29/06/2020
Thứ Hai tuần 13 thường niên
THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ, TÔNG ĐỒ.
Lễ Trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân
* Thánh Phêrô và thánh Phaolô không giống nhau về tính khí, cũng không giống
nhau về phạm vi hoạt động. Hoàn cảnh các vị gặp Chúa đã tạo nên nét đặc biệt
cho sứ vụ tông đồ của mỗi vị. Rồi tài ba của thánh Phaolô quả là có một không
hai trong Kitô giáo.
Nhưng hai vị
liên kết với nhau nhờ lòng tin sâu xa và lòng yêu mến nhiệt thành đối với Đức
Kitô. Các vị đã đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô tại Rôma; có lẽ thánh
Phêrô năm 64 và thánh Phaolô năm 67.
BÀI ĐỌC I: Cv
12, 1-11
“Bây giờ tôi
biết thật Chúa đã cứu tôi khỏi tay Hêrôđê”.
Trích sách
Tông đồ Công vụ.
Trong những
ngày ấy, vua Hêrôđê làm khổ mấy người trong Hội thánh. Ông đã dùng gươm giết
Giacôbê anh của Gioan. Ông thấy việc ấy đẹp lòng người Do-thái, nên lại cho bắt
cả Phêrô. Bấy giờ là ngày lễ Bánh Không Men. Bắt được người, vua cho tống ngục,
giao cho bốn đội binh, mỗi đội bốn người canh giữ, có ý đợi sau lễ Vượt Qua, sẽ
điệu người ra cho dân. Phêrô bị giam trong ngục, nhưng Hội thánh vẫn luôn luôn
cầu nguyện cùng Chúa cho người. Đến khi vua Hêrôđê sắp điệu người ra, thì đêm ấy,
Phêrô phải mang xiềng xích, nằm ngủ giữa hai tên lính, và có quân canh giữ trước
cửa ngục. Bỗng có thiên thần Chúa đứng kề bên, một luồng ánh sáng chiếu giãi
vào ngục; thiên thần đập vào cạnh sườn Phêrô, đánh thức người dậy mà rằng: “Hãy
chỗi dậy mau”. Xiềng xích liền rơi khỏi tay người. Thiên thần bảo người rằng:
“Hãy thắt lưng và mang giày vào”. Người làm y như vậy. Thiên thần lại bảo rằng:
“Hãy khoác áo vào mà theo ta”.
Người liền đi
ra theo thiên thần, mà chẳng biết việc thiên thần làm có thật chăng, người tưởng
như trong giấc mộng. Qua khỏi chặng thứ nhất và chặng thứ hai, thì đến cửa sắt
thông ra thành. Cửa ấy tự nhiên mở ra. Thiên thần và Phêrô rảo qua một phố nọ,
rồi thiên thần biến đi. Phêrô hoàn hồn và nói rằng: “Bây giờ tôi biết thật Chúa
đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33,
2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Đáp: Chúa đã
cứu tôi khỏi điều lo sợ (c. 5b).
Xướng:
1) Tôi chúc tụng
Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hÄng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn
tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. – Đáp.
2) Các bạn hãy
cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa,
Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ. – Đáp.
3) Hãy nhìn về
Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu
cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. – Đáp.
4) Thiên Thần
Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn
hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai
tìm nương tựa ở nơi Người. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 2 Tm
4, 6-8. 17-18
“Từ đây triều
thiên công chính đã dành cho cha”.
Trích thư thứ
hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến,
phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong
trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây
triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét
chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà
thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Nhưng có Chúa phù
hộ giúp sức cho cha, để nhờ cha, việc giảng đạo nên trọn, và tất cả Dân Ngoại
được nghe giảng dạy: và cha đã thoát được khỏi miệng sư tử. Nguyện cho Người được
vinh quang muôn đời. Amen. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 16,
18
Alleluia,
alleluia! – Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa
ngục sẽ không thắng được. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 16,
13-19
“Con là Đá, Thầy
sẽ trao cho con chìa khoá nước trời”.
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa
Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo
Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là
Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với
các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy
là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Chúa Giêsu trả
lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu
huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho
con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục
sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc
dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng
cởi mở”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Một đức
tin
Hôm nay cùng với
Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành lễ trọng kính thánh Phêrô và Phaolô, lễ
này cũng là dịp giúp chúng ta chiêm ngắm gương sống đức tin của các Ngài. Các
Ngài là hai con người khác nhau, nhưng đón nhận cùng một đức tin từ Thiên Chúa,
nhưng các Ngài đã vượt qua và ra đi rao giảng đức tin của mình.
Đức tin được đón nhận
Chúng ta thấy
Phêrô và phaolô hai người có hai hoàn cảnh, hai địavị, hai trình độ… hoàn toàn
khác nhau nhưng các Ngài cùng đón nhận một đức tin duy nhất đến từ Thiên Chúa.
Phêrô là người chài lưới, ông rất hăng say, nhiệt tình và có một tâm hồn nhạy cảm.
Ông không ngần ngại, không suy nghĩ đắn đo gì, đã bỏ tất cả mọi sự theo Chúa
khi Chúa gọi, điều này cho chúng ta thấy rất rõ Phêrô cảm nghiệm bằng tình yêu
nhanh hơn lý trí. Phêrô tin và theo Chúa với tất cả lòng nhiệt thành của mình
và niềm tin đó được tuyên xưng cách mạng mẽ rõ ràng: “Thầy là Đức Kitô Con
Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này thật chính xác, vượt quá mọi hiểu biết
và suy tư con người, đây là lời tuyên xưng về bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu
này chính là chỉnh cao trong đời sống niềm tin của Phêrô. Có thể là đại diện
cho nhóm mười hai, nhưng đây cũng là lời tuyên xưng cho chính Phêrô. Chúa Giêsu
xác định lời tuyên xưng này do Chúa Cha mạc khải nên Phêrô mới biết được: “Anh
thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng
là Cha Thầy Đấng ngự trên trời”.
Với Phaolô, ông
là người biệt phái đã từng bách hại môn đệ Chúa, thái độ đó được biểu lộ khi
ông đồng tình trong vụ ném đá Stêphanô. Đang khi ông hăng say phi ngựa trên đường
Damas để bắt đạo, Phaolô được Chúa Kitô Phục sinh gọi và thanh luyện, một quầng
sáng đã bao ttrùm ông, khiến ông bị mù lòa đôi mắt thân xác sau khi ngã ngựa,
nhưng đồng thời quầng sáng ấy đã mở cho ông cặp mắt đức tin, ông đã thực sự tin
tưởng vào một Đức Giêsu chịu đóng đinh và sống lại, là chính Đấng mà Phaolô
đang bắt bớ trở thành Đấng mà “không ai và không gì có thể tách ông ra khỏi
lòng mến của Ngài”.
Rõ ràng Phêrô
và Phaolô đã đón nhận đức tin trực tiếp từ Đức Giêsu Kitô, còn chúng ta đã đón
nhận đức tin gián tiếp qua cha mẹ, Giáo hội …dù khởi đi từ nguồn nào điều đó
không quan trọng cho bằng chính thái độ đón nhận của ta, đức tin đo có gắn liền
với chích con người mình hay không? Một khi đón nhận cách chân thành, thì chắc
chắn chúng ta cũng bị thử thách như Phêrô và Phaolô đã từng bị thử tháh.
Đức tin bị thử thách
Mặc dù Phêrô và
phaolô tin Chúa rất mãnh liệt, nhưng đức tin các Ngài cũng không ngừng bị thử
thách. Đức tin Phêrô còn phải là nên tảng nâng đỡ đức tin Giáo hội, nên đức tin
đó bị thử thách rất nhiều. Phêrô đã từng tin vào Chúa, nhưng mới trước được
Chúa khen tặng là đá tảng thì liền sau đó bị Chúa quở trách là Satan hãy lui
ra, đã có lần thề hứa “dù phải chết với Thầy con không chối Thầy” mới hứa đó
thì liền sau đó ba lần chối Chúa, mới phút trước ung dung bước đi trên ngọn
sóng thì phút sau bị chìm vì nghi ngờ. Rỡ rằng là nhiều khi Phêrô nói mà chẳng
hiểu mình nói gì, và chính cuộc tử nạn và cái chết của Đức Giêsu là một thử
thách có tính quyết định đối với niềm tin của Phêrô. Cuộc đời theo Chúa của
Phêrô đã sa ngã biết bao nhiêu lần trước khi trở thành đá tảng vững chắc, trên
đó Đức Giêsu Kit xây dựng Hội thánh Người. Phêrô chỉ có thể nâng đỡ Đức tin cho
anh em sau khi trở lại từ kinh nghiệm yếu đuối sa ngã của mình.
Và Phaolô cũng
bị thử thách “năm lần bị người Do thái đánh 40 roi bớt một, ba lần bị đắm tàu,
ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, một đêm một ngày lênh đênh trên biển
khơi”, ngoài ra ông còn gặp nhiều khó khăn nguy hiểm trong các cuộc hành trình
phải chịu đói khát, rét lạnh… cho dù những nguy hiểm ấy ngày đêm cứ bám chặt
vây bủa lấy ông thay vì chùng bước, nhưng niềm tin vào Đấng Kitô Phục sinh qua
mạnh nên ông coi những việc xảy ra cho ông không quan trọng. Ong chỉ có một mối
bận tâm ray rứt là lo cho tất cả Hội Thánh vì lòng yêu mến và nhiệt thành nhà
Chúa “tình yêu Chúa Kitô thức bách tôi”. Ông coi sự sống của ông không phải là
củ ông mà của đấng đã gọi chọn ông, đến độ ông thốt ra: “Tôi sống nhưng không
phải là Tôi sống mà là Đức Kitô sống trong Tôi”.
Khi nhìn lại cuộc
sống, chắc chắn ai cũng đã hoặc đang ít nhất một lần trải qua những đau khổ
như: nghèo đói, bệnh tật, thất vọng… Trước những nghịch cảnh đó chúng ta có đứng
vững hay bị chao đảo nghi ngờ đức tin? Nếu vẫn còn một niềm tin sắc con thì hãy
làm chứng đức tin của mình cho người khác như mẫu gương của Phêrô và Phaolô.
Đức tin được rao giảng
Phêrô và phaolô
là hai khuôn mặt lớn trong việc rao giảng Tin Mừng. Cuộc đời Phêrô sau khi gặp
những thử thách thay vì nhút nhát là một dạ can trường, thay vì chao đảo là một
lòng xác tín. Sau khi Thánh Thần hiện xuống ông là người đầu tiên công khai rao
giảng Tin Mừng Chúa Cứu Thế cho mọi người, đặc biệt là người Do tháij. Khi Chúa
Giêsu đặt ông làm đá tảng Hội Thánh ông đã sống đúng với chức vị của mình, ông
làm chứng và rao giảng hết sức hùng hồn về Đức Giêsu Kitô bị giết và đã sống lại
từ cõi chết “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã cho
Người trỗi dậy từ cõi chết, chúng tôi xin làm chứng”.. Phêrô cũng cho thấy
chính Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất cho nhân loại, chỉ có nơi Ngài mới có được
ơn cứu độ: “dưới gầm trời này có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để
chúng ta nhờ đó mà được cứu độ”. Quả thật ông là đá tảng vững vào trong mọi
sóng gió, những điều ông rao giảng đã chứng minh bằng cái chết của ông tại
Rôma.
Còn Phaolô, sau
khi gắn bó với Chúa Kitô một cách mật thiết, ông đã lao mình về phía trước như
một vận động viên, và dùng chính sự nhiệt thành của mình đi bất cứ nơi đâu vào
bất cứ ngóc ngách nào, bất chấp mọi gian khổ tù đày do quyền bính trần thế gây
ra, miễn là từ cánh đồng dân ngoại đem về cho Chúa các linh hồn. Phaolô cũng
dùng chính khả năng tri thức của mình để trở nên lợi khí phổ biến Tin Mừng cho
những vùng đất mới, coi việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận và niềm hạnh phúc của
mình: “Vô Phúc cho tôi nêu tôi không rao giảng về Đức Kitô”, ông không hổ thẹn
về Tin Mừng bở vì Tin Mừng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, đến với những
người tin.
Ta thấy rõ
Phêrô và Phaolô liên kết trong niềm tin, lòng mến Chúa Kitô và Giáo hội, Phaolô
luôn hướng về Phêrô như nền tảng cho niềm tin và thế giá Tin Mừng mà ông rao giảng.
Nền tảng Pherô cũng là định hước cuộc tiến bước trong đức tin và đảm bảo sự thống
nhất dân Chúa trong lòng mến. Điều mà minh chứng hùng hồn nhất đức tin của
Phêrô và Phaolô rao giảng đó là việc hai Ngài cùng hội tụ tại Rôma để làm chứng
cho Chúa Kitô bằng chính máu đào của mình. Phêrô và Phaolô đã làm thành khuôn mẫu
cho việc rao giảng niềm tin cho mọi người.
Còn chúng ta,
khi đứng trước một thế giới dường như mất cảm thức về tội, quá nhiều người chưa
biết và không tin Chúa, chúng ta có dám sống và giới thiệu một Đức Giêsu Kitô
đã chết và sống lại như Phêrô và phaolô không? chúng ta hãy cố lên, can đảm
minh chứng đức tin của mình vì chỉ có nơi Đức Giêsu Kitô con người mới được cứu
độ.
Sự khác biệt giữa
hai cuộc đời, hai quá khứ của Phêrô và phaolô, đã nối thành một, bởi một sởi chỉ
vào “Đức tin vào Thiên Chúa”.
Chúng ta mỗi
người tuy khác nhau, nhưng có cùng một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Chúng ta
hãy sống liên đới hiệp nhất với nhau, kiên vững trong đức tin, xẵng sàng minh
chứng đức tin của mình qua đời sống cụ thể hằng ngày, điều đó chỉ thực hiện được
khi mỗi người biết siêng năng cầu nguyện, múc lấy nguồn sức mạnh nơi bí tích
Thánh Thể, luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô, để lời tuyên xưng của
Phêrô trở thanh kinh nghiệm riêng cho mỗi người: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết
theo ai?”.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Trọng: Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ
(ngày 29 tháng 6)
Bài đọc: Acts 12:1-11; 2 Tim 4:6-8, 17-18;
Mt 16:13-19.
GIỚI THIỆU
CHỦ ĐỀ: Trung
thành làm chứng nhân cho Thiên Chúa tới cùng.
Hội Thánh được xây dựng vững chắc trên hai cột trụ; vì nếu chỉ xây trên một cột
trụ, sẽ không đứng vững, giống như người chỉ có một chân. Phêrô rao giảng cho
dân Do-thái, Phaolô rao giảng cho Dân Ngoại. Phêrô lo tổ chức và bảo vệ Hội
Thánh, Phaolô lo phát triển và bành trướng Hội Thánh.
Các bài đọc hôm nay nói lên sự lựa chọn, bảo vệ, và ban ơn của Thiên Chúa dành
cho hai ông. Trong bài đọc I, Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật việc thiên sứ giải
thoát Phêrô khỏi ngục tù. Trong bài đọc II, Phaolô xác quyết nhờ sức mạnh của
Thiên Chúa, ông đã chiến đấu một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường, và
đã trung thành giữ vững đức tin. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô được Thiên Chúa
soi sáng để nhận ra và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, Ngài đã chính thức thiết
lập Giáo Hội trên Đá Tảng Phêrô; và Ngài hứa sẽ bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi quyền
lực của thế gian và ma quỷ.
KHAI TRIỂN
BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Phêrô được thiên sứ giải thoát khỏi
ngục tù.
1.1/ Giáo Hội bị bách hại: Chúa Giêsu đã báo trước cho các tông-đồ: “Tôi tớ
không trọng hơn chủ và môn đệ không hơn Thầy. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ
bắt bớ anh em.” Sau khi Chúa Giêsu về trời, Giáo Hội tại Jerusalem bị bắt bớ dữ
dội, bắt đầu bằng cuộc tử đạo tiên khởi của phó tế Stephanô. Trình thuật hôm
nay liệt kê cuộc bắt bớ của vua Herode: “Thời kỳ ấy, vua Herode ra tay ngược
đãi một số người trong Giáo Hội. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông
Gioan. Thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông
Phêrô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. Bắt được rồi, nhà vua truyền
tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ
Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng.”
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Họ sẽ giết chủ chăn và đoàn chiên sẽ
tan tác.” Phêrô, Giacôbê, và Gioan được coi như những môn đệ thân tín nhất của
Chúa Giêsu; giờ đây Giacôbê đã bị giết, Phêrô bị cầm tù. Vì thế, Giáo Hội không
ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.
1.2/ Thiên sứ giải thoát Phêrô: Đức Kitô biết đau khổ do bắt bớ và tù đày cần
thiết để tôi luyện niềm tin của các tông-đồ và để bành trướng đức tin; nên Ngài
để cuộc bách hại xảy ra. Nhưng Ngài cũng biết Giáo Hội của Ngài cần sự lãnh đạo
của Phêrô, nên Ngài sai một thiên sứ tới để giải thoát ông khỏi ngục tù, như
Ngài sẽ làm tương tự với Phaolô sau này.
– Xiềng xích và lính canh trở nên vô hiệu trước quyền lực của Thiên Chúa: Trình
thuật kể: “Trong đêm trước ngày bị vua Herode đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai
người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. Bỗng
thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên
sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo: “Đứng dậy mau đi!” Xiềng
xích liền tuột khỏi tay ông.”
– Phêrô làm theo lệnh thiên sứ một cách vô thức: “Thiên sứ nói tiếp: “Thắt lưng
lại và xỏ dép vào!” Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: “Khoác áo choàng
vào và đi theo tôi!” Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật
hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng
canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra
trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ
bỏ ông mà đi.” Tất cả những việc này xảy ra khi lính vẫn canh và cửa tù vẫn
khóa.
– Phêrô ý thức mình đã được cứu thoát: “Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và nói:
“Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu
tôi thoát khỏi tay vua Herode, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải
chịu.”” Khi Thiên Chúa muốn, Ngài vô hiệu hóa mọi quyền lực thế gian.
2/ Bài đọc
II: “Giờ đây tôi chỉ còn
đợi vòng hoa dành cho người công chính.”
2.1/ Chiến đấu cho chính nghĩa: Giống như Chúa Giêsu khi sắp rời bỏ thế gian để
về cùng Thiên Chúa, Ngài dành thời gian để kiểm điểm những gì Ngài đã làm, những
gì sắp xảy đến, và vinh quang Ngài sẽ được hưởng trong tương lai; Phaolô cũng
thế.
(1) Nhìn lại quá khứ: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng
đường, đã giữ vững niềm tin.”
– Cuộc thi đấu cao đẹp: Thế gian là một bãi chiến trường để Thiên Chúa thử luyện
đức tin của con người. Nhìn lại quá khứ, Phaolô biết mình đã cố gắng hết sức vượt
qua các gian khổ để chu toàn sứ vụ Đức Kitô đã trao phó cho ngài.
– Đã chạy hết chặng đường: Cuộc đời con người có thể ví như một cuộc chạy
Marathon, có nguồn gốc từ quốc gia Hy-lạp. Đây là một cuộc chạy đường dài rất
gian khổ, đòi người chạy phải có sức khỏe dẻo dai để chịu đựng. Nhiều người ghi
danh, không nhằm chạy nhanh để đạt đích trước, nhưng chỉ cần thử xem mình có thể
dẻo dai để về tới đích hay không. Nhiều người không chịu nổi phải bỏ cuộc dọc
đường.
– Đã giữ vững niềm tin: Đây là điều tối quan trọng để lãnh phần thưởng từ Đức
Kitô. Nếu ai chạy đến đích mà đánh mất niềm tin ở dọc đường, người ấy sẽ không
được lãnh nhận phần thưởng từ Đức Kitô.
(2) Kiểm điểm hiện tại: “Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải
ra đi.” Thánh Phaolô được Đức Kitô hiện ra cho biết trước: ông sẽ bị bắt ở
Jerusalem để làm chứng cho Ngài; không những thế, ông sẽ còn làm chứng cho Đức
Kitô tại Rôma nữa. Nhiều tín hữu khóc thương ngăn cản; nhưng ông vẫn quyết chí
lên Jerusalem để chịu bắt bớ như Đức Kitô đã từng trải qua.
(3) Hy vọng tương lai: Con người chiến đấu là cho một mục đích. Giống như lực
sĩ thắng giải được khoác vòng hoa chiến thắng, Phaolô biết rõ mình cũng sẽ được
Đức Kitô đeo vòng hoa chiến thắng cho như vậy. Ngài nói: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi
vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần
thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy.” Phaolô dùng kinh nghiệm cá nhân để động viên
tinh thần các môn đệ: “Và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai
hết tình mong đợi Người xuất hiện.” Nếu Timothy, Titô, hay bất cứ một tín hữu
nào trung thành giao chiến tới cùng, họ cũng sẽ lãnh nhận phần thưởng của các
chứng nhân từ Đức Kitô.
2.2/ Phaolô chiến thắng là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: Ông biết rõ con người yếu
đuối của mình, nhất là qua biến cố ngã ngựa và bị mù trên đường đi Damascus;
nhưng ông cũng biết sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động để nâng đỡ các yếu đuối của
ông. Ông xác tín niềm tin này nhiều lần, và trong trình thuật hôm nay: “Nhưng
có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng
được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã
thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc,
sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời.”
3/ Phúc Âm: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
3.1/ Người môn đệ phải biết Thầy của mình là ai:
(1) Kiến thức về Đức Kitô: Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Caesarea
Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông
thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người lại
cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ.” Vua Herode đã từng nghĩ Chúa
Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết. Elijah là một tiên tri làm nhiều
phép lạ như Chúa Giêsu; truyền thống tin ông sẽ trở lại trước thời Đấng Thiên
Sai, vì ông chưa chết. Jeremiah là tiên tri rất khí khái dám nói và làm chứng
cho sự thật, mà không lui bước trước bất cứ quyền lực nào của vua chúa. Tất cả
các nhận định này chỉ nói lên một khía cạnh của Đức Kitô, nhưng chưa nói lên được
căn tính của Ngài.
(2) Mối liên hệ của người môn đệ với Đức Kitô: Chúa Giêsu không chỉ bằng lòng với
những gì các môn đệ biết về Ngài qua người khác; nhưng Ngài muốn các ông nghĩ
sao về Ngài, nên Ngài hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông
Simon Phêrô, đại diện cho các tông đồ, tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống.” Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu muốn nghe: Ngài chính
là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã nói tới; đồng thời, Ngài cũng là Người Con
Một của Thiên Chúa hằng sống. Chỉ khi nghe được lời tuyên xưng này từ miệng các
môn đệ, Chúa Giêsu mới hoàn thành sứ mệnh mặc khải của Ngài.
3.2/ Hội Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là Phêrô: Đức Giêsu nói với ông
Phêrô: “Này anh Simon, con ông Jonas, anh thật là người có phúc, vì không phải
phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Thánh Phaolô cắt nghĩa rõ ràng điều này hơn: Không ai tuyên xưng Đức Kitô là
Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần soi sáng. Thánh Thần được gởi tới cho các
tông-đồ là do sự can thiệp của Chúa Giêsu với Chúa Cha.
Nhận ra niềm tin xác thực của Phêrô, Chúa Giêsu thành lập Giáo Hội khi Ngài nói
với Phêrô: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá,
trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không
thắng nổi.” Trong Kinh Thánh, khi Thiên Chúa đổi tên cho ai, Ngài tin tưởng và
trao sứ vụ cho người ấy. Ví dụ, Abraham từ Abram, Phaolô từ Saul, và Phêrô từ
Simon… Chúa Giêsu muốn trao quyền điều khiển Giáo Hội vào tay Phêrô và các người
kế vị ông. Tảng Đá đây không phải là con người yếu đuối của Phêrô với ba lần chối
Thầy; nhưng là đức tin của ông vào Đức Kitô sau nhiều lần sa ngã và chịu gian
khổ.
Đức tin của Giáo Hội được đặt trên niềm tin nền tảng của các tông-đồ. Đức tin
này được ví như “đá,” có nghĩa vững chắc và không thay đổi với thời gian. Nhiều
người chỉ trích Giáo Hội cổ hủ, cứng nhắc, không chịu theo thời… nhưng cũng
chính vì điều này mà Giáo Hội được thiết lập. Nếu Giáo Hội cũng thay đổi để được
con người chấp nhận, hòa giải nhượng bộ trước áp lực của quỷ và thế gian, Giáo
Hội sẽ không tồn tại đến ngày hôm nay.
Chúa Giêsu trao chìa khóa Nước Trời để nói lên quyền cầm buộc và tháo cởi: “Thầy
sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời
cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ
tháo cởi như vậy.” Công dụng của chìa khóa là để mở ra và đóng lại, cho phép
vào và từ chối không cho vào. Giáo Hội dùng quyền này để tha thứ hay cầm buộc hối
nhân nơi tòa cáo giải.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
– Đức Kitô cần cả Phêrô lẫn Phaolô. Ngài muốn hai ông hợp tác để củng cố, bảo vệ
và phát triển Giáo Hội. Chúng ta cũng phải biết cộng tác với nhau trong việc mở
mang Nước Chúa.
– Để có thể làm việc cho Đức Kitô và bảo vệ Giáo Hội, chúng ta không chỉ cần biết
về Đức Kitô, nhưng phải sống mối liên hệ với Ngài.
– Giáo Hội không phải chỉ là Đức Thánh Cha và hàng Giáo Phẩm; nhưng là tất cả
các tín hữu ở khắp nơi. Tất cả đều có bổn phận trong việc mở mang Nước Thiên
Chúa.
Linh mục
Anthony Đinh Minh Tiên, OP
29/06/2020 – THỨ HAI TUẦN 13 TN
Th. Phê-rô và Phao-lô, tông đồ
Mt 16,13-19
HIỆP NHẤT XÂY DỰNG HỘI THÁNH
Đức Giê-su nói: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” (Mt
16,13-19)
Suy niệm: Phê-rô và Phao-lô là hai tông đồ
khác nhau như nước với lửa: Phê-rô là dân đánh cá ít học, Phao-lô thuộc tầng lớp
trí thức; Phê-rô theo Chúa ngay từ đầu, còn Phao-lô là ‘đứa con đẻ non’ (x. 1Cr
15,8) mãi sau này mới theo Chúa; Phê-rô gắn bó với Ki-tô hữu gốc Do Thái, còn
Phao-lô rao giảng cho dân ngoại. Khác nhau về gốc gác, về quan điểm truyền
giáo, thế nhưng, trong Đức Giê-su, cùng với Đức Giê-su và vì Đức Giê-su, Đấng cả
hai quý mến hơn mọi sự trên đời, Phê-rô và Phao-lô hiệp nhất trong một công
trình chung: xây dựng Hội thánh của Đức Giê-su bằng lòng nhiệt thành hăng say
rao giảng, bất chấp đòn vọt, tù đày, như thánh Phao-lô đã thốt lên: “Khốn cho
tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Hai vị còn giống nhau trong
cái chết hy sinh mạng sống cho Đấng mình yêu: Phê-rô bị đóng đinh ngược đầu xuống
đất, Phao-lô bị chém đầu.
Mời Bạn: Nhớ rằng Hội thánh chủ ý mừng hai
vị tông đồ trong một ngày lễ chính là để nêu cao tinh thần hiệp nhất trong công
cuộc xây dựng Hội thánh. Bạn có quyết gạt bỏ những bất đồng để cùng hiệp nhất
xây dựng gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, đoàn thể… không ?
Sống Lời
Chúa: Noi gương
hai thánh Phê-rô và Phao-lô, tôi sẽ dẹp bỏ những tị hiềm, gạt bỏ những bất đồng
với các thành viên khác, để xây dựng gia đình, cộng đoàn, giáo xứ… tốt đẹp hơn.
Cầu nguyện: Hát: “Này con là Đá trên viên đá
này Cha xây Giáo hội muôn đời kiên vững. Này con là Đá, cho muôn sức hùng
Sa-tan vẫy vùng không hề chuyển rung.”
(5 Phút Lời
Chúa)
Suy Niệm : Anh Là Tảng Đá
Trong ngày lễ
kính thánh Phêrô và thánh Phaolô,
chúng ta được mời
gọi chiêm ngắm hai khuôn mặt, rất khác nhau mà cũng rất giống nhau.
Phêrô, một người
đánh cá ít học, đã lập gia đình.
Ông theo Thầy
Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ.
Còn Phaolô là
người có nhiều điều để tự hào, về gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh.
Ông chưa hề gặp
mặt Đức Giêsu khi Ngài còn sống.
Nhưng hai ông
có nhiều nét tương đồng.
Cả hai đều được
Đức Giêsu gọi.
Phêrô được gọi
khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con.
Phaolô được gọi
khi ông hung hăng tiến vào Đamát.
Cả hai đã từ bỏ
tất cả để theo Ngài.
Tất cả của
Phêrô là gia đình và nghề nghiệp.
Tất cả của
Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang.
Bỏ tất cả là chấp
nhận bấp bênh, tay trắng.
Cả hai đều đã từng
có lần vấp ngã.
Vấp ngã bất ngờ
sau khi theo Thầy như Phêrô,
trong một phút
giây quá tự tin vào sức mình.
Ngã ngựa bất ngờ
và trở nên mù lòa như Phaolô,
trong lúc tưởng
mình sáng mắt và đi đúng hướng.
Vấp ngã nào
cũng đau và in một dấu không phai.
Vấp ngã bẻ lái
đưa con người đi vào hướng mới.
Phêrô và Phaolô
đều yêu Đức Giêsu cách nồng nhiệt,
vì họ cảm nhận
sâu xa mình được Ngài yêu.
"Này anh
Simon, anh có mến Thầy không?
Thưa Thầy có,
Thầy biết con yêu mến Thầy." (Ga 21,16)
Cả Phaolô cũng
yêu Đấng ông chưa hề chung sống,
vì Ngài là
"Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi." (Gl 2,
20).
Phaolô đã không
ngần ngại khẳng định:
Không gì có thể
tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Đức Kitô (x. Rm 8, 35.39)
Tình yêu Đức
Kitô là linh hồn của đời truyền giáo,
vì nói cho cùng
truyền giáo chính là giúp người khác nhận ra và yêu mến
Đấng đã yêu tôi
và yêu cả nhân loại.
Cả hai vị tông
đồ đều hăng say rao giảng,
bất chấp muôn
vàn nguy hiểm khổ đau.
Phêrô đã từng
chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40).
Còn nỗi đau của
Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28).
"Tôi mang
trên mình tôi những thương tích của Đức Giêsu" (Gl 6, 1-7)
Cả hai vị đã chết
như Thầy. Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18).
Phaolô đã chiến
đấu anh dũng cho đến cùng, và đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6).
Hội Thánh hôm
nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới,
dám bỏ, dám
theo và dám yêu dám sống và dám chết cho Đức Kitô và Tin Mừng.
Hội Thánh vẫn cần
những chiếc cột và những tảng đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn biết gì về
thánh Phêrô và thánh Phaolô? Có nét nào nơi hai vị thánh làm bạn ưa thích?
Bạn nghĩ gì về
Đức Thánh Cha? Bạn biết gì về những hoạt động của Ngài cho giới trẻ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng
con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh
cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng
Giáo Hội trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất
ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa
cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên
trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng
thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng
con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng
con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm
để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
(Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu SJ.)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
29 THÁNG SÁU
Phê-rô và
Phao-lô: Chết Cho Đức Tin
Giáo Hội công bố
cái chết tử đạo của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô. Và qua việc tưởng niệm
cái chết của các ngài, chúng ta cử hành chính cuộc sống của các ngài. Thật vậy,
cái chết không phải là kết cục của cuộc sống. Cái chết tựa như dấu ấn cuối cùng
mà Thiên Chúa đóng trên toàn bộ cuộc hiện hữu trần thế của con người.
Do đó, cái chết
của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô cũng đồng thời trình bày lịch sử đời sống
của các ngài. Cuộc sống của mỗi vị càng có ý nghĩa phi thường do bởi mối quan hệ
của các ngài với Đức Kitô, Đấng đã gọi các ngài đi theo Người. Đức Kitô đã gọi
Simon, con của Giôna, một ngư phủ ở Galilê, và đặt tên cho ông là Phê-rô –
nghĩa là “đá”. Người cũng đã gọi Sao-lô thành Tarsus, vốn là một kẻ bách hại
các Kitôhữu, và biến ông thành Phao-lô: vị Tông Đồ của các dân ngoại, “một khí
cụ do Ta tuyển chọn” (Cv 9,15).
Đời sống của
các ngài thật rất phi thường – nhờ ở quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đấng đã
giúp các ngài làm chứng cho Đức Kitô chịu đóng đanh và phục sinh: “Người sẽ làm
chứng về Thầy; cả anh em nữa, cũng làm chứng về Thầy…” (Ga 15,26-27).
Cái chết thảm
khốc mà cả Phê-rô và Phao-lô đã trải qua ở Rôma vào thời Nê-ron chính là tiếng
nói cuối cùng của chứng tá ấy. Cái chết của các ngài – cái chết đổ máu vì đức
tin – là sự hoàn thành trọn vẹn sứ mạng làm chứng của các ngài. Chính vì cái chết
tử đạo ấy mà các ngài vẫn còn sống mãi một cách đặc biệt trong sự tưởng niệm của
Giáo Hội. Trước hết, các ngài vẫn tiếp tục sống trong Thiên Chúa, Đấng “không
phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của người sống” (Mt 22,32).
Các ngài vẫn sống trong Thiên Chúa cũng như tất cả chúng ta hiện đang sống
trong Thiên Chúa.
– suy tư 366
ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công
Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR
HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 29/6
Thánh Phêrô
và Thán Phaolô Tông Đồ
Cv 12, 1-11;
2Tm 4, 6-8.17-18; Mt 16, 13-19.
Lời Suy Niệm: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời; dưới đất anh cầm buộc điều
gi, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời
cũng tháo cởi như vậy.”
Với lời tuyên xưng của Tông Đồ Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”
(c.16). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là
người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của
Thầy, Đấng ngự trên trời.” (c.17) Và Chúa đã thiết lập Giáo Hội của Chúa
tại trần gian và trao ban chìa khóa Nước Trời cho Tông Đồ Phêrô.
Lạy Chúa Giêsu. Tông đồ Phêrô đã khám phá ra Chúa là Đấng Kitô, là Con Thiên
Chúa, nhờ ơn của Chúa Cha mạc khải. Xin cho chúng con cũng nhận được ơn đức tin
từ Chúa Cha với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần và tình yêu cứu rỗi của Chúa, để
mỗi người chúng con trở nên những viên gạch xây dựng Nước Chúa ở trần
gian này.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 29-06:
Thánh PHÊRÔ TÔNG ĐỒ
Phêrô là tên mà
Chúa đặt cho Simon, có nghĩa là “Đá” Simon và Anrê em ông là những dân chài chất
phác ở biển Galilea. Anrê theo làm môn đệ của thánh Gioan tẩy giả. Lần kia, khi
Chúa Giêsu đi qua, thánh Gioan đã giới thiệu với hai môn đệ của mình là Anrê và
Gioan: “Đây là Con Thiên Chúa”.
Anrê và Gioan
liền theo Chúa Giêsu. Về nhà, Anrê nói lại với Phêrô rằng: mình đã gặp Đấng
thiên sai. Hai anh em dẫn nhau đến gặp Chúa Giêsu. Nhìn họ với cặp mắt thần
linh, Chúa Giêsu bảo: – Anh là Simon, nhưng từ nay tên là Phêrô (Ga 1,35-42)
Simon Phêrô gắn
bó với Chúa Giêsu mặc dầu vẫn tiếp tục nghề chài lưới. Ông đến được tiệc cưới tại
Cana và được chứng kiến phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu cho thấy thiên tính của
Người.
Vài tháng sau,
Phêrô và Anrê giặt lưới bên bờ hồ, Chúa Giêsu lên một chiếc thuyền để giảng dạy
dân chúng. Sau đó Người nói với Phêrô: – Ra khơi mà thả lưới đánh cá.
Sau một đêm làm
việc mà không bắt được gì. Nhưng bây giờ Phêrô vẫn mau mắn vâng lời. Kết quả thật
lạ lùng, mẻ cá nhiều quá đến như muốn làm rách lưới. Bối rối trước sự lạ và cảm
thấy mình bất xứng không đáng ở gần Chúa Giêsu, Phêrô quỳ sụp dưới chân Người
mà nói: – “Xin hãy xa tôi vì tôi là kẻ tội lỗi”.
Chúa Giêsu trả
lời: – “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới bắt người” .
Rồi đây ông sẽ
lôi kéo nhiều tâm hồn về với Chúa như số cá nhiều vô kể ông đã lưới được. Ông
đã từ bỏ tất cả: gia đình, thuyền lưới mà theo Chúa Giêsu. Khi chọn 12 tông đồ,
Chúa Giêsu đặt ông đứng đầu cả nhóm, vào đầu tháng 4, sau khi hoá bánh ra nhiều,
Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ qua bên kia bờ hồ. Gió nổi lên dữ dội: Chúa
Giêsu đến với các ông. Mệt nhọc chèo chống ngược gió trong đêm tối, các ông tưởng
là bóng ma và lên tiếng kêu la. Chúa Giêsu trấn an: – “Hãy vững lòng, chính là
Ta, đừng sợ”.
Phêrô liền kêu
ngay: – “Lạy Thày, xin truyền cho tôi được đi trên mặt nước mà đến với thày”.
Người bảo: –
“Hãy đến đây”.
Và Phêrô gieo
mình đến với Chúa Giêsu. Nhưng sau phút giây tin tưởng ban đầu, thấy gió thổi mạnh,
ông sợ và bắt đầu chìm xuống hốt hoảng ông kêu cứu: – “Lạy Chúa xin cứu tôi”.
Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông và trách ông đã yếu tin (Mt 6,22-33)
Hôm sau, Chúa
Giêsu đề cập đến mầu nhiệm Thánh Thể lần đầu tiên. Một số môn đệ bỏ đi, lúc đó
Người quay lại hỏi các tông đồ xem có muốn bỏ đi không ? Phêrô trung tín đáp lời:
– “Lạy Ngài, chúng tôi sẽ bỏ đi theo ai, Ngài có những lời mang đến sự sống đời
đời” (Ga 6,67-68)
Một năm sau
Chúa Giêsu đặt vấn đề với các tông đồ: – “Còn các anh, các anh nói tôi là ai ?”
Mau mắn, Phêrô
đã chứng tỏ đức tin của mình: – “Ngài là đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Đáp lại, Chúa
Giêsu đã khen thưởng Phêrô và hứa hẹn: – “Và Ta, Ta bảo ngươi. Ngươi là đá và
trên đá này. Ta sẽ xây Hội Thánh của ta, và quyền môn Âm phủ sẽ không thắng nổi.
Ta sẽ trao cho ngươi chìa khoá nước trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc,
thì cũng sẽ bị cầm buộc trên Trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng
sẽ được tháo cởi trên trời” (Mt 16,13-19)
Phêrô đã nhận
được lời khen thưởng và lời hứa hẹn rất cao trọng. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu
loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới, ông đã vội vàng can ngăn, khiến Chúa Giêsu phải
quở trách ông. Đức tin của ông chưa thực sự kiên vững như đá. Phải còn qua nhiều
thăng trầm nữa, Phêrô mới thực sự trở thành mẫu người thủ lãnh của Giáo hội.
Nhằm đào tạo
ông, Chúa Giêsu đã cho ông trực tiếp tham gia vào cuộc phục sinh cho con gái
ông Giairô (Mc 5,37). Bấy giờ, Người dẫn các ông lên núi để cho chứng kiến cuộc
biến hình đầy uy nghi sáng láng như mặt trời, áo Người với Môsê và Elia ; đã
nghe tiếng nói từ trời cao nhắn nhủ: – “Ngài là con chí ái của ta, kẻ Ta đã sủng
mộ, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17,1-8).
Những săn sóc đặc
biệt kia phải gây ảnh hưởng mạnh nơi tâm hồn Phêrô. Một lần kia khi có người
thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu mà không theo Chúa được chỉ vì của cải.
Phêrô đã mạnh dạn thưa: – “Này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thày” (Mt 19,27)
Đối với ông chỉ
có điều này là quan trọng. Còn nhiều điều ông chưa hiểu được, chẳng hạn như việc
Thày khiêm tốn quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ ngày thứ năm tuần thánh (Ga
13,7)
Tuy nhiên Phêrô
vẫn xác tín vào điều kiện cấp thiết phải trung kiên theo Chúa. Ông đã thưa với
Chúa trọn cả tâm tình quả cảm của mình: – “Tôi sẽ thí mạng sống tôi vì thày”.
Dĩ nhiện nhiệt
tình còn phải được chứng nghiệm bởi việc làm. Phêrô chưa biết, chưa lượng định
nổi khả năng của mình. Đầy cảm thông Chúa Giêsu báo trước cho ông biết rằng: –
“Quả thật, ta bảo ngươi: gà sẽ không gáy cho tới lúc ngươi sẽ chối Ta ba lần”
(Ga 13,36-38)
Cuộc khổ nạn của
Chúa Giêsu bắt đầu, Phêrô rút gươm chém đứt tai một binh lính để mong bảo vệ
Thày. Sau hành vi bộc phát ấy, Phêrô như nhụt hết nhuệ khí cùng với lưỡi gươm,
ông trút trở lại bao theo lời thày, đúng như lời tiên tri báo trước, ba ần ông
đã chối thày. Gà lên tiếng gáy, Chúa Giêsu nhìn lại và Phêrô bừng tỉnh và hối hận
nước mắt chảy dài (Ga 18,1-27)
Sau cuộc khổ nạn
và tử nạn, Chúa Giêsu sống lại, hiện ra nhiều lần. Tại bờ hồ Tibêria, Người đã
hiện ra với Phêrô và các bạn khi họ đang thả lưới đánh cá. Gioan nhận ra Người
và nhắn nhủ cho Phêrô biết: – “Chúa đó”.
Với một nhiệt
tình xưa, Phêrô vội cuốn áo gieo mình xuống biển đến gặp thầy. Ba lần Chúa
Giêsu đã hỏi ông: – Con có mến Thày không ?
Phêrô trả lời:
– Lạy Chúa, Chúa thông biết mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa
Ba lần xác quyết
tình yêu xóa bỏ ba lần chối Chúa. Lúc ấy Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh cho ông: –
“Hãy chăn dắt đoàn chiên Ta”.
Và Người thêm:
– “Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tuỳ ý, nhưng khi đã về
già, ngươi sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho và lôi đi nơi ngươi
không muốn” (Ga 21,15-18)
Từ đây Phêrô
lãnh nhiệm vụ điều khiển cộng đoàn. Ngài đã đề nghị chọn một tông đồ thế chân
cho Giuda. Ngày lễ Hiện xuống, Ngài là tông đồ đầu tiên công khai rao giảng Tin
Mừng, Chúa Kitô phục sinh 3000 người trở lại sau bài giảng ấy. Thật là một mẻ
lưới lạ lùng.
Tại cửa đền thờ,
Phêrô thấy một người què từ lúc mới sinh, Ngài nói với hắn: – “Vàng bạc tôi
không có, song có gì tôi cho anh: nhân danh đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh
hãy bước đi.
Người què liền
khỏi bệnh và nhảy lên vì vui sướng. Sau phép lạ này, thánh Phêrô giảng lần thứ
hai cho dân. Lần này số người trở lại lên tới 5000 người. Thành công lớn lao
này một cho các đầu mục trong dân bực tức. Họ cấm các tông đồ không được rao giảng
về Chúa Kitô nữa. Nhưng đầy can đảm thánh Phêrô trả lời: – Vâng lời các ông hơn
là vâng lời Thiên Chúa có phải lẽ không ?
Các tín hữu
quây quần bên các thánh tông đồ, họ mang của cải đặt dưới chân các Ngài để mưu
ích chung cho mọi người. Annaya và Saphira tiếc của còn muốn nên danh giá. Vợ
chồng hắn nói dối là đã dâng hết, khiến lần lượt họ ngã chết ngay dưới chân
Phêrô (Cv 5,1-11). Các phép lạ Ngài thực hiện ngày càng nhiều: tại Lyda, Ênêa
liệt giường được lành mạnh, tại Giophê, chị Tabihta đã chết hai ngày được sống
lại. Bóng của Ngài cũng chữa lành các bệnh nhân.
Thánh Phêrô rảo
khắp xứ Giudea rao giảng nước Chúa. Ngài bị Hêrôđê ra lệnh tống giam, nhưng đã
được cứu thoát cách lạ lùng. Ngài chủ tọa công đồng Gierusalem, quyết định rằng:
các lương dân gia nhập Kitô giáo không phải giữ luật cắt bì.
Thánh Phêrô còn
đi rao giảng bên ngoài đất Palestina, Ngài tới Antiôkia, xây dựng Giáo hội tại
đây. Sau đó Ngài đi Rôma và biến nơi này thành trung tâm của Kitô giáo. Thời
Nêrô cầm quyền, Giáo hội bắt đầu bị bách hại. Thánh Phêrô bị tù và được giải cứu
bởi các lính gác trở lại đạo. Ngài trốn đi khỏi thành.
Nhưng vừa tới cửa,
Ngài gặp thấy Chúa Giêsu vác thập giá tiến vào, thánh tông đồ hỏi Chúa: – Thày
đi đâu dây?
– Ta vào Roma để
chịu đóng đinh một lần nưã.
Thánh tông đồ
đã hiểu, Ngài trở vào thành để lãnh nhận án đóng đinh thập giá. Theo chứng của
Origênê, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh lộn đầu xuống đất vì thấy mình không
đáng được chết cùng một cách như Thày.
+ Mộ Ngài được
tìm thấy tại chính đền thờ thánh Phêrô ở Rôma ngày nay.
************************
Ngày 29-06: Thánh PHAOLÔ TÔNG ĐỒ
Ngày 29-06: Thánh PHAOLÔ TÔNG ĐỒ
Phaolô thành
Tarsê không phải là vị thánh của hết mọi người. Nhiều Kitô hữu tốt cảm thấy đối
nghịch với Ngài vì thấy Ngài cứng cỏi, khô khan, thiếu hòa giải. Những người
đương thời với Ngài cũng cảm nghĩ về Ngài như vậy. Không kể chi đến các bạn đồng
liêu của Ngài. Ngay đến các thánh trong Giáo hội như Phêrô, Marcô và Barnaba đếu
có lần xích mích với Ngài. Dịu dàng như Giacôbê mà cũng phải khuyên thánh nhân
phải biết khéo léo hơn.
Nhưng rồi cuối
cùng, tất cả đều phải nhìn nhận Ngài với niềm kính phục và tình thương mến. Đó
là kinh nghiệm chung đối với những ai lúc đầu cảm thấy đối nghịch với Phaolô, rồi
sau đó ngỡ ngàng khi biết rõ Ngài trong các thư tín và sách công vụ sứ đồ. Ngài
thật là một con người bất khuất, trung tín và rất thân tình với anh em. Sớm hay
muộn, sau khi cởi bỏ lớp vỏ sần sùi bên ngoài đi người ta thấy rõ tính chất
nhân bản và sự thánh thiện hàm ẩn của Ngài.
Thánh Phaolô
sinh tại thành Tarse một thành phố trù phú miền nam Tiểu Á.
Cha mẹ Ngài là
những người thế giá, có quyền công dân Rôma. Ngài được giáo dục để trở thành một
người biệt phái đúng nghĩa. Ngài được thày Gamaliel dạy dỗ thần học. Người người
đều kỳ vọng ở người than niên thông minh này khi anh về Giêrusalem khoảng một năm
sau khi Chúa Giêsu bị đonh đinh. Kỳ vọng ấy đã thành sự, nhưng theo một đường lối
không lường trước được. Mọi người đều biết là anh Phaolô đã có mặt trong cuôc tử
đạo thánh Stephanô và đã nghe Ngài cầu nguyện cho những kẻ sát hại mình.
Chẳng bao lâu
sau trên đường về Damas, Saolê (tên cũ của Phoalô) đã được thấy Chúa Giêsu phục
sinh. Người biến đổi Phaolô từ một kẻ bách hại thành một lãnh tụ Kitô giáo.
Ngay sau khi
lãnh nhận bí tích thanh tẩy, Phaolô, lui vào sa mạc để suy nghĩ cầu nguyện
trong hai năm. Sau đó Ngài trở lại Damas. Như vậy phải đợi ba năm sau, Phaolô mớilên
Giêrusalem bàn luận với các tông dồ. Và thánh nhân lại trở về Tarsê. Trong khoảng
10 năm (34 – 44). Chúng ta không thấy Phaolô xuất hiện. Đây phải là khoảng thời
gian mà với sự trợ lực của Thiên Chúa, trí khôn của thánh nhân xây dựng cây cầu
nối giữa Do thái giáo với Kitô giáo, giữa dân Do thái với dân ngoại. Việc nối kết
này là món quà lớn lao nhất thánh nhân đã trao tặng cho thế giới.
Dĩ nhiên thánh
Phaolô không phải là người đầu tiên rửa tội cho một lương dân. Thánh Phêrô đã rửa
tội cho Cornêliô. Thánh Philipphê đã rao giảng Tin Mừng ở Samaria và rửa tội
cho hoạn quan người Ethiôpia. Nhưng việc rao giảng có hệ thống cho những người
không phải là Do thái chỉ bắt đầu ở Antyiôkia vào đầu thập niên 40. Thánh
Barnaba được các tông đồ sai đi xem xét tình hình. Nhưng thánh nhân đã đi xa
hơn. Ngài nghĩ tới Phaolô còn đang sống âm thầm ở Rarse và đến tìm ông. Thánh
Phaolô trở về Antiôkia với thánh Barbnaba. Từ đó thánh nhân hiến trọn đời cho
công cuộc truyền giáo. Ngài bỏ vai trò của Maria và lãnh lấy vai trò của
Mattha. Nhà học giả và chiêm niệm trở thành thầy dạy và nhà giảng thuyết.
Hết cuộc hành
trình này tiếp đến cuộc hành trình khác, thánh Phaolô không ngừng bước chân đi
rao giảng Tin Mừng. Ngài đã đi truyền giáo ở Chypre, Tiểu Á và Maceđonia, Hy Lạp.
Mỗi khi Ngài đi đến đâu là ở đó nổi lên cơn giông tố nhiệt tình một bên và ghen
ghét bên kia, nhốt tù, bị ném đá, đánh đập, bị đắm tàu và yếu đau và cả đến thất
vọng nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục công việc. Mỗi khi đến nói chuyện ở hội đường,
Ngài trích thánh kinh, ở công trường, Ngài trích thơ văn cổ và từ nơi đó phát
sinh một trung tâm Kitô giáo. Trong 12 năm trời, Ngài đã biến đổi cộng đoàn Do
thái nhỏ bằng thành bào thai của một tôn giáo hoàn cầu.
Năm 57, thánh
Phaolô trở về Giêrusalem. Bạn bè xin Ngài đừng đi. Họ biết rằng: hội đồng công
tọa ghét Ngài, ghét cây ghét đắng mà Giáo hội nhỏ bé không đủ sức bảo vệ cho
Ngài, Ngài vẫn bất khuất ra đi và trong vòng một tuần lễ, mọi sự xem ra đều ổn
thỏa, nhưng rồi lộn xộn xảy ra, Phaolô lại được cứu thoát khỏi bọn đấu tố, nhờ
sự can thiệp của đội lính canh người Rôma. Tiếp sau đó là hai năm tù tội (bất
công vì nhà cầm quyền Rôma muốn được qùa hối lộ). Trong thời gian này, Phaolô vẫn
dùng cơ hội thuận tiện để rao giảng Tin Mừng.
Bị áp bức bởi
Festô, Phaolô nại đến sự che chở của hoàng đế (đối với công dân Rôma) và được gởi
về Rôma. Con tàu bị bão đánh và bể nát ở bờ biển Malta. Dip này cho thấy tài điều
khiển bẩm sinh của Phaolô trong trường hợp khẩn trương. Tới mùa Xuân năm 60
(hay 61 ) đoàn người tới thủ đô. Thánh Phêrô đã có mặt ở đây và Phaolô lui vào
bóng tối. Về những chuyến du hành của Phaolô đi Tây Ban Nha và về cận Đông,
chúng ta không có đủ tài liệu. Truyền thống nói tới việc Ngài bị tù tội lần thứ
hai dưới thời Nêrô và cho biết Ngài bị chém đầu khoảng năm 66 ở Tre Fontana.
Khi Phaolô tới
Roma, Phêrô đã có mặt, Tin Mừng đã được rao giảng, bí tích đã được cử hành, cólẽ
Phúc âm đã được Marcô khởi soạn. Vậy đâu là phần đóng góp của Phaolô như là cột
trụ Chúa Giáo hội ?
Trước hết phải
kể đến nhiệt tâm và gương mẫu cuộc sống của thánh nhân. Nhưng phần chính yếu
thánh nhân mang lạị là nền tảng vững chắc về tri thức của Giáo hội giúp con
thuyền của ngư phủ đương đầu với bão tố. Ngài không thích mơ hồ, nhưng quan tâm
tới từng hệ luận tàng ẩn bên trong giáo thuyết. Thực ra nói “giáo thuyết của
Phaolô” thì không chính xác lắm, Ngài không sáng nghĩ ra giáo thuyết. Nhưng
Ngài khai sáng ra những gì đã lãnh nhận được. Chẳng hạn khi nói ” Chúa Giêsu là
đức Kitô” Ngài dựa ra một giải thích hoàn toàn mới mẻ về Cựu ước, với những ý
niệm: Giáo hội là Israel mới, ơn thánh thay thế luật Môisê. Đức Kitô là Adam mới,
là “hình ảnh” hoàn hảo của Thiên Chúa.
Từ lời gọi
“Saolê, Saolê, sao ngươi tìm bắt TA ?” Ngài đã khai triển giáo thuyết về nhiệm
thể: “đức Kitô là tất cả mọi sự trong mọi người” (Cl 3,11). Từ dụ ngôn những
người làm vườn nho, Ngài diễn nghĩa cho thấy Israel cũ và Giêrusalem cũ bị thay
thế bởi Giêrusalem mới “nơi không còn lương dân hay Do thái, man rợ hay Scythia,
nô lệ hay tự do”
Có lẽ giáo thuyết
về công giáo tính của Giáo hội là phần đóng góp tiêu biểu nhất của Phaolô, khiến
Ngài được mệnh danh là tông đồ dân ngoại. Thánh Phêrô còn ngập ngừng chứ như
thánh Phaolô thì không chịu thỏa hiệp. Chính Ngài cho thấy rõ thế nào và tại
sao Giáo hội phải là công giáo phổ quát và công giáo tính bao hàm những gì.
(daminhvn.net)
29 Tháng Sáu
Ngài Là Cha Tôi
Truyện cổ
Roma thường ghi lại các cuộc chiến thắng khải hoàn của các vị Hoàng đế. Sau một
lần thắng trận, các vị hoàng đế thường hướng dẫn các đoàn quân tiến qua các ngã
phố cho dân chúng tung hô.
Lần kia, các
đường phố đều đông nghẹt. Người ta phải dựng một khán đài đặc biệt để hoàng gia
có thể theo dõi cuộc diễu hành. Khi hoàng đế và quân đội tiến đến gần khán đài
nơi hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử đang chờ đợi, người ta kinh ngạc vô
cùng vì vị hoàng tử nhỏ nhất đã rời khỏi khán đài và chạy vụt đến chiến xa của
hoàng đế.
Những người
vệ binh có trách nhiệm giữ an ninh hai bên đường đã chận hoàng tử lại. Họ giải
thích cho cậu biết rằng: xa giá đang tiến lại gần chính là xa giá của hoàng đế.
Không ai được phép đến gần… Vị hoàng tử nhỏ điềm nhiên trả lời: “Ngài là hoàng
đế của các ông, còn đối với tôi thì ngài là cha tôi”.
“Ngài là cha
tôi”: đó phải là danh xưng mà chúng ta có quyền sử dụng để gọi Thiên Chúa. Ðó
cũng là danh xưng nói lên mối liên hệ mật thiết mà Thiên Chúa luôn muốn thắt chặt
với từng người trong chúng ta.
“Ngài là cha
tôi”: danh xưng ấy cũng cho phép chúng ta khẳng định về giá trị của con người
chúng ta. Dù chúng ta có bất tài, yếu hèn, tội lỗi đến đâu, chúng ta vẫn có thể
gọi Chúa là Cha.
“Ngài là cha
tôi”: danh xưng ấy không cho phép chúng ta thất vọng về chính mình. “Hãy trở
nên chính mình”. Ðó là mệnh lệnh mà Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta.
Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta và yêu thương chúng ta vì những
cá biệt của từng người.
Hôm nay chúng
ta mừng trọng thể hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai trụ cột của Giáo hội,
nhưng đồng thời cũng là hai tính khí khác nhau, có khi lại xung khắc
nhau.
Một người xuất
thân từ một dân chài, nóng nảy, cục mịch. Một người xuất thân là một thư sinh học
rộng, hiểu sâu.
Hai trình độ
khác nhau, hai tính tình khác nhau, nhưng mẫu số chung nối kết hai tâm hồn: đó
là cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô. Cuộc gặp gỡ ấy cũng diễn ra trong hai trường hợp
khác nhau. Một người chỉ thực sự khám phá ra con người của Ðức Kitô sau ba lần
phản bội. Một người chỉ nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các môn
đệ của Ngài… Một người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của
sám hối, một người đã gặp gỡ Ngài sau một lần ngã ngựa đớn đau.
Hai tính khí
khác nhau, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác
nhau, nhưng đã gặp gỡ nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng
Giáo hội của Chúa.
Hai thánh tông
đồ Phêrô và Phaolô vừa là hình ảnh đa diện phong phú của Giáo Hội, vừa là biểu
trưng của Tình Yêu của Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta
trong sự yếu hèn, thiếu sót của chúng ta. Tình yêu đó không đòi hỏi chúng ta phải
chối bỏ con người tự nhiên của chúng ta. Trái lại Chúa muốn sử dụng tất cả những
khuyết điểm, những giới hạn của con người chúng ta để làm nổi bật sức mạnh và sự
khôn ngoan của Ngài.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Tông Đồ
Thứ Hai, 29 Tháng 6, 2020
Đức Giêsu nói với
ông Phêrô: “Này con là Đá!”
Tảng Đá của hỗ trợ và của cản lối
Mt:
16:13-23
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp
chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên
đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời
Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp cho các môn đệ khám phá ra được
sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là
sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống
lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con
có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự
việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người
nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời
Chúa hướng dẫn chúng con, để giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ
được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng
Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý
và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh
Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai
Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài
Đọc
a) Chìa khóa dẫn
đến bài đọc:
Văn bản phụng vụ của ngày lễ các Thánh Phêrô và Phaolô
được lấy từ sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu 16:13-19. Trong phần bình luận của chúng ta, chúng tôi
cũng bao gồm các câu 20-23, bởi vì trong toàn bộ của văn bản, các câu 13-23,
Chúa Giêsu quay về phía thánh Phêrô và hai lần gọi ông là “đá”. Một lần Chúa gọi ông là đá nền tảng (Mt 16:18)
và một lần là tảng đá cản đường (Mt 16:23).
Cả hai câu nói bổ sung cho nhau.
Trong khi đọc Tin Mừng, chúng ta nên chú ý đến thái độ của ông Phêrô và
những lời trang trọng mà Chúa Giêsu nói với ông trong cả hai lần.
b) Phân đoạn
bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 16:13-14:
Chúa Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì về Người.
Mt 16:15-16:
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ và ông Phêrô tuyên xưng đức tin của mình: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa!”
Mt 16:17-20:
Sau đó, chúng ta có câu trả lời trang trọng của Chúa Giêsu dành cho ông
Phêrô (câu nói chính cho ngày lễ hôm nay).
Mt 16:21-22:
Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của Đấng Cứu Thế, nhưng ông Phêrô phản ứng
và từ chối chấp nhận ý nghĩa ấy.
Mt 16:22-23:
Câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu dành cho ông Phêrô.
c) Phúc
Âm:
13 Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa
Philípphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người
ta bảo Con Người là ai?” 14 Các ông thưa:
“Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là
Giêrêmia hay một tiên tri nào đó.”
15 Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” 16
Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức
Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.”
17 Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giôna, con có phúc, vì chẳng
phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên
trời. 18 Vậy Thầy bảo cho con biết: Con
là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng
được. 19 Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm
buộc, và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.” 20 Rồi Người cấm ngặt
các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.
21 Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ
biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu
nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết,
và ngày thứ ba sẽ sống lại.
22 Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách
Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy
gặp phải chuyện ấy!” 23 Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng
ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Điều gì
trong đoạn Tin Mừng làm tôi chú ý nhất?
b) Người ta nghĩ Đức
Giêsu là ai? Phần ông Phêrô và các môn đệ
thì nghĩ Chúa Giêsu là ai?
c) Đối với tôi,
Chúa Giêsu là ai? Tôi là ai đối với Chúa
Giêsu?
d) Phêrô có nghĩa
là tảng đá theo hai cách: hai nghĩa đó
là gì?
e) Cộng đoàn chúng
ta thì thuộc loại tảng đá nào?
f) Trong đoạn Tin
Mừng, chúng ta thấy có một số ý kiến về Đức Giêsu là ai và một số cách bày tỏ đức
tin. Ngày nay cũng vậy, có một số ý kiến
về Đức Giêsu là ai. Ý kiến của cộng đoàn
chúng ta về Đức Giêsu là gì? Sứ vụ ngụ ý
dành cho chúng ta là loại sứ vụ gì?
5. Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu hơn vào chủ đề.
i) Bối cảnh:
Trong phần tường thuật Tin Mừng của mình, thánh Mátthêu
đã dùng cùng trình tự của Tin Mừng theo thánh Máccô. Tuy nhiên, ông cũng trích dẫn một tài liệu được
thánh Luca và ông biết đến. Hiếm khi ông
đưa ra những dữ kiện hoàn toàn của ông, như trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này và cuộc đối thoại giữa Chúa
Giêsu và ông Phêrô được giải thích theo nhiều cách khác nhau, thậm chí còn theo
những chiều hướng đối nghịch trong các giáo hội Kitô giáo khác nhau. Trong Giáo Hội Công Giáo, văn bản này là cơ sở
cho tính ưu việt của ông Phêrô. Dù sao
chăng nữa, cũng không có bất kỳ điều gì làm giảm bớt tầm quan trọng của văn bản
này, tốt nhất là đặt nó vào trong bối cảnh của Tin Mừng Mátthêu, nơi mà ở những
chỗ khác, phẩm chất được gán cho ông Phêrô cũng là gán cho những người
khác. Chúng không hẳn là riêng cho ông
Phêrô.
ii) Lời bình giải
về văn bản:
a) Mt
16:13-16: Các ý kiến của dân chúng và của
các môn đệ về Đức Giêsu.
Chúa Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì về Người. Câu trả lời khá là đa dạng: là Gioan Tẩy Giả, là tiên tri Giêrêmia hay một
tiên tri nào đó. Khi Chúa Giêsu hỏi ý kiến
của các môn đệ, ông Phêrô nhân danh các ông mà thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống!” Câu trả lời của ông Phêrô không có gì mới mẻ. Vào một dịp trước đó, khi Chúa Giêsu đi trên
mặt nước, các môn đệ đã tuyên xưng đức tin một cách tương tự: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa!” (Mt
14:33). Đây là lời thừa nhận rằng trong
Đức Giêsu, những lời tiên tri của Cựu Ước đã được thực hiện. Trong Tin Mừng của thánh Gioan, bà Máctha
cũng đã tuyên xưng tín điều tương tự:
“Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:27).
b) Mt 16:17: Câu trả lời của Chúa Giêsu dành cho ông
Phêrô: Hỡi Simon, con ông Giôna, con thật
có phúc!
Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông Phêrô thật là “có phúc” bởi
vì ông đã được mặc khải bởi Đức Chúa Cha.
Câu trả lời của Chúa Giêsu cũng chẳng mới lạ gì. Vào một dịp trước đây, Đức Giêsu cũng đã thực
hiện việc công bố cùng một niềm ân phúc cho các môn đệ vì các ông đã được nghe
và được thấy điều mà trước đây không ai được nghe và thấy (Mt 13:16), và Người
ca tụng Đức Chúa Cha vì Người đã mặc khải Con Thiên Chúa cho những kẻ bé mọn mà
không mặc khải cho những bậc khôn ngoan thông thái (Mt 11:25). Ông Phêrô là một trong những kẻ bé mọn mà
chính Chúa Cha đã mặc khải cho. Việc nhận
thức rằng Thiên Chúa hiện diện trong con người Đức Giêsu không phải “đến từ xác
thịt và máu”, đó không phải là kết quả của sự nghiên cứu hoặc nỗ lực của loài
người, mà là một ân sủng mà Thiên Chúa tự ý ban cho người đó.
c) Mt
16:18-20: Tư cách khả năng của ông
Phêrô: Là nền đá tảng và giữ chìa khóa cửa
Nước Trời.
1. Là Tảng
Đá: ông Phêrô phải là đá, đó là, ông phải
là nền tảng vững chắc cho Hội Thánh, để Giáo Hội có thể đứng vững trước các cuộc
tấn công của cửa địa ngục. Qua những lời
này của Chúa Giêsu nói với ông Phêrô, thánh Mátthêu khuyến khích các cộng đoàn
đang bị bách hại và đau khổ tại Syria và Paléstine, là những người đã chứng kiến
sự lãnh đạo của ông Phêrô được đánh dấu từ lúc đầu. Dù rằng yếu ớt và bị đàn áp, họ đã có một nền
tảng vững chắc, được bảo đảm bởi Lời của Chúa Giêsu. Vào những ngày ấy, các cộng đoàn được gieo trồng
một mối quan hệ tình cảm rất vững chắc với các nhà lãnh đạo đã tạo lập ra cộng
đoàn. Do đó, các cộng đoàn tại Syria và
Paléstine đã vun trồng mối quan hệ của họ với con người Phêrô; những người thuộc
cộng đoàn Hy Lạp thì với thánh Phaolô; một số cộng đoàn ở tiểu Á thì với Người
Môn Đệ Chúa Yêu và những cộng đoàn khác thì với thánh Gioan của sách Khải Huyền. Xác định căn tính của mình với nhà lãnh đạo của
xứ sở họ đã giúp cho cộng đoàn phát triển tốt hơn trong phần bản sắc và tâm
linh. Nhưng điều này cũng có thể làm
phát sinh xung đột như trong trường hợp của cộng đoàn Côrintô (1Cr 1:11-12).
Là nền đá tảng của đức tin, gợi nhớ lại trong trí Lời
Chúa nói với dân chúng trong thời gian lưu đày ở Babylon: “Hỡi ai theo đuổi sự công chính, hỡi kẻ đi
tìm Đức Chúa, hãy nghe Ta! Hãy đưa mắt
nhìn lên tảng đá: từ tảng đá này, các
ngươi sẽ được đẽo ra; hãy đưa mắt nhìn vào hầm đá: từ hầm đá này, các ngươi sẽ được lấy ra. Hãy ngước mắt nhìn tổ phụ Ápraham và Sara,
người đã sinh ra các ngươi; vì khi được Ta gọi, Ápraham chỉ có một mình, nhưng
Ta đã ban phúc lành cho nó, và cho nó trở nên đông đảo” (Is 51:1-2). Khi được áp dụng cho ông Phêrô, phẩm chất của
nền đá tảng này hướng đến một khởi đầu mới cho dân riêng của Thiên Chúa.
2. Chìa khóa của
Nước Trời: ông Phêrô nhận lãnh chìa khóa
Nước Trời để cầm buộc và tháo gỡ, có nghĩa là, để hòa giải con người với Thiên
Chúa. Cùng một quyền lực cầm buộc và
tháo gỡ cũng được trao cho các cộng đoàn (Mt 18:8) và các môn đệ (Ga
20:23). Một trong những điểm mà Tin Mừng
Mátthêu khẳng định là ơn hòa giải và tha thứ (Mt 5:7,23-24,38-42,44-48;
6:14-15). Thực tế là vào những năm của
thập niên 80 và 90, có rất nhiều căng thẳng và chia rẽ giữa các gia đình trong
cộng đoàn tại Syria vì đức tin vào Chúa Giêsu.
Có một số người chấp nhận Ngài là Đấng Mêssia trong khi những kẻ khác
thì không, và điều này là nguồn gốc của nhiều quan điểm trái ngược và xung đột. Thánh Mátthêu khẳng định về việc hòa giải. Sự hòa giải tiếp tục là một trong những nhiệm
vụ quan trọng nhất của các điều phối viên của cộng đoàn. Giống như ông Phêrô, họ cũng phải ràng buộc
và tháo gỡ, có nghĩa là, làm việc để mang lại sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau,
và xây dựng tình huynh đệ đích thực.
3. Hội Thánh: từ ngữ Hội Thánh, tiếng Hy Lạp là ekklesia,
được tìm thấy 105 lần trong Tân Ước, hầu như luôn tìm thấy trong sách Tông Đồ
Công Vụ và các Thánh Thư. Chúng ta chỉ
tìm thấy chữ này ba lần trong các sách Tin Mừng và chỉ trong sách Tin Mừng của
Mátthêu mà thôi. Từ ngữ này có nghĩa là
“cộng đoàn được gọi” hay là “cộng đoàn được tuyển chọn”. Từ ngữ này áp dụng cho những người tụ tập lại,
được mời gọi bởi Lời Thiên Chúa, những người tìm kiếm để sống sứ điệp về Nước
Trời được đem đến bởi Chúa Giêsu. Giáo Hội
không phải là Nước Trời, mà là một khí cụ và là một dấu chỉ của Nước Trời. Nước Trời thì cao trọng hơn. Trong Giáo Hội, cộng đoàn, tất cả mọi người
phải trông thấy hoặc nên thấy những gì sẽ xảy ra khi một nhóm người để cho
Thiên Chúa cai trị và chiếm hữu đời sống của mình.
d) Mt
16:21-22: Chúa Giêsu hoàn chỉnh những gì
thiếu sót trong câu trả lời của ông Phêrô, và Phêrô phản ứng bằng cách không chấp
nhận.
Thánh Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!” Để phù hợp với ý tưởng thịnh hành thời bấy giờ,
ông đã tưởng tượng ra một Đấng Cứu Thế vinh quang. Chúa Giêsu đã sửa ông: “Thật là cần thiết cho Đấng Cứu Thế phải chịu
đau khổ và sẽ bị giết chết tại Giêrusalem”.
Với những chữ “cần thiết”, Chúa nói rằng sự đau khổ đã được dự kiến
trong những lời tiên tri (Is 53:2-8). Nếu
các môn đệ chấp nhận Chúa Giêsu như là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, thì
các ông cũng phải chấp nhận Người như là Đấng Mêssia Tôi Tớ phải chịu chết. Không những chỉ có chiến thắng vinh quang mà
cũng còn phải qua con đường thập giá!
Nhưng ông Phêrô không chịu nghe lời sửa dạy của Chúa Giêsu và cố gắng
thuyết phục Người.
e) Mt 16:23: Câu trả lời của Chúa Giêsu cho ông
Phêrô: Tảng đá cản đường
Câu trả lời của Chúa Giêsu thật đáng ngạc nhiên: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!” Satan là một trong những kẻ đã lôi kéo chúng
ta ra khỏi con đường mà Thiên Chúa đã vạch ra cho chúng ta. Chúa Giêsu, theo đúng nghĩa đen, nói rằng: “Hãy lui lại đàng sau Thầy!” (theo tiếng
Latin, vada retro!). Ông Phêrô muốn lèo
lái và chỉ đường. Chúa Giêsu nói: “Hãy lui lại đàng sau Thầy!” Đức Giêsu là người chỉ đường và giữ nhịp chứ
không phải ông Phêrô. Người môn đệ phải
đi theo sau thầy mình. Người ấy phải sống
trong sự chuyển đổi liên tục. Lời của
Chúa Giêsu cũng là một thông điệp cho tất cả những ai đang đứng đầu cộng
đoàn. Họ phải “đi theo” Chúa Giêsu và
không thể đi ở phía trước như ông Phêrô đã muốn đi. Không phải chỉ có họ mới là những người có thể
vạch ra đường hướng hay cách thức. Mà
trái lại, giống như ông Phêrô, thay vì phải là tảng đá hỗ trợ, họ có thể trở
thành tảng đá cản đường. Như có một số
người lãnh đạo cộng đoàn tại thời ông Mátthêu.
Mơ hồ rằng hình như cũng có những chuyện tương tự xảy ra giữa chúng ta
ngày nay.
iii) Phụ chú Tin Mừng
liên quan đến ông Phêrô:
Chân dung thánh Phêrô.
Thánh Phêrô được biến đổi từ một ngư phủ đánh cá sang một
ngư phủ đi lưới người (Mc 1:7). Ông đã lập
gia đình (Mc 1:30). Ông là một người tốt
bụng và rất nhân bản. Ông có khuynh hướng
đảm nhận vai trò lãnh đạo cách tự nhiên trong số mười hai môn đệ của Chúa
Giêsu. Đức Giêsu tôn trọng khả năng
thiên phú này và chọn Phêrô làm người lãnh đạo cho cộng đoàn đầu tiên của mình
(Ga 21:17). Trước khi gia nhập cộng đoàn
của Chúa Giêsu, Phêrô có tên là Simon con ông Giôna (Mt 16:17). Chúa Giêsu đặt tên cho ông là Kêpha có nghĩa
là Đá, và từ đó trở thành tên Phêrô (Lc 6:14).
Cách tự nhiên, ông Phêrô có thể là bất cứ điều gì, ngoại
trừ là đá. Ông dũng cảm trong lời nói,
nhưng trong giờ phút lâm nguy ông trở thành kẻ sợ hãi và trốn chạy. Ví dụ, khi Đức Giêsu đi trên mặt nước, ông
Phêrô đã hỏi: “Lạy Thầy Giêsu, con cũng
có thể đi trên mặt nước mà đến với Thầy không?”
Chúa Giêsu trả lời: “Cứ đến,
Phêrô!” Ông Phêrô liền từ thuyền bước xuống
và bắt đầu đi trên mặt nước. Nhưng khi một
làn gió lớn thổi lên, ông đã sợ và bắt đầu chìm. Khi ấy ông kêu lên: “Lạy Chúa, xin cứu con với!” Chúa Giêsu nắm lấy tay ông và cứu ông (Mt
14:28-31). Trong bữa Tiệc Ly, ông Phêrô
đã thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, con sẽ
không bao giờ chối Chúa!” (Mc 14:31); thế mà chỉ ít giờ sau đó, tại dinh thượng
tế, trước mặt một cô tớ gái, khi Chúa Giêsu đã bị bắt, ông Phêrô đã chối Chúa
Giêsu và thề độc rằng ông không biết Người là ai (Mc 14:66-72). Trong vườn Cây Dầu, khi Chúa Giêsu bị bắt,
ông thậm chí còn dùng đến gươm đao (Ga 18:10), nhưng sau đó bỏ trốn, để lại một
mình Chúa Giêsu (Mc 14:50). Ông Phêrô tự
nhiên không là một tảng đá! Thế nhưng là
một ông Phêrô yếu hèn và con người, cũng như chúng ta, đã trở nên tảng đá bởi
vì Chúa đã cầu nguyện cho ông: “Phêrô,
Thầy đã cầu nguyện cho con để con khỏi mất lòng tin. Phần con, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh
em của con nên vững mạnh” (Lc 22:31-32).
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã có thể nói: “Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá
này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16:18). Chúa Giêsu đã giúp ông trở thành tảng
đá. Sau khi sống lại, ở Galilêa, Chúa
Giêsu đã hiện ra với ông Phêrô và hỏi ông hai lần: “Phêrô, con có yêu mến Thầy không? Và ông Phêrô đã thưa lại hai lần: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa” (Ga
21:15,16). Khi Chúa Giêsu hỏi cùng câu hỏi
đến lần thứ ba với ông, Phêrô đã buồn.
Chắc ông đã nhớ đến việc mình đã chối Chúa ba lần. Vì vậy, ông đã trả lời: “Lạy Chúa, Chúa biết tất cả mọi sự! Chúa biết rằng con yêu mến Chúa!” Đến lúc đó Chúa Giêsu mới trao phó cho ông việc
chăm sóc đàn chiên: “Phêrô, hãy chăm sóc
chiên của Thầy!” (Ga 21:17). Với sự giúp
đỡ của Chúa Giêsu, sức mạnh của tảng đá tăng triển trong con người Phêrô và ông
đã tự tỏ lộ vào ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Vào ngày hôm ấy, khi Chúa Thánh Thần ngự xuống
trên các môn đệ, ông Phêrô đã mở các cánh cửa của căn phòng trên lầu nơi tất cả
các ông đã cùng tụ họp đàng sau các cánh cửa khép kín vì sợ người Do Thái (Ga
20:19), và được truyền cho lòng can đảm, đã bắt đầu công bố Tin Mừng của Chúa
Giêsu cho dân chúng (Cv 2:14-40). Từ đó
ông không bao giờ ngừng nghỉ! Trong câu
chuyện về việc công bố dũng cảm này về sự sống lại, ông đã bị tống ngục (Cv
4:3). Trong khi bị thẩm vấn, ông đã bị cấm
không được loan báo về Tin Mừng của Chúa Giêsu nữa (Cv 4:18), nhưng ông Phêrô
đã không tuân theo lệnh cấm. Ông
đáp: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa
hơn là vâng lời loài người!” (Cv 4:19; 5:29).
Ông lại bị bắt lần nữa (Cv 5:18,26).
Ông đã bị đánh dòn (Cv 5:40).
Nhưng ông đã nói: “Cảm ơn quý vị
rất nhiều. Nhưng chúng tôi phải tiếp tục
giảng dạy! (xem Cv 5:42).
Truyền thống cho chúng ta biết rằng vào cuối đời của ông,
khi ở thành Rôma, ông Phêrô đã lại có một khoảnh khắc sợ hãi. Nhưng sau đó ông đã trở lại, bị bắt và bị kết
án tử hình đóng đinh trên thập giá. Tuy
nhiên, ông đã xin cho được đóng đinh ngược đầu xuống đất. Ông nghĩ rằng mình không xứng đáng để chết
trong cùng một cách như Thầy mình, Đức Giêsu.
Ông Phêrô đã sống thật với chính mình cho đến phút cuối cùng.
6. Thánh Vịnh 103 (102)
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì,
hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi.
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu,
cả những ai giữ giao ước của Người
và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban.
CHÚA đặt ngai báu trên trời cao thẳm,
quyền đế vương bá chủ muôn loài.
Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.
Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa
đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc
làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con,
cũng được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe
mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng
hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần
đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét