
các thực tại thế gian này hơn. Anh biết gia đình chủ nhà đây đang cần gì hơn hết.
Nhà tiên tri cho gọi bà chủ. Bà này lên đứng ở ngoài cửa để vẫn kính trọng nhà
tiên tri là người đã thuộc về Thiên Chúa. Và nhà tiên tri đã thưởng công cho
bà.
Như vậy, ngay từ thời Cựu Ước, người ta đã ý
thức rằng đời sống của con người sống cho Thiên Chúa phải như đã chết đi cho thế
gian và tội lỗi. Ðó là giáo lý của bài Thánh thư và của bài Tin Mừng. Tuy nhiên
đây không phải là sự chết mất mát, từ bỏ và tiêu hủy những giá trị chân thật.
Nhà tiên tri sống cho Thiên Chúa nhưng vẫn quan tâm đến hạnh phúc của người
khác và nhất định muốn chu toàn nghĩa vụ đối với tha nhân. Khi nói chết cho thế
gian, chúng ta chỉ có ý nói đến việc chết cho tội lỗi và những sự xấu xa, để tỉnh
táo và đầy đủ hơn đối với những việc lành phải làm.
Vậy, nếu trong thánh lễ sắp cử hành đây chúng
ta muốn nhắc lại việc Chúa Yêsu chịu chết để hủy diệt tội lỗi nơi chúng ta, thì
chịu lấy Mình Thánh Người để nuôi sống mình chúng ta phải quyết tâm sống cho
Thiên Chúa. Không những chúng ta phải tỏ ra muốn yêu mến Người trên hết mọi sự
và trên hết mọi người; mà chúng ta cũng phải làm đầy đủ mọi nghĩa vụ đối với
tha nhân và xã hội. Việc thi hành tốt mọi phận vụ ấy không bị bỏ quên trước mặt
Thiên Chúa đâu. Chính những việc làm như vậy chứng tỏ chúng ta là môn đệ tốt của
Người. Nhờ các bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta cứ suy nghĩ thêm về ơn gọi, đời
sống, đòi hỏi cũng như vinh dự của người môn đệ đi theo Chúa, để đời sống chúng
ta mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 13 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: 2 Kgs 4:8-11, 14-16a; Rom 6:3-4, 8-11; Mt 10:37-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiếu khách
và thương người
Trong
các quốc gia vùng Cận Đông, khi một khách lỡ đường hay từ xa đến viếng thăm, chủ
nhà phải tiếp đón họ cách niềm nở, chu đáo, và chân thành. Ngày nay, nhiều người
bị chủ nghĩa cá nhân và tính ích kỷ thống trị, nên họ rất miễn cưỡng tiếp
khách, và không kiên nhẫn đủ để chờ khách ra đi. Nhiều người đá chó, mắng mèo,
chửi con để đuổi khách về sớm. Có người đặt câu hỏi: Hiếu khách như nào là đủ?
Việt-nam có câu tục ngữ có thể làm chỉ nam trong việc tiếp khách: “Thương người
như thể thương thân.” Nếu ta muốn được đối xử như nào khi đến nhà người khác,
hãy đi bước trước và đối xử với người khác như vậy. Hơn nữa, khi một người rộng
lượng cho đi, họ sẽ được Thiên Chúa bù đắp gấp trăm. Nhiều tác giả trong Tân Ước
vẫn căn dặn các tín hữu phải tập luyện và thi hành đức tính này (Rom 12:13; 1
Tim 5:10; Heb 13:2; 1 Pet 4:9).
Các
bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy những ví dụ của việc hiếu khách và những đền
đáp cụ thể. Trong bài đọc I, người phụ nữ thành Shunamite rộng lượng tiếp đón
ngôn sứ Elisha, dù chẳng biết ông là ai. Bà không chỉ dọn bữa, nhưng còn sửa dọn
một phòng với đầy đủ vật dụng cần thiết cho ngôn sứ khi ông đi ngang qua. Cảm
kích vì lòng hiếu khách của Bà, ngôn sứ đã dùng uy quyền của Thiên Chúa để cho
Bà có một người con trai trong lúc tuổi già. Trong bài đọc II, vì Đức Kitô đã đối
xử với chúng ta như một thượng khách, chúng ta cũng phải đáp lại bằng cách giũ
sạch các thói hư tật xấu trong cái chết của Ngài, để rồi cùng được sống lại với
Ngài trong vinh quang. Trong Phúc Âm, Đức Kitô đòi người môn đệ của Ngài phải
hy sinh, từ bỏ, và vác Thập Giá theo Ngài; đồng thời phải luôn biết mở rộng tâm
hồn để tiếp đón và giúp đỡ tất cả những ai cần đến, vì tất cả những gì một người
làm cho tha nhân là anh làm cho chính Ngài (Mt 25).
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang
năm, bà sẽ được bế con trai.”
1.1/
Tinh thần hiếu khách của người phụ nữ Shunamite: Như đã nói trong phần nhập đề, tinh thần hiếu
khách là một điểm son của các quốc gia vùng Cận Đông. Điều này được ghi nhận
nhiều lần trong Cựu Ước: Abraham tiếp đón 3 người khách tại Mamre (Gen
18:1-13); ông Lot tiếp đón hai sứ thần của Thiên Chúa tại Sodom (Gen 19:1-11);
người phụ nữ tiếp ngôn sứ Elijah (1 Kgs 17:1-15). Trong Tân Ước, chính Chúa
Giêsu đã dùng hình ảnh người bạn phải kiên nhẫn phiền hà hàng xóm ban đêm để
xin bánh dù bị từ chối ban đầu, để dẫn chứng việc phải kiên nhẫn cầu nguyện (Lk
11:5-8). Một trong những lý do con người phải hiếu khách là có thể họ đang tiếp
đón những sứ giả của Thiên Chúa gởi đến mà họ không biết (Heb 13:2). Hơn nữa, nếu
một tín hữu đọc những lời của Chúa Giêsu trong Matthew 25, họ phải hiếu khách
vì đây là tiêu chuẩn Thiên Chúa dùng để phán xét con người.
Người
phụ nữ thành Shunamite là một người giàu có. Bà không chỉ dọn bữa cho ngôn sứ
cho Elisha mỗi khi ông đi qua Shunamite; nhưng còn dọn riêng cho ông một căn
phòng để ở. Bà nói với chồng: “Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng
ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ
trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một
cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó.”
1.2/
Tinh thần hiếu khách của Bà được đền bù xứng đáng: Cảm kích về sự hiếu khách của
Bà, ngôn sứ Elisha đã dùng quyền Thiên Chúa để ban cho Bà một người con trai
trong khi cả hai vợ chồng Bà đều đã cao niên. Ông Elisha loan tin vui cho Bà:
“Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai.” Điều này không
lạ lắm nếu một người tin Thiên Chúa vẫn đang quan phòng mọi sự trong trời đất,
và Ngài có uy quyền làm được mọi sự.
2/ Bài đọc II: Anh em hãy coi mình như đã chết đối
với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô.
2.1/
Ý nghĩa của bí-tích Rửa Tội: Theo thánh Phaolô, bí tích Rửa Tội có tác động chính: Khi một người được
dìm mình trong nước là họ được cùng mai táng với Đức Kitô; và khi họ trồi lên
khỏi mặt nước là họ được cùng sống lại với Ngài. Ngài cũng cắt nghĩa thêm về
hai tác động này: Khi dìm mình xuống nước là các tín hữu lột bỏ con người cũ với
đầy những tội lỗi và đam mê xấu xa; khi trồi lên là các tín hữu mặc lấy Đức
Kitô với sự thánh thiện và tràn đầy ơn thánh của Người.
Vì Đức
Kitô đã hy sinh chịu chết để thánh hóa chúng ta, chúng ta cũng phải chết với
Người. Chết đây không phải là cái chết thể lý; nhưng là chết cho tội lỗi và mọi
tính hư nết xấu trong người. Hơn nữa, không phải chỉ chừa tội, người tín hữu
còn phải tập sống nhân đức; nếu không, các tội xưa lại tái phát, và người tín hữu
lại dần dần trở lại nếp sống khi chưa được Rửa Tội.
2.2/
Người tín hữu phải biết đáp trả tình yêu hy hiến của Đức Kitô: Đã nhận ơn là phải biết đền ơn.
Người tín hữu không chỉ nhận ơn nhưng là ơn cứu tử để được sống muôn đời; vì thế,
người tín hữu không thể để sự hy sinh xương máu của Đức Kitô dành cho họ ra vô
hiệu. Trái lại, họ phải cố gắng luyện tập nhân đức để càng ngày họ càng trở nên
đồng hình đồng dạng với Ngài.
Trong
tiến trình trở nên thánh thiện, người tín hữu không làm việc một mình vì họ đã
được Đức Kitô ban tặng Chúa Thánh Thần và 7 quà tặng của Ngài. Chúa Thánh Thần
sẽ hướng dẫn họ để nhận ra sự thật, ban sức mạnh để vượt qua những yếu đuối xác
thịt, và bảo vệ họ khỏi muôn điều nguy hại. Điều cần là họ phải cộng tác với
Chúa Thánh Thần để mưu cầu ích lợi cho riêng họ và cho mọi người.
Vì thế,
thánh Phaolô khuyên các tín hữu: “Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối
với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô.”
3/ Phúc Âm: Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy,
và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.
3.1/
Người môn đệ phải yêu mến Thiên Chúa hơn hết mọi người: Tại sao Thiên Chúa đòi con người
phải yêu Ngài trên hết tất cả: cha mẹ, vợ chồng, con cái? Lý do đơn giản vì
Ngài yêu thương chúng ta hơn hết tất cả những người đó. Thiên Chúa không những
tạo dựng hồn xác và thế giới cho con người sinh sống, Ngài còn cho Con Một nhập
thể để đền tội cho con người, để con người có thể sống hạnh phúc muôn đời bên
Ngài. Thiên Chúa đã từng so sánh tình yêu trổi vượt của Ngài dành cho con người:
Cho dù cha mẹ của ngươi có quên ngươi đi nữa, Ta cũng sẽ không quên ngươi (Isa
49:15). Rất nhiều người sau khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa đã phải
thốt lên: Quả thật! Không ai yêu tôi bằng Thiên Chúa. Lịch sử Cựu Ước đầy dẫy
những tấm gương con người dám hy sinh cha mẹ như ngôn sứ Elisha (1 Kgs 19:19-21);
hy sinh con trai duy nhất như tổ phụ Abraham, bà mẹ của Samuel (Gen 22:1-9; 1
Sam 1:27-28); hy sinh con gái như thủ lãnh Jephthah (Judg 11:30-35).
Tình
yêu chân thành đòi phải biểu tỏ ra bằng hành động, chứ không phải chỉ bằng lời
nói yêu thương. Thánh Anrê Phú Yên, tuy còn trẻ, nhưng đã thấu hiểu tình yêu của
Đức Kitô dành cho ngài; nên đã can đảm thốt lên những lời sau đây trước khi tử
đạo: “Phải lấy tình yêu đáp trả lại tình yêu, và phải lấy mạng sống đáp trả lại
mạng sống.” Có một sự nghịch lý trong cách sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa
và theo tiêu chuẩn của con người. Con người tìm bảo vệ mạng sống bằng bất cứ
giá nào; trong khi Đức Kitô dạy: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai
liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” Và Ngài mặc khải cho
chúng ta một ví dụ: “Amen! Amen! Thầy nói với anh em, nếu hạt giống rơi xuống đất
không chết đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ trổ sinh
nhiều hạt giống khác.” Vì thế, nếu một người chịu hy sinh chết cho mình để sống
cho người khác, người đó mới thực sự sống và làm cho tha nhân được sống; ngược
lại, nếu một người chỉ biết ích kỷ sống cho mình, họ sẽ bị cô đơn và cũng chẳng
giúp cho ai được sống.
3.2/
Các Kitô hữu phải có tinh thần hiếu khách và thương người: Chúa Giêsu liệt kê 3 loại người
mà các Kitô hữu phải đón nhận với tinh thần hiếu khách.
(1)
Chúa Giêsu đồng hóa mình với người môn đệ: Động từ “dékomai” mang nhiều
ý nghĩa khác nhau. Ý nghĩa căn bản là tiếp nhận hay đón nhận nếu là một đồ vật
hay một sứ điệp. Nếu là một người, động từ có nghĩa đón tiếp một người với lòng
hiếu khách. Đón tiếp một con người khác với tiếp nhận một món hàng, vì con người
có nhân phẩm và phải được đối xử tương xứng với phẩm giá con người.
Chúa
Giêsu mặc khải cho chúng ta một chân lý quan trọng: “Ai đón tiếp anh em là đón
tiếp Thầy.” Người môn đệ là người được Đức Kitô sai đi cách chính thức. Theo
cách thức ngoại giao, ai tiếp nhận người môn đệ hay sứ điệp của người môn đệ là
tiếp nhận chính Đức Kitô; ngược lại, ai từ chối không tiếp nhận người môn đệ
hay sứ điệp của người môn đệ là từ chối chính Đức Kitô. Chúa Giêsu đi xa hơn nữa:
“và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” Đức Kitô được Thiên Chúa
sai đi, và là người ngang hàng với Thiên Chúa; vì thế, ai tiếp nhận người môn đệ
là tiếp nhận chính Thiên Chúa.
(2)
Chúa Giêsu đồng hóa với ngôn sứ và người công chính: Nhiều người hỏi chúng tôi:
Nếu con ủng hộ vào công việc cha đang làm, chúng con sẽ được hưởng những gì?
Đây là câu trả lời từ Chúa Giêsu: “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn
sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người
công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành
cho bậc công chính.” Nói một cách cụ thể hơn, nếu người ngôn sứ cứu vớt được một
linh hồn, người giúp cho ngôn sứ có phương tiện hoạt động cũng được hưởng phần
thưởng của một linh hồn được cứu vớt.
(3)
Chúa Giêsu đồng hóa với người nghèo: Sau cùng, Chúa Giêsu tóm gọn trong đức bác
ái căn bản của Kitô Giáo: “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ
một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em,
người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” Chúng ta không thể làm được gì cho
Thiên Chúa vì Ngài đã có tất cả; nhưng Ngài kể tất cả những gì chúng ta làm cho
anh/chị/em cần đến, là chúng ta làm cho chính Ngài. Trong chương 25 của Tin Mừng
Matthew, Chúa Giêsu giải thích điều này cách rõ ràng nhất.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
–
Chúng ta hãy học tinh thần hiếu khách của người xưa để chào đón và lo mọi sự
chu đáo cho tất cả những ai dừng chân ghé lại thăm nhà của chúng ta. Đừng để bất
cứ một ai ghé thăm chúng ta một lần rồi không bao giờ trở lại nữa.
– Đức
Kitô đã chết cho chúng ta và Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta trong Nhà của
Cha Ngài, rồi sẽ trở lại đón chúng ta để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đấy. Chúng
ta hãy báo đáp công ơn của Ngài cách xứng đáng bằng cách sống thánh thiện và
thương yêu mọi người.
– Tất cả
những gì chúng ta làm cho tha nhân, Thiên Chúa kể là làm cho chính Ngài. Chúng
ta hãy mở rộng tâm hồn để giúp đỡ và hy sinh mọi sự cho tha nhân. Hãy làm tất cả
với một tình yêu chân thành.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
28/06/2020 – CHÚA NHẬT TUẦN 13 TN – A
Mt 10,37-42
LIỀU VÌ YÊU
“Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng
sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10,39)
Suy niệm: Trong khi đại dịch Covid-19 lan
tràn khắp thế giới làm mọi người lo lắng, sợ hãi, vẫn có nhiều linh mục, tu sĩ
liều mình dấn thân phục vụ các bệnh nhân và các gia đình. Nhiều vị bị nhiễm bệnh,
thậm chí nhiều vị đã mất mạng trong khi đang phục vụ giữa đàn chiên, nuôi dưỡng
đức tin người tín hữu theo gương “liều” của Thầy Giê-su. Khi nhập thể làm người,
Con Thiên Chúa cũng đã “liều lĩnh”: “liều” mình xuống thế, “liều” thân ở
với con người, “liều” mạng khi chọn Nhóm Mười Hai, “liều” chết vì yêu. Cái “liều
vì yêu” đó vẫn mãi mãi là điểm quy chiếu của mọi hình thức “liều vì yêu” mà các
môn đệ của Thầy Giê-su qua mọi thời đại hiến thân cho Thiên Chúa và phục vụ con
người.
Mời bạn: Cùng với các linh mục, tu sĩ,
còn có rất nhiều y sĩ, bác sĩ, các thành phần xã hội, cũng như cộng đoàn dân
Chúa dấn thân trong cuộc chiến chống dịch bệnh. Họ được thúc bách bởi nhiệm vụ,
tình yêu đồng loại, cũng như của Tin Mừng. Chính khi “liều vì yêu,” họ chứng tỏ
tình yêu hiến dâng vì một lời mời gọi “ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì
sẽ tìm thấy được.” Khi bạn dám “liều vì yêu,” thập giá đời bạn sẽ nhẹ vơi đi và
trở nên đáng yêu hơn.
Chia sẻ: Bạn có trải nghiệm “liều vì
yêu” trong đời sống gia đình, trong công việc, đời sống cộng đoàn thế nào?
Sống Lời Chúa: Khi được
chọn giữa hai việc phục vụ, bạn chọn việc giúp bạn giống Chúa Giê-su chịu đóng
đinh hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bước theo lời mời
gọi của Chúa thật chẳng dễ dàng chút nào. Xin ban thêm niềm tin yêu hy vọng, để
con tiến bước mỗi ngày trên con đường mến yêu và phục vụ. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Xứng với Thầy
(28.6.2020 – Chúa nhật 13 thường niên năm A)
Suy Niệm
Hai mươi sáu năm trời, vác một cây thánh giá gỗ,
dài 3,6m, ngang 1,8m, nặng 18 kg,
vượt qua 50,140 km, 227 quốc gia, 7 lục địa:
đó là điều mục sư Arthur Blessit đã làm từ Noel 1969.
Ông là người giữ kỷ lục đi bộ quãng đường dài nhất.
“Tôi đã đi qua các sa mạc, rừng rậm,
đã từng bị tấn công bởi voi, rắn, cá sấu.
Tôi đã bị bắt giam 21 lần và suýt bị hành hình…”
Chỉ còn 50 nước ông chưa đặt chân tới.
Ông hy vọng sẽ hoàn tất chuyến đi này trước năm 2000.
Như vậy ông sẽ là người đầu tiên
đưa thánh giá đi khắp mọi nơi trên thế giới.
Cử chỉ của ông làm chúng ta suy nghĩ.
Vác thánh giá là chấp nhận nặng nề và bấp bênh,
nặng nề vì khúc gỗ trên vai, bấp bênh vì nguy hiểm.
Ðức Giêsu mời gọi các môn đệ
vác thánh giá của mình mà theo Ngài.
Chẳng có con đường nào tốt hơn con đường Ngài đã đi.
Con đường khó nghèo, khiêm hạ ở Bê-lem và Na-da-rét.
Con đường rao giảng trong nhọc nhằn ở phần đất xứ Galilê.
Con đường đầy đe dọa hiểm nghèo khi lên Giêrusalem.
Con đường hiến mình khi vác thánh giá lên Núi Sọ.
Chúng ta được mời gọi đi theo Ngài trên các con đường ấy,
hay đúng hơn đi theo Ngài trên nẻo đường của đời mình,
không cô đơn thất vọng, vì biết nơi mình sắp đến.
Thánh giá của chúng ta không phải là khúc gỗ,
nhưng là những gì ta phải từ bỏ, dù rất yêu mến,
những người ta phải yêu mến, dù rất muốn từ bỏ.
Chúng ta chỉ vác nổi thánh giá của mình
nếu chúng ta dám yêu thực sự.
Chỉ khi yêu mến Thiên Chúa và tha nhân,
chúng ta mới dám quên mình, bỏ mình, mất mình, hiến mình.
Ðiểm mới mẻ của Tân Ước là tình yêu đối với Ðức Giêsu.
Ngài đòi ta phải yêu Ngài hơn cha mẹ, hơn con cái.
Ngài còn đòi ta chịu mất mạng vì Ngài.
Nếu Ðức Giêsu không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa,
nếu Ngài đã không chết vì chúng ta trước,
thì Ngài chẳng có quyền đòi hỏi những hy sinh như vậy.
Trải qua 20 thế kỷ, biết bao thế hệ Kitô hữu
đã dám sống đến cùng tình yêu ấy.
Truyền giáo không phải chỉ là thông truyền đức tin
mà còn là thông truyền tình yêu,
là làm cho Ðức Giêsu được mọi người yêu mean.
Nhưng trước hết, chúng ta phải cảm nghiệm được Tình Yêu
để cả cuộc đời ta là lời đáp cho Tình Yêu,
là cuộc sống sao cho xứng với Thầy (c.37.38).
Ước gì chúng ta yêu Ðức Giêsu trên mọi sự,
yêu mọi sự trong Ngài và dưới Ngài,
chấp nhận mất cái tôi nhỏ mọn, để được cái tôi triển nở.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Ðược như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
Kinh dâng hiến của
thánh I-Nhã
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
28 THÁNG SÁU
Sự Quan Phòng Của
Thiên Chúa: Một Xác Nhận Nền Tảng
Việc tách biệt công cuộc sáng tạo khỏi sự quan phòng thần linh (thuyết tự
nhiên thần giáo) và việc phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu của Thiên Chúa (thuyết
duy vật) mở ngõ cho sự sai lầm của thuyết tất định duy vật (materialistic
determinism). Ở đây con người và đời sống của con người trở thành hoàn toàn phụ
thuộc vào một tiến trình phi ngã. Đối đầu với những tấn công này, chân lý về sự
hiện hữu của Thiên Chúa và về sự quan phòng thần linh của Ngài giúp bảo đảm cho
con người sự tự do và chỗ đứng của mình trong vũ trụ.
Chúng ta nhận thấy sự thật này được khẳng định trong Cựu Ước. Chẳng hạn,
Thiên Chúa được xem như một sự đỡ nâng mạnh mẽ và không gì có thể tiêu diệt được:
“Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành
lũy, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn,
là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ!” (Tv 18, 2-3).
Thiên Chúa là nền tảng vững chắc để con người có thể tựa vào, như lời tác giả
thánh vịnh thốt lên đầy xác tín: “Lạy Chúa, số mạng con, chính Ngài nắm giữ”
(Tv 16, 5).
Sự quan phòng của Thiên Chúa là lời xác nhận hùng hồn của Ngài đối với tạo
vật, nhất là đối với con người – triều thiên của mọi tạo vật. Sự quan phòng ấy
đảm bảo quyền cai quản tối cao của con người trong thế giới này. Điều này không
có nghĩa rằng các qui luật tự nhiên bị quyền cai quản tối cao của con người xóa
bỏ. Trái lại, nó có nghĩa rằng chúng ta phải loại trừ thuyết tất định duy vật
kia – một chủ thuyết giảm trừ toàn bộ sự hiện hữu của con người đến chỉ còn như
một cái gì hoàn toàn tất định. Trong thực tế, một cái nhìn như vậy sẽ hủy diệt
sự tự do chọn lựa của con người.
Thiên Chúa – trong sự quan phòng của Ngài – chính là sự đỡ nâng tối thượng
cho sự tự do của chúng ta. Đó là điều tốt lành và quí hóa biết bao!
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 28/6
Chúa Nhật VIII Thường
Niên
2V 2,2.0-14.18-19;
Rm 6, 3-4.8-11; Mt 10, 37-42.
Lời Suy Niệm: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy; Ai yêu con trai,
con gái hơn Thầy, thì không xứng với
Thầy.”
Chúa Giêsu đang
đòi hỏi người môn đệ của Chúa phải biết đặt hết mọi ưu tiên cho Người. Bởi vì
người môn đệ sẽ tiếp bước đi theo con đường của Người, là rao giảng và làm chứng
Tin Mừng Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu.
Chúa đã không sống cho mình, nhưng sống vì Chúa Cha, vâng phục Chúa Cha: “Vâng
phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.” Xin ban Thần Khí Chúa trên
chúng con, giúp cho chúng con luôn sống đúng sự đòi hỏi của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 28-06: Thánh
IRENÊ
Giám mục, Tử Đạo
(Thế kỷ II)
Thánh Irenê sinh tại Tiểu Á và giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được phần
nào ngày sinh của Ngài, dựa vào bản tường thuật Ngài viết về thánh Policarpô.
Ngài viết cho Flôrinô:
– “Tôi có thể nói với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài rao giảng lời
Chúa, tôi được thấy Người ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống và lời Ngài
nói in sâu vào lòng tôi. Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách người đàm luận
với thánh Gioan và các tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói lại cho chúng
tôi những lời nói và những điều các Ngài đã học được liên quan đến Chúa Giêsu.
Các phép lạ và giáo thuyết của Chúa.
Thánh Irenê còn phấn khởi ghi thêm: – “Tôi ghi nhận các hành vi và lời
nói ấy không phải trên bảng viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn. Thiên Chúa cho
tôi được ơn không ngừng nhớ lại những kỷ niệm ấy trong lòng”.
Như vậy, thánh Irenê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh Policarpô
qua đời năm 155. Vậy có thể là thánh Irenê ra đời khoảng từ năm 130 đến 135, và
Ngài được giáo dục tại Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ nền giáo
dục gần với các tông đồ. Nhất là với thánh Gioan, thánh Irenê còn ở trong vòng
ánh sáng mà tâm điểm là tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa Kitô. Trong
tác phẩm dài “Adversus Haereses” của Ngài. Chúng ta cảm thấy Ngài là người được
thấm nhiễm một trực giác hiếm có.
Thánh Pôlicarpô gọi Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô, giám mục
Lyon phong chức linh mục cho Ngài. Phần đóng góp của thánh Irenê cho Giáo hội
thật lớn. Ngài chú tâm tới mọi khoa học, chuyên cần suy gẫm thánh kinh. Khi
nghiên cứu huyền thoại và các hệ thống triết học ngại giáo, Ngài biết tìm ra
nguồn gốc các sai lầm và bác bỏ các lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào Kitô
giáo. Tertulianô đã tuyên nhận rằng không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là thánh
Irênê. Thánh Hiêrônimô, nại đến thánh nhân để củng xố uy tín của mình. Ngài được
coi như là ánh sáng các vùng Gaules ở Phương Tây.
Năm 177, thánh Irenê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức giáo
hoàng để thực hiện một sứ mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ phục sinh
Trở lại Lyon, thánh Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô Aureliô vừa
mới giết hại các Kitô hữu. Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh Irenê được bầu
lên kế vị. Ngài trở thành thủ lãnh Giáo hội tại xứ Gaule, bận rộn với công việc
rao giảng, thánh nhân vẫn viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải chiến đấu
không ngừng, bởi vì cuộc bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô qua đời,
nhưng các lạc giáo lại nổi lên chống phá Giáo hội.
Thánh Irenê dùng hết tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết nhưng vẫn
yêu thương những lẻ lầm lạc, Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về với Giáo
hội thật:
– “Hợp nhất với Chúa là sự sống và là Sự sống …. Khốn khổ cho ai lìa xa sự
hợp nhất ấy. Hình phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà do chính họ, vì
khi chọn quay mặt khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản”.
Các tác phẩm lừng danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đang được gọi là “Anh
sáng bên trời Tây”.
Dưới sự dẫn dắt của thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy phụng sự
Chúa đào tạo nhà tri thức và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên của trường
đã bảo vệ đức tin tinh tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ. Thế hệ thứ
hai phổ biến Tin Mừng đến những miền khác.
Hoàng đế Seltinô – Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình cho đến chết
những ai kiên trì với đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm xác tập thể
các Kitô hữu thật khủng khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố tiếp nối dòng
máu các giám mục tử đạo, thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn chiên mình. Một
tài liệu cố tìm được cho thấy có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu khổ chịu chết
vì đạo với Ngài.
(daminhvn.net)
28 Tháng Sáu
Ngợi Khen Con Người
Trong tập thơ có tựa đề “Nhật ký”, nữ thi sĩ công giáo Pháp là Marie Noel
đã tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Hôm đó là ngày cuối năm. Từ trên
Thiên Quốc nhìn xuống dương trần, Chúa thấy dân chúng đổ xô về một ngôi nhà thờ
đổ nát, không có chuông, cũng chẳng có tháp chuông. Vị linh mục già đành phải
khua mõ vào bất cứ đồ vật nào có thể gây ra tiếng vang để giục giã dân chúng đến
giáo đường đọc Kinh “Te Deum” ngợi khen Cúa nhân ngày cuối năm.
Trời mưa lạnh như cắt. Vậy mà, từ khắp nơi trong xóm giáo, người ta vẫn đổ
xô về ngôi giáo đường. Chúa theo dõi từng cử động một của một người đàn bà đơn
độc mà ngôi nhà vừa bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn. Chúa lại nhìn thấy một
thiếu phụ mà cách đó không lâu bọn Ðức Quốc Xã đã tước đoạt mọi tài sản. Một
người đàn bà khác, mà chồng đã bị giết trước mắt, cũng lặng lẽ tiến đến nhà thờ.
Có cả thiếu phụ mất con mà người ta không tìm ra tung tích. Có cả người đàn ông
mà vợ và con bị chôn vùi dưới đống gạch vụn… Còn bao nhiêu người khốn khổ khác
nữa. Họ không biết đi đâu, họ không có gì để ăn bởi vì quân thù đã đốt phá và
cướp đi tất cả những lương thực dự trữ.
Vậy mà những người khốn khổ ấy có mặt đày đủ trong ngôi giáo đường. Có một
vài tiếng khóc. Nhưng tất cả đều cất tiếng hát bài “Te Deum” ngợi khen Chúa
trong ngày cuối năm vì những ơn huệ Ngài ban trong năm qua.
Nhìn thấy cảnh tượng ấy cũng như lắng nghe lời ca ngợi của những con người
khốn khổ, Thiên Chúa vô cùng cảm động. Ngài nói với các Thiên Thần như sau: “Quả
thực, quả thực, Ta bảo các ngươi: con người là loài thụ tạo thánh thiện. Các
ngươi hãy nhìn xuống đám người đáng thương kia. Cách đây 12 tháng, họ đã phó
dâng cho Ta cả năm để được hạnh phúc, an khang. Vậy mà tai ương và thảm sầu đã
xảy đến với họ… Họ đã kêu cầu bình an, nhưng chiến tranh đã đè bẹp họ. Họ đã
xin lương thực hằng ngày, nhưng họ chỉ toàn gặp là đói khát. Họ đã phó dâng cho
ta gia đình, người thân và tổ quốc của họ, nhưng tổ quốc, gia đình và người
thân của họ lại bị xâu xé trăm bề. Dĩ nhiên, Ta có những lý do riêng của Ta… Ta
không thể thanh tẩy thế giới mà không thể thử thách nó như thời Noe. Nhưng đây
là công việc của một Thiên Chúa, không ai có thể hiểu được việc Thiên Chúa làm.
Nhưng con người lại phải gánh chịu mọi sự. Vậy mà họ vẫn tiếp tục ngợi khen và
cảm tạ Ta cứ như Ta đã bảo vệ họ trong từng phút giây của cuộc sống họ… Quả thực,
lòng tin của họ lớn lao… Các ngươi có nghe họ hát “Thánh, thánh” với tất cả
trang trọng không? Hỡi các Thiên Thần và các Thánh, nào các ngươi hãy hát lên một
bài ca để tôn vinh những ai, mặc dù gặp gian lao khốn khó, vẫn lên tiếng tôn
vinh Ta”.
Nói xong, Thiên Chúa cùng với các thần thánh trên trời cất lên bài ca “Ngợi
khen con người”.
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài không thể không say mê con người, Ngài không
thể không chung thủy với con người. Giữa muôn ngàn khó khăn của cuộc sống hiện
tại và những khắc khoải lo âu cho tương lai, chúng ta hãy tiếp tục dâng trọn niềm
tín thác cho Thiên Chúa.
Tin tưởng ở tình yêu Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng ở tình người. Tình
người dù có bội bạc, mỗi một con người, dù có đốn mạt, xấu xa đến đâu, cũng vẫn
còn chất chứa trong đáy thẳm tâm hồn mình vẻ đẹp cao vời phản ảnh chính tình
yêu của Thiên Chúa. Ðáp lại với những phản trắc lừa đảo, đáp lại với những thấp
hèn đê tiện, người có niềm tin nơi Thiên Chúa và tin ở tình người hãy giữ mã.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét