Trang

Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025

ST JOHN HENRY NEWMAN SET TO BECOME NEWEST DOCTOR OF THE CHURCH



 St John Henry Newman - tapestry hanging from the facade of St Peter's Basilica for his canonization in 2019 

 

St John Henry Newman set to become newest Doctor of the Church

Pope Leo paves the way for St John Henry Newman to be formally declared a “Doctor of the Church”.

By Alessandro De Carolis

One of the great modern thinkers of Christianity, a key figure in a spiritual and human journey that left a profound mark on the Church and 19th-century ecumenism, and the author of writings that show how living the faith is a daily “heart-to-heart” dialogue with Christ. A life spent with energy and passion for the Gospel—culminating in his canonization in 2019—that will soon lead to the English cardinal John Henry Newman being proclaimed a Doctor of the Church.

The news was announced today, July 31, in a statement from the Holy See Press Office, which reported that during an audience granted to Cardinal Marcello Semeraro, Prefect of the Dicastery for the Causes of Saints, Pope Leo XIV has “confirmed the affirmative opinion of the Plenary Session of Cardinals and Bishops, Members of the Dicastery for the Causes of Saints, regarding the title of Doctor of the Universal Church, which will soon be conferred on Saint John Henry Newman.”

“From Shadows and Images into the Truth”

“Lead, kindly Light, amid the encircling gloom,
Lead Thou me on.
The night is dark, and I am far from home—
Lead Thou me on…
So long Thy power hath blest me, sure it still
Will lead me on
O’er moor and fen, o’er crag and torrent, till
The night is gone,
And with the morn those angel faces smile
Which I have loved long since, and lost awhile.”

John Henry Newman was 32 years old when this poignant prayer rose from his heart during his return to England after a long journey through Italy. Born in 1801, he had already been an Anglican priest for eight years and was widely recognized as one of the most brilliant minds in his church—a man who captivated with both spoken and written word.

The 1832 trip to Italy deepened his inner search. Newman carried within him a thirst to know the depths of God, His “kindly Light,” which for him was also the light of Truth—truth about Christ, the true nature of the Church, and the tradition of the early centuries, when the Church Fathers spoke to a still undivided Church. Oxford—epicenter of his faith and the place where the future saint lived and worked—became the road along which his convictions gradually shifted toward Catholicism.

In 1845, he distilled his spiritual journey into the Essay on the Development of Christian Doctrine, the fruit of a long pursuit of that Light, which he came to recognize in the Catholic Church—a Church he saw as the very one born from the heart of Christ, the Church of the martyrs and the ancient Fathers, which, like a tree, had grown and developed through history. Soon after, he asked to be received into the Catholic Church, which took place on October 8, 1845. He later wrote of that moment: “It was like coming into port after a rough sea; and my happiness on that score remains to this day without interruption.”

Devoted to Saint Philip Neri

In 1846, he returned to Italy to enter, as a humble seminarian—despite being a theologian and thinker of international renown—the Collegio di Propaganda Fide. “It is so wonderful to be here,” he wrote. “It is like a dream, and yet so calm, so secure, so happy, as if it were the fulfilment of a long hope, and the beginning of a new life.” On May 30, 1847, the circle of his vocation was completed with his ordination to the priesthood.

During these months, Newman was deeply drawn to the figure of St. Philip Neri—another soul, like himself, “adopted” by Rome. When Blessed Pope Pius IX encouraged him to return to England, Newman went on to found an Oratory there, dedicated to the saint with whom he shared a joyful disposition. That good humor remained intact even through the many challenges he faced in establishing Catholic institutions in his homeland, many of which seemed at first to falter. Still, his mind continued to produce brilliant writings in defense and support of Catholicism—even under fierce attack.

In 1879, Pope Leo XIII made him a cardinal. Upon hearing the news, Newman wept with joy: “The cloud is lifted forever.” He continued his apostolic work with undiminished intensity until his death on August 11, 1890. On his tomb, he asked that only his name and a brief phrase be inscribed, one that encapsulates the extraordinary arc of his 89 years of life: Ex umbris et imaginibus in Veritatem, “From shadows and images into the Truth.”

Benedict XVI beatified him in 2010, honoring a man of deep prayer who, in the Pope’s words, “lived out that profoundly human vision of priestly ministry in his devoted care” for people: “visiting the sick and the poor, comforting the bereaved, caring for those in prison.

'Cor ad cor loquitur'

Newman was canonized in 2019 by Pope Francis, who, in the encyclical Dilexit nos, explained why the English cardinal had chosen as his motto the phrase Cor ad cor loquitur—“Heart speaks to heart.” Because, the Pope noted, beyond any dialectical argument, the Lord saves us by speaking from His heart to ours: “This realization led him, the distinguished intellectual, to recognize that his deepest encounter with himself and with the Lord came not from his reading or reflection, but from his prayerful dialogue, heart to heart, with Christ, alive and present. It was in the Eucharist that Newman encountered the living heart of Jesus, capable of setting us free, giving meaning to each moment of our lives, and bestowing true peace.”

https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2025-07/st-john-henry-newman-set-to-become-newest-doctor-of-the-church.html

TOR VERGATA, "MỘT THÀNH PHỐ TRONG THÀNH PHỐ" SẴN SÀNG CHÀO ĐÓN HÀNG TRĂM NGÀN BẠN TRẺ



Tor Vergata, “một thành phố trong thành phố” sẵn sàng chào đón hàng trăm ngàn bạn trẻ

Tor Vergata, khu vực rộng lớn ở Roma được xem là “một thành phố trong thành phố”, đã sẵn sàng chào đón hàng trăm ngàn bạn trẻ đến từ 146 quốc gia, tụ họp từ ngày thứ Bảy (2/8) đến Chúa nhật (3/8), nhân sự kiện Năm Thánh Giới trẻ.

Vatican News

Trong chuyến tham quan dành cho giới báo chí được hướng dẫn bởi các kỹ thuật viên và tình nguyện viên của Cơ quan Bảo vệ Dân sự, các nhà báo được nghe trình bày chi tiết ba tuyến đường dành cho người đi bộ - Archiginnasio, Passo Lombardo và CNR - đồng thời giới thiệu mạng lưới hậu cần phức tạp sẽ hỗ trợ cho sự kiện: 4.000 nhà vệ sinh di động, 15 km đường ống dẫn nước, hệ thống phun sương di động và cố định, các trạm y tế, nước công cộng, khu vực dành cho người khuyết tật, tháp truyền hình và âm thanh phủ sóng rộng.

Tất cả được bảo đảm an toàn bởi hơn 20.000 người, bao gồm tình nguyện viên, nhân viên an ninh và các kỹ thuật viên.

Trung tâm của ban tổ chức là sân khấu ngoài trời đã được cải tạo, nằm cạnh công trình Vela của Calatrava, được biến thành nơi điều hành cho hàng ngàn nhân viên và là nơi điều phối một sự kiện có quy mô gợi nhớ đến Đại Năm Thánh 2000.

Chương trình: canh thức vào tối thứ Bảy, Thánh lễ vào Chúa nhật

Các bạn trẻ sẽ bắt đầu đổ về khu vực Tor Vergata từ sáng thứ Bảy. Từ 2 giờ 00 chiều, sân khấu sẽ diễn ra các hoạt động giải trí, âm nhạc, chia sẻ chứng từ và cầu nguyện, với sự tham gia của các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới.

Lúc 8 giờ 30 tối, buổi canh thức cầu nguyện sẽ được Đức Thánh Cha Lêô XIV khai mạc. Ngài sẽ đối thoại với một số bạn trẻ về các chủ đề như tình bạn, lòng can đảm và đời sống thiêng liêng. Dàn hợp xướng của Giáo phận Roma, do Đức ông Marco Frisina chỉ huy, sẽ dẫn dắt phần ca nguyện.

Những người hành hương sẽ nghỉ đêm ngoài trời, với lều trại và túi ngủ, trong tinh thần huynh đệ và hiệp thông. Sáng hôm sau, Chúa nhật, ngày 03/8, lúc 9 giờ 00 sáng, Đức Thánh Cha Lêô XIV sẽ chủ sự Thánh lễ bế mạc Năm Thánh Giới trẻ. Vatican News Tiếng Việt sẽ truyền hình trực tiếp Thánh Lễ này.

An ninh được đặc biệt chú trọng

Một sự quan tâm lớn đã được dành cho việc điều phối dòng người di chuyển. Các cổng vào cũng được bố trí làm lối thoát hiểm, được hỗ trợ bởi một kế hoạch an ninh đặc biệt do Cảnh sát Roma thiết lập, với hệ thống chống máy bay không người lái, các tuyến đường có biển chỉ dẫn, ứng dụng di động chuyên dụng để cập nhật thông tin theo thời gian thực, cùng với sự tham gia tích cực của Cơ quan Bảo vệ Dân sự và chính quyền địa phương.

Phương tiện giao thông công cộng sẽ được tăng cường và hoạt động từ 4 giờ 30 sáng thứ Bảy đến 1 giờ 30 sáng hôm sau, nhưng đoạn cuối của tuyến đường sẽ chỉ có thể đi bộ. Các lối đi dành cho người đi bộ, dài khoảng 7 km, sẽ có các tình nguyện viên hỗ trợ và được bố trí các điểm tiếp nước và trợ giúp. Các ga tàu điện ngầm “Torre Angela” và “Torrenova” sẽ tạm thời đóng cửa, trong khi ga “San Giovanni” sẽ đóng cửa trong thời gian dòng người trở về vào chiều Chúa nhật. Ngoài ra, một kế hoạch đặc biệt cũng đã được thiết lập cho xe buýt du lịch, với các bãi đậu xe riêng có thể đặt chỗ qua ứng dụng.

Lời kêu gọi hy vọng

Ngay từ đầu Năm Thánh Giới trẻ, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã gửi đến các bạn trẻ những lời đầy tin tưởng và khích lệ. “Hãy xắn tay áo lên và các con sẽ không thất vọng”, ngài nhấn mạnh giá trị của sự dấn thân và tinh thần trách nhiệm. Và trích lời Thánh Gioan Phaolô II, ngài đã lặp lại lời kêu gọi quen thuộc: “Đừng sợ!”

Sau 25 năm, Tor Vergata lại trở thành biểu tượng của một thế hệ đang lên đường. Lần này là những gương mặt khác, những thách đố khác, nhưng khát vọng thì vẫn như xưa: được gặp gỡ nhau, cùng nhau tin tưởng, và hướng về tương lai với sức mạnh của đức tin và lòng can đảm của tuổi trẻ.

https://www.vaticannews.va/vi/world/news/2025-07/tor-vegata-mot-thanh-pho-san-sang-don-ban-tre.html

ĐỨC THÁNH CHA NÓI VỚI CÁC BẠN TRẺ: CÁC CON LÀ ÁNH SÁNG. LÀ HY VỌNG. HÃY KÊU VANG CHO HÒA BÌNH THẾ GIỚI!

 


 

Đức Thánh Cha nói với các bạn trẻ: Các con là ánh sáng, là hy vọng. Hãy kêu vang cho hòa bình thế giới!

Tối ngày 29/7/2025, vào cuối Thánh lễ giáo phận Roma chào đón các bạn trẻ và chính thức khai mạc Năm Thánh Giới trẻ, được Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella chủ sự tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chào các bạn trẻ và mời gọi họ trở thành sứ điệp hy vọng cho thế giới, trở thành chứng nhân cho hòa bình của Chúa Giêsu Kitô và hòa giải.

Vatican News

Trước sự ngạc nhiên của khoảng 120 ngàn bạn trẻ, Đức Thánh Cha đã xuất hiện trên chiếc xe mui trần và đi vòng quanh Quảng trường và đường Hòa Giải giữa tiếng reo hò phấn khích của các bạn trẻ. Nhiều bạn trẻ hát thánh ca, chụp hình quay video và tung những món quà về phía Đức Thánh Cha.

Tiếng kêu vang cho hòa bình thế giới

Sau khi đi vòng quanh chào các bạn trẻ, Đức Thánh Cha đến lễ đài ở thềm Đền thờ Thánh Phêrô và nói với họ: “Chúa Giêsu nói với chúng ta: ‘Các con là muối đất’, ‘Các con là ánh sáng thế gian!’. Các con là muối đất, các con là ánh sáng thế gian! Và hôm nay, tiếng nói, nhiệt huyết, tiếng reo hò của các con, tất cả đều vì Chúa Giêsu, sẽ được lắng nghe cho đến tận cùng trái đất”. Và ngài nói tiếp: “Thế giới cần những thông điệp hy vọng. Các con chính là thông điệp này, và các con phải tiếp tục mang lại hy vọng cho tất cả mọi người. Chúng ta hy vọng rằng tất cả các con sẽ luôn là dấu chỉ hy vọng cho thế giới!”.

Sau đó, Đức Thánh Cha nói với các bạn trẻ bằng tiếng Ý, giữa những tiếng reo hò vỗ tay của họ. “Hôm nay chúng ta bắt đầu. Trong những ngày tới, các con sẽ có cơ hội trở thành một sức mạnh có thể mang ân sủng của Chúa, một thông điệp hy vọng, một ánh sáng cho thành phố Roma, cho nước Ý và cho toàn thế giới”.

Ngài mời gọi: “Chúng ta hãy cùng nhau bước đi với đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Lời kêu gọi của chúng ta cũng phải là hòa bình cho thế giới.” Sau đó, ngài yêu cầu mọi người tại quảng trường lặp lại: “Chúng tôi muốn hòa bình cho thế giới”. Mọi người đều đáp lại: “Chúng tôi muốn hòa bình cho thế giới”.

Hẹn gặp ở Tor Vergata

Đức Thánh Cha kết thúc cuộc gặp gỡ với lời mời gọi cầu nguyện cho hòa bình. “Chúng ta hãy cầu nguyện cho hòa bình. Chúng ta hãy là những chứng nhân cho hòa bình của Chúa Giêsu Kitô, cho sự hòa giải, ánh sáng của thế giới mà tất cả chúng ta đang tìm kiếm”.

Sau khi ban phép lành, ngài nói lời tạm biệt các bạn trẻ: “Hẹn gặp lại các con. Chúng ta sẽ gặp nhau tại Tor Vergata. Chúc các con một tuần tốt lành!”.

https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2025-07/duc-thanh-cha-ngay-gioi-tre-the-gioi-chung-nhan-hoa-binh.html

 

TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI TRẺ TRONG TIM CÁC VỊ GIÁO HOÀNG

 


Tiếng nói của người trẻ trong tim các vị Giáo Hoàng

Nhân dịp Năm Thánh Giới Trẻ, diễn ra tại Roma từ ngày 28/7 đến ngày 03/8, chúng ta cùng nhìn lại, bắt đầu từ Năm Thánh 1950, một số suy tư của các Giáo hoàng về các thế hệ trẻ: những ước mơ, những trăn trở và hy vọng dưới ánh sáng của Tin Mừng.

Vatican News

Những buổi cử hành, các cuộc gặp gỡ và những khoảnh khắc lễ hội, nơi tiếng nói và hy vọng được vang lên bằng nhiều ngôn ngữ đến từ khắp nơi trên thế giới. Năm Thánh Giới trẻ cũng là một cơ hội đặc biệt để hành hương qua các Cửa Thánh, lãnh nhận ân xá qua việc cử hành bí tích Hòa giải, và gặp gỡ Đức Thánh Cha Lêô XIV tại buổi cầu nguyện canh thức vào thứ Bảy và Thánh lễ Chúa nhật ở Tor Vergata.

Một sự kiện, trong đó đức tin ôm lấy những hoài nghi, hy vọng, lo lắng và ước mơ của những người được mời gọi nhìn thấy và xây dựng tương lai. Trong Năm Thánh, tiếng nói của các Giáo hoàng thường hoà quyện với tiếng nói của thế hệ trẻ. Khi nhìn vào giáo huấn của các Giáo hoàng, chúng ta sẽ thấy rất nhiều suy tư phong phú và có chiều sâu, luôn mang tính thời sự, vượt lên khỏi bối cảnh lịch sử của chúng. Nếu thu hẹp trọng tâm vào lịch sử gần đây và các Năm Thánh được các Giáo hoàng cử hành, thì Năm Thánh sau Thế chiến thứ hai chính là thời điểm đặc biệt để người trẻ có thể nhìn về phía chân trời với đôi mắt mới, dù thời điểm đó bóng tối đang bao trùm thế giới.

Lòng can đảm của người trẻ

Năm Thánh 1950 là một ánh sáng hy vọng đặc biệt sau những tàn phá khủng khiếp của Thế chiến thứ hai. Để đảm bảo việc chào đón hàng triệu khách hành hương, một loại hộ chiếu đặc biệt có giá trị trên toàn nước Ý đã được cấp: “Thẻ Hành hương”. Ba triệu tín hữu đã đến Roma, và trong Năm Thánh này đã diễn ra nhiều cuộc gặp gỡ, đặc biệt là những cuộc gặp dành riêng cho giới trẻ. Trong một thế giới vẫn còn in hằn những vết thương tàn khốc của xung đột, những suy tư và diễn văn của Đức Giáo Hoàng Piô XII xoay quanh cụm từ quan trọng “hòa bình”. Đối với ngài, sự tham gia của giới trẻ vào đời sống công cộng là vô cùng quan trọng để đảm bảo hạt giống của công ích bén rễ trong xã hội. Trong sứ điệp Giáng sinh năm 1950, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng các thế hệ trẻ cần những mẫu gương sáng: cần những nhà lãnh đạo không thu hẹp tầm nhìn, nhưng biết mở rộng tầm nhìn vì lợi ích của tất cả mọi người.

Hòa bình giữa các dân tộc chỉ có thể được mong đợi nơi những người - dù là người cầm quyền hay người dân, lãnh đạo hay thuộc quyền - những người không cố chấp hay thu hẹp tầm nhìn của mình khi bảo vệ lợi ích riêng hay quan điểm cá nhân, nhưng biết mở rộng tầm nhìn và nâng cao mục tiêu của mình vì lợi ích của tất cả mọi người. Nếu ở một số quốc gia người ta than phiền về sự thiếu tham gia của thế hệ trẻ vào đời sống công cộng, thì chẳng phải một phần nguyên nhân là do người trẻ ít thấy những gương sáng và có sức lôi cuốn của những người mà chúng ta vừa mô tả đó sao?

Ngay cả trong những thời điểm khó khăn, do sự khốn cùng của chiến tranh, giới trẻ vẫn thể hiện sự can đảm. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã nhắc đến điều này khi ngài gặp một tổ chức thanh niên, Hướng đạo sinh người Ý, vào ngày 05/01/1950, nhân dịp họ hành hương đến Roma.

Có thể nói, trước mắt chúng tôi, các con đã can đảm gieo hạt giống này. Trước mắt chúng tôi, do bị chiếm đóng, Roma không có nghi lễ công cộng nào được phép diễn ra, các bạn đã tuyên bố ‘Lời Hứa’ đầu tiên tại nơi thánh thiêng là Nghĩa trang Priscilla. Tinh thần của các hang toại đạo và ý thức về hiện tại, của ngày hôm nay, khi đó đã hòa quyện trong tâm hồn trẻ của các con trong một sự kết hợp không thể tách rời và đơm hoa kết trái, dưới sự che chở của Mẹ Thiên Chúa và Thánh George... Tuổi trẻ hôm nay sẽ gánh vác vai trò lãnh đạo và trách nhiệm cho ngày mai. Các con hãy sống ngày hôm nay trong sự hiện diện liên tục, không gián đoạn của Chúa. Chỉ bằng cách này, các bạn mới có thể góp phần tạo dựng cho Giáo hội, cho quê hương, cho anh chị em mình, cho chính mình, một tương lai mà trong đó quỷ hận thù và bất hòa, của ô uế và dối trá, sẽ nhường chỗ cho thiên thần của chân lý và hòa bình.

 


Đức Piô XII gặp gỡ Phong tráo Công giáo Tiến hành

 

Mạnh mẽ trong đức tin

Năm Thánh 1975 là Năm Thánh của sự đổi mới và hòa giải, Năm Thánh thứ hai mươi lăm trong lịch sử Giáo hội, được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI công bố sau khi kết thúc Công đồng Vatican II mười năm. Ngày 09/3, Đức Giáo Hoàng đã gặp một số nhóm hành hương đến Roma dịp Năm Thánh. Trong cuộc gặp gỡ, Đức Giáo Hoàng kêu gọi đặc biệt các bạn trẻ kiên vững đức tin, và nhấn mạnh rằng món quà này “không chỉ giới hạn ở sự gắn bó bề ngoài và thụ động; nhưng đòi hỏi một nỗ lực liên tục để đào sâu và trưởng thành”.

Chúng tôi lặp lại lời cảnh tỉnh của Thánh Phêrô Tông đồ: “Hãy vững mạnh trong đức tin” (1 Pr 5, 9). Không thể yếu đuối. Đây là lời nhắc nhở đặc biệt mà chúng tôi muốn để lại cho anh chị em trong Năm Thánh 1975 này. Đó là một lời mời gọi gửi đến tất cả mọi người, nhưng đặc biệt là các bạn trẻ, đang hiện diện rất nhiều nơi đây, bởi vì tương lai của Giáo hội và xã hội được xây dựng trên giới trẻ, trên lòng quảng đại và sức sống tươi trẻ.

Năm Thánh trước hết là một sự thức tỉnh nội tâm, một cuộc tìm kiếm chính mình. Đối với các thế hệ mới, đó là việc nhận thức, trước hết về căn tính của chính mình. Trong Lễ Lá ngày 23/3/1975,  Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã kêu gọi người trẻ đừng đứng ngoài lề, nhưng hãy là những người mang niềm vui Kitô giáo: “Các con ở đây với tư cách là những đại diện tiêu biểu của thời đại chúng ta, là những nhân vật chính của thế hệ các con; không phải là những khán giả, khách mời, hay những người ngoài cuộc thụ động, nhưng là những diễn viên và những tác nhân tạo nên hiện tượng đặc trưng của tuổi trẻ các con”.

Năm Thánh 1975 là thời điểm được đánh dấu bởi sự lo lắng ngày càng tăng của người trẻ. Một giai đoạn, giống như hiện tại, khiến người ta cảm thấy nhu cầu cấp thiết của một lời kêu gọi nhận thức nội tâm, hướng đến đức tin.

Những người trẻ của thời điểm lịch sử và thiêng liêng đầy thách đố này, như những người trẻ trong ngày Lễ Lá ở Giêrusalem, các con có nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Chúa Kitô, trung tâm và điểm tựa của đời sống các con không? Các con có thật sự muốn đặt Người lên hàng đầu của đức tin và niềm vui của mình không? Điều này đòi hỏi phải bước ra khỏi tình trạng hoài nghi, bất định, mơ hồ, một tình trạng mà rất nhiều bạn trẻ ngày nay đang sống và bị giằng co trong đó. Đó là lời mời gọi vượt qua thời kỳ khủng hoảng tinh thần, vốn là đặc điểm của tuổi thiếu niên sang thanh niên, và từ thanh niên đến trưởng thành: khủng hoảng tư tưởng, khủng hoảng đức tin, khủng hoảng định hướng đạo đức, khủng hoảng về sự chắc chắn ý nghĩa và giá trị của cuộc sống. Biết bao người trẻ lớn lên với đôi mắt nhắm lại, hay cận thị, không nhìn rõ định hướng tinh thần và xã hội trong hành trình hướng về tương lai. Sức trẻ cùng những thúc đẩy của bản năng sống chắc chắn mang lại một năng lượng mạnh mẽ cho hành động tự do, một sự sinh động cho cách họ hành xử; nhưng liệu họ có biết mình đang đi đâu, và đâu là nơi xứng đáng để dấn thân cả cuộc đời mình?

Đức Phaolô VI

 

Tiếng nói ngôn sứ

Theo Báo Quan sát viên Roma, Chúa nhật Lễ Lá năm 1984 được cử hành với giới trẻ là ngày trọng đại và ý nghĩa nhất trong Năm Thánh Cứu Chuộc. Trước hơn 30.000 người trẻ đến từ 45 quốc gia tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tái khẳng định tính độc đáo của sứ điệp Kitô giáo: lấy Chúa Giêsu làm mẫu gương cho cuộc sống có nghĩa là hiện thực hoá ngay trong cuộc sống thường nhật, kế hoạch mà Thiên Chúa dự định cho mỗi người. Đối với Đức Giáo Hoàng, giới trẻ “có một chức năng ngôn sứ”:

Các con có thể thực hiện một hành động tố cáo chống lại những điều xấu của thời đại hôm nay, bắt đầu bằng việc lên tiếng chống lại nền “văn hóa sự chết” đang lan rộng trong một số bối cảnh sắc tộc-xã hội, đang trở thành một con dốc nguy hiểm dẫn đưa con người trượt dài vào hủy hoại. Việc phản ứng lại nền văn hóa đó là một quyền lợi và là bổn phận của các con: các con luôn phải trân quý sự sống và nỗ lực làm cho người khác cũng biết trân quý sự sống, bằng cách từ chối những vi phạm có hệ thống đối với sự sống, bắt đầu từ việc tước đi mạng sống của thai nhi, tiếp diễn qua vô số hành vi bạo lực của chiến tranh, rồi đến sự loại trừ những người khuyết tật và người già, để cuối cùng dẫn đến giải pháp sau cùng là an tử.

Năm 2000, Đại Năm Thánh, hơn hai triệu bạn trẻ đã gặp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại Tor Vergata. Đó là đỉnh cao của Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 15. Trang nhất của Báo Quan sát viên Roma số ra ngày 20/8 có tựa đề “Tương lai là hiện thực”, viết rằng tương lai “có khuôn mặt trong sáng và ánh mắt rạng rỡ” của những người trẻ “đã lên đường vào sáng sớm thứ Bảy, ngày 19/8, khi trời vẫn còn tối”. Trong buổi canh thức khó quên đó, Đức Giáo Hoàng đã nhắc lại những bóng tối, giống như ngày nay, đang rung chuyển nhiều vùng trên trái đất.

Cha cũng nghĩ đến những ai đang hoạt động vì hòa bình nhưng lại thấy các điểm nóng chiến tranh mới đang nảy sinh và lan rộng ở nhiều nơi trên thế giới; Cha nghĩ đến những ai đang hoạt động vì tự do của con người nhưng lại thấy con người vẫn còn nô lệ cho chính mình và cho người khác; cha nghĩ đến những ai đang đấu tranh để yêu thương và tôn trọng sự sống, nhưng lại phải chứng kiến những cuộc tấn công thường xuyên nhắm vào sự sống, phẩm giá con người. Các bạn trẻ thân mến, trong một thế giới như thế, để tin có khó không? Đúng! Rất khó. Nhưng với sự trợ giúp của ân sủng, điều đó là có thể, như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: “Không phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho con điều ấy, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17). Tối nay, cha sẽ trao cho các con Tin Mừng. Đó là món quà mà Giáo hoàng để lại cho các con trong đêm canh thức không thể nào quên này.



Buổi canh thức năm 2000 tại Tor Vergata

 

Yêu là cho đi

Thật khó để tin và cũng khó để yêu thương. Năm Thánh Lòng Thương Xót - khai mạc ngày 8/12/2015 - dành cho tất cả mọi người, già trẻ, một thời gian của ân sủng, hòa bình và hoán cải. Nhân dịp Ngày Năm Thánh Thiếu nhi, ngày 24/4/2016, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đặc biệt nhắc lại “một nhiệm vụ thường nhật: học yêu thương”.

Trước hết, yêu thương là một điều tuyệt vời, là con đường dẫn đến hạnh phúc. Nhưng không dễ dàng, yêu thương đòi hỏi sự dấn thân, nỗ lực. Ví dụ khi chúng ta nhận được một món quà, điều đó làm chúng ta hạnh phúc, nhưng để chuẩn bị món quà ấy, người trao quà đã quảng đại dành thời gian và công sức, và qua việc tặng quà, họ cũng trao tặng một phần chính bản thân, một điều gì đó mà họ đã sẵn sàng từ bỏ.Các con hãy nghĩ đến món quà mà cha mẹ và người đồng hành đã dành cho các con, khi tạo điều kiện để các con đến Roma tham dự Năm Thánh dành riêng cho các con. Họ đã lên kế hoạch, tổ chức, chuẩn bị mọi thứ cho các con, và điều đó mang lại niềm vui cho họ, dù có thể họ phải từ bỏ một chuyến đi dành cho chính mình. Đó chính là sự cụ thể của tình yêu. Yêu thương có nghĩa là cho đi, không chỉ là vật chất, nhưng là một phần của chính mình: thời gian, tình bạn, khả năng của bản thân.

Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, một trong những sự kiện trọng tâm là Đại hội Giới trẻ Thế giới, được tổ chức tại Ba Lan. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói trong Thánh lễ ngày 31/7/2016, “Các bạn trẻ thân mến, các con đến Krakow để gặp gỡ Chúa Giêsu”.

Các bạn trẻ thân mến, đừng ngại mang đến cho Chúa tất cả, nhất là những yếu đuối, vất vả và tội lỗi của các con trong Bí tích Hòa giải: Người sẽ biết làm các con ngạc nhiên bằng sự tha thứ và bình an của Người. Đừng sợ nói “vâng” với Người bằng tất cả lòng nhiệt thành của con tim, đừng ngần ngại quảng đại đáp lại lời mời gọi và bước theo Người. Đừng để tâm hồn mình bị tê liệt, nhưng hãy hướng đến đích của một tình yêu đích thực và cao đẹp, đòi hỏi cả sự từ bỏ, và hãy mạnh mẽ nói “không” với thứ thuốc kích thích của thành công bằng mọi giá, cũng như với loại ma túy của lối sống chỉ biết nghĩ đến bản thân và sự tiện nghi của riêng mình.

Gặp gỡ Chúa Giêsu là lời mời gọi mà các Đức Giáo Hoàng mạnh mẽ lặp lại, không chỉ với giới trẻ, mà đặc biệt là trong Năm Thánh. Trong cuộc gặp gỡ với Con Thiên Chúa này, con người có thể thực sự sống trong niềm hân hoan, trải nghiệm niềm vui trọn vẹn. Ngay cả việc Đức Thánh Cha Lêô XIV đón nhận các thế hệ mới, trong sự kiện Năm Thánh tại Roma từ ngày 28/7 đến ngày 03/8, cũng được đánh dấu bằng kế hoạch ba chiều này, kết hợp tiếng nói của Đức Giáo Hoàng, tiếng nói của giới trẻ, và ánh mắt của Chúa Cha.

https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2025-07/tieng-noi-nguoi-tre-trong-tim-giao-hoang.html

 

ĐTC LÊ-Ô XIV MỜI GỌI DÙNG INTERNET XÂY DỰNG CÁC MẠNG LƯỚI SỰ THẬT, KHÔNG TÌM NHIỀU NGƯỜI 'FOLLOW'



 ĐTC Lêô XIV gặp gỡ những người tham dự Ngày Năm Thánh các nhà truyền giáo kỹ thuật số và người Công giáo có ảnh hưởng  (@Vatican Media)

 

ĐTC Lêô XIV mời gọi dùng internet xây dựng các mạng lưới sự thật, không tìm nhiều người "follow"

Gặp gỡ khoảng 1.100 người tham dự Ngày Năm Thánh các nhà truyền giáo kỹ thuật số và người Công giáo có ảnh hưởng, Đức Thánh Cha mời gọi họ xây dựng "Mạng lưới nơi những gì tan vỡ có thể được sửa chữa, nơi sự cô đơn có thể được khắc phục, không dựa trên số “followers” nhưng bằng cách trải nghiệm sự vĩ đại vô hạn của Tình yêu trong mỗi lần gặp gỡ.

Hồng Thủy - Vatican News

Ngày thứ 2 của Ngày Năm Thánh các nhà truyền giáo kỹ thuật số và những người Công giáo có ảnh hưởng bắt đầu với cuộc hành hương dọc Đường Hòa giải và đi qua Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô. Sau Thánh lễ do Đức Hồng y Antonio Tagle, Chủ tịch Phân bộ thứ hai của Bộ Loan báo Tin Mừng chủ sự, Đức Thánh Cha đã có cuộc gặp gỡ với các nhà truyền giáo kỹ thuật số.

Sứ vụ mang bình an cho thế giới

Đức Thánh Cha mở đầu bài nói chuyện với lời chào của Chúa Phục Sinh “chúc anh chị em được bình an!”. Ngài nói rằng đây là sứ vụ của Giáo hội. Đó là “công bố hòa bình cho thế giới! Sự bình an đến từ Chúa, Đấng đã chiến thắng sự chết, Đấng mang đến cho chúng ta sự tha thứ của Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta sự sống của Chúa Cha, Đấng chỉ cho chúng ta con đường của Tình yêu!”. Lời chào này mời gọi chúng ta làm chứng vì chúng ta rất cần hòa bình trong thời đại đầy thù hận và chiến tranh này. Chúng ta cần hòa bình trong tâm hồn và trong hành động.

Đức Thánh Cha tiếp tục nói bằng tiếng Ý: “Đây cũng là sứ mạng mà Giáo hội trao phó cho anh chị em ngày hôm nay; anh chị em đang ở đây tại Roma để cử hành Năm Thánh của mình; đã đến đây để canh tân sự dấn thân nuôi dưỡng mạng xã hội và môi trường kỹ thuật số bằng hy vọng Kitô giáo. Hòa bình cần phải được tìm kiếm, công bố và chia sẻ ở khắp mọi nơi; cả ở những nơi chiến tranh khốc liệt, và trong trái tim trống rỗng của những người đã đánh mất ý nghĩa của sự sống và niềm vui nội tâm, cuộc sống tâm linh. Và ngày nay, có lẽ hơn bao giờ hết, chúng ta cần những môn đệ truyền giáo mang món quà là Đấng Phục Sinh đến cho thế giới; chớ gì họ có thể nói lên niềm hy vọng mà Chúa Giêsu Hằng Sống ban cho chúng ta, cho đến tận cùng trái đất (xem Cv 1,3-8); mong rằng họ sẽ đến bất cứ nơi nào có một trái tim đang chờ đợi, một trái tim đang tìm kiếm, một trái tim đang cần đến. Vâng, đến tận cùng trái đất, đến các biên giới hiện sinh nơi không còn hy vọng.

Tìm kiếm "thân xác đau khổ của Chúa Kitô" nơi mỗi anh chị em mà chúng ta gặp gỡ trực tuyến

Đức Thánh Cha chuyển sang chia sẻ bằng tiếng Anh khi nói về thách đố thứ hai là “luôn tìm kiếm ‘thân xác đau khổ của Chúa Kitô’ nơi mỗi anh chị em mà chúng ta gặp gỡ trực tuyến”. Ngài nhấn mạnh rằng ngày nay chúng ta đang sống trong một nền văn hóa mới, nơi công nghệ có ảnh hưởng sâu sắc và nhiệm vụ của mỗi tín hữu là đảm bảo rằng nền văn hóa này vẫn mang tính nhân văn.

Ngài chỉ ra rằng khoa học và công nghệ ảnh hưởng đến cách chúng ta sống và liên hệ với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, “không một điều gì đến từ con người và sự sáng tạo của họ được sử dụng để làm suy yếu phẩm giá của người khác”. Do đó, sứ mạng của chúng ta là nuôi dưỡng một nền văn hóa nhân văn Kitô giáo. Đó là vẻ đẹp của “mạng internet” đối với chúng ta.

Phát triển một cách suy nghĩ và một ngôn ngữ: Tình Yêu

Đối mặt với những thay đổi văn hóa trong suốt lịch sử, Giáo hội chưa bao giờ thụ động; Giáo hội luôn tìm cách soi sáng mọi thời đại bằng ánh sáng và hy vọng của Chúa Kitô bằng cách phân định thiện ác, điều gì tốt đẹp với điều gì cần thay đổi, biến đổi và thanh tẩy. Hiện nay, sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, là một thách thức lớn. Chúng ta cần suy ngẫm về tính xác thực của chứng tá, về khả năng lắng nghe và nói, cũng như khả năng thấu hiểu và được thấu hiểu. “Chúng ta có bổn phận cùng nhau phát triển một cách suy nghĩ và một ngôn ngữ, của thời đại chúng ta, để Tình Yêu lên tiếng”.

Mạng xã hội: Cuộc gặp gỡ giữa những trái tim

Đức Thánh Cha khẳng định rằng sứ mạng này không chỉ đơn thuần là tạo ra nội dung, mà là tạo ra một cuộc gặp gỡ giữa những trái tim. Điều này đòi hỏi việc tìm kiếm những người đau khổ và cần biết đến Chúa, để họ có thể chữa lành vết thương, đứng dậy và tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Quá trình này bắt đầu bằng việc nhận ra sự nghèo khó của chính mình, từ bỏ mọi sự giả tạo và nhận ra chúng ta luôn cần Phúc Âm.

Mạng lưới của sự thật

Và cuối cùng, Đức Thánh Cha chia sẻ bằng tiếng Tây Ban Nha khi nói về lời kêu gọi thứ ba: “Hãy đi vá lưới”. Chúa Giêsu đã gọi các tông đồ đầu tiên của mình khi họ đang vá lưới đánh cá (x. Mt 4,21-22). Người cũng yêu cầu chúng ta làm điều này ngày nay khi yêu cầu chúng ta xây dựng những mạng lưới khác: mạng lưới các mối quan hệ, mạng lưới tình yêu, mạng lưới trao đổi tự do, trong đó có tình bạn sâu sắc.

Ngài nói: “Mạng lưới nơi những gì đã tan vỡ có thể được sửa chữa, nơi sự cô đơn có thể được khắc phục, không dựa trên số “followers” nhưng bằng cách trải nghiệm sự vĩ đại vô hạn của Tình yêu trong mỗi lần gặp gỡ. Mạng lưới mở ra không gian cho người khác, nhiều hơn là cho chính họ, nơi không có “bong bóng lọc” nào có thể lấn át tiếng nói của những kẻ yếu thế nhất. Mạng lưới tự do, cứu độ. Mạng lưới giúp chúng ta khám phá lại vẻ đẹp của việc nhìn vào mắt nhau. Mạng lưới của sự thật”.

Tác nhân của sự hiệp thông

Và Đức Thánh Cha kêu gọi các nhà truyền giáo kỹ thuật số hãy là “những tác nhân của sự hiệp thông, có khả năng phá vỡ logic chia rẽ và phân cực; từ chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa vị kỷ. Hãy tập trung vào Chúa Kitô để vượt qua logic của thế gian, của tin giả và sự phù phiếm, bằng vẻ đẹp và ánh sáng của chân lý (x. Ga 8,31-32)”.

Kết thúc cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha phó thác cho Chúa chứng tá của họ, cảm ơn tất cả những điều tốt đẹp họ đã làm và đang tiếp tục làm trong cuộc sống, những ước mơ họ nuôi dưỡng, tình yêu họ dành cho Chúa Giêsu và Giáo hội, sự giúp đỡ họ dành cho những người đau khổ và hành trình của họ trên con đường kỹ thuật số, và ngài chúc lành cho họ.

Vào ban chiều, các tham dự viên Ngày Năm Thánh các nhà truyền giáo kỹ thuật số sẽ hành hương vào Vườn Vatican và tại đây họ sẽ thánh hiến cho Đức Mẹ, được thể hiện bằng cách phó thác cho Đức Mẹ các dự án của họ.

Vào chiều tối, sự kiện sẽ kết thúc với lễ hội âm nhạc và chứng từ từ khắp nơi trên thế giới, nêu bật ơn gọi mang lại ánh sáng và hy vọng trong thế giới kỹ thuật số, với sự tham gia của một số ban nhạc Kitô giáo nổi bật.

https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2025-07/dtc-leo-xiv-nam-thanh-nha-truyen-giao-ky-thuat-so.html

TIẾP KIẾN CHUNG 30/7/2025 - ĐTC LÊ-Ô XIV: HÃY SỬ DỤNG LỜI NÓI ĐỂ CHỮA LÀNH CHỨ ĐỪNG GÂY TỔN THƯƠNG NGƯỜI KHÁC



 Tiếp kiến chung 30/7/2025 - ĐTC Lêô XIV: Hãy sử dụng lời nói để chữa lành chứ đừng gây tổn thương người khác

Trong bài giáo lý tại buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 30/7, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta học cách nói năng đúng mực, sử dụng những từ ngữ có khả năng chữa lành chứ không gây tổn thương.

Vatican News 

Bài giáo lý trong buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 30/7/2025 là bài cuối cùng trong loạt bài suy tư về cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha đã suy tư và chia sẻ đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa chữa lành người điếc.

Trước hết, người bệnh này, không nghe được cũng không nói được, đã được người khác đưa đến gặp Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha nói rằng trong cử chỉ huynh đệ này, chúng ta có thể thấy hình ảnh của Giáo hội, đồng hành với mọi người đến gặp gỡ Chúa để lắng nghe Lời Người và được Người chữa lành.

Tiếp đến, khi chữa lành người câm điếc này, Chúa Giêsu dành cho anh ta một sự gần gũi thinh lặng, thực hiện những cử chỉ đầy ý nghĩa, và nói một lời duy nhất: “Épphatha”, nghĩa là “Hãy mở ra”. Đây là một lời mời gọi đừng thu mình hay cô lập bản thân, nhưng hãy giao tiếp và liên hệ với người khác theo một cách mới, nghĩa là theo cách tìm sự cảm thông lẫn nhau, chữa lành cho nhau, không làm tổn thương nhau bằng lời nói.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha nhận định rằng trong thế giới ngày nay, nơi chúng ta “siêu kết nối” nhưng lại thường bị tấn công bởi những hình ảnh và thông điệp gợi lên những cảm xúc mâu thuẫn, khiến chúng ta có thể bị cám dỗ thu mình lại, Tin Mừng mời gọi chúng ta giao tiếp cách sâu sắc với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta. Ngài mời gọi các tín hữu cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta học cách nói năng đúng mực, sử dụng những từ ngữ có khả năng chữa lành chứ không gây tổn thương.

Sau khi Đức Thánh Cha làm Dấu Thánh Giá và chào bình an, cộng đoàn cùng nghe đoạn Tin Mừng Thánh Máccô (Mc 7, 32-37):

Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Épphatha!”, nghĩa là: “Hãy mở ra!” Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”

Và Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý:

Anh chị em thân mến,

Với bài giáo lý này, chúng ta kết thúc hành trình khám phá cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, bao gồm những cuộc gặp gỡ, các dụ ngôn và những phép lạ chữa lành.

"Chứng rối loạn" kết nối mạng xã hội

Thời đại chúng ta đang sống cũng cần được chữa lành. Thế giới chúng ta đang bị bao trùm bởi bầu không khí bạo lực và hận thù, những thứ làm tổn hại đến phẩm giá con người. Chúng ta đang sống trong một xã hội đang mắc chứng “rối loạn” kết nối các mạng xã hội: chúng ta kết nối quá mức, bị tấn công bởi những hình ảnh, đôi khi là những hình ảnh sai lệch hoặc méo mó. Chúng ta bị choáng ngợp bởi vô số thông điệp khơi dậy trong chúng ta một cơn bão cảm xúc mâu thuẫn.

Trong bối cảnh này, có thể trong lòng chúng ta nổi lên mong muốn dẹp bỏ tất cả mọi thứ. Chúng ta có thể đi đến chỗ không muốn nghe thấy bất cứ điều gì cả. Ngay cả những lời nói của chúng ta cũng có nguy cơ bị hiểu sai, và chúng ta có thể bị cám dỗ rút lui vào im lặng, không giao tiếp, nơi mà dù gần gũi, chúng ta cũng không còn có thể nói với nhau những điều đơn giản và sâu sắc nhất.

Giáo hội là cộng đoàn đồng hành với mỗi người đến với Chúa Giêsu

Về vấn đề này, hôm nay tôi muốn suy tư vào một đoạn trong Phúc Âm Thánh Máccô, kể với chúng ta về một người điếc bị tật nói ngọng (xem Mc 7,31-37). Cũng như điều có thể xảy ra với chúng ta ngày nay, có lẽ người này đã quyết định không nói nữa vì cảm thấy mình không được hiểu, và giữ im lặng vì bị thất vọng và tổn thương bởi những gì mình đã nghe. Trên thực tế, không phải anh ta đến gặp Chúa Giêsu để được chữa lành, mà là được những người khác đưa đến. Chúng ta có thể nghĩ rằng những người đưa anh ta đến với Chúa là những người lo lắng cho sự cô độc của anh ta. Tuy nhiên, cộng đoàn Kitô hữu cũng nhìn thấy nơi những người này hình ảnh của Giáo hội, là cộng đoàn đồng hành với mỗi người đến với Chúa Giêsu để họ có thể lắng nghe lời Người. Câu chuyện diễn ra ở một vùng đất ngoại giáo, vì vậy chúng ta đang ở trong một bối cảnh mà những tiếng nói khác có xu hướng át đi tiếng nói của Thiên Chúa.

Khép kín bản thân không bao giờ là giải pháp

Hành động của Chúa Giêsu thoạt đầu có vẻ kỳ lạ, bởi vì Người kéo riêng người này ra (câu 33a). Điều này dường như ngài đang nhấn mạnh sự cô độc của anh ta, nhưng nếu xem xét kỹ hơn, nó giúp chúng ta hiểu được điều gì ẩn sau sự im lặng và khép kín của người này, như thể Người đã nhận ra nhu cầu cần được thân mật và gần gũi của anh ta. Trước hết, Chúa Giêsu dành cho anh ta sự gần gũi trong thinh lặng, qua những cử chỉ nói lên một cuộc gặp gỡ sâu sắc: Người chạm vào tai và lưỡi anh ta (x. câu 33b). Chúa Giêsu không dùng nhiều lời; Người nói điều duy nhất anh ta cần lúc này: “Hãy mở ra!” (câu 34). Thánh Máccô giữ lại từ này bằng tiếng Aram, “Épphatha”, như để giúp chúng ta nghe và cảm nhận âm thanh và hơi thở của nó. Từ ngữ đơn giản và đẹp đẽ này chứa đựng lời mời gọi Chúa Giêsu dành cho người này, người đã ngừng lắng nghe và ngừng nói. Như thể Chúa Giêsu đang nói với anh ta: “Hãy mở lòng ra với thế giới đang làm anh sợ hãi! Hãy mở lòng ra với những mối quan hệ đã làm anh thất vọng! Hãy mở lòng ra với cuộc sống mà anh đã từ bỏ!” Thật vậy, khép kín bản thân không bao giờ là giải pháp.

Cách giao tiếp tránh làm tổn thương người khác bằng lời nói

Sau khi gặp Chúa Giêsu, người ấy không chỉ nói lại được mà còn nói “rõ ràng” (câu 35). Trạng từ này được tác giả Phúc Âm thêm vào dường như muốn nói cho chúng ta biết thêm lý do khiến anh ta im lặng. Có lẽ người đàn ông này đã ngừng nói vì anh ta cảm thấy mình nói không đúng cách, có lẽ anh ta cảm thấy mình không có khả năng. Tất cả chúng ta đều từng trải qua cảm giác bị hiểu lầm và không được cảm thông. Tất cả chúng ta cần cầu xin Chúa chữa lành cách giao tiếp của mình, không chỉ để giao tiếp hiệu quả hơn mà còn để tránh làm tổn thương người khác bằng lời nói.

Không có con đường tắt để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu

Việc nói lại được một cách đúng đắn là khởi đầu của một hành trình; nhưng chưa phải là đích điểm. Trên thực tế, Chúa Giêsu cấm người đàn ông đó kể lại những gì đã xảy ra với ông (x. câu 36). Để thực sự biết Chúa Giêsu, chúng ta cần phải đi một hành trình, phải ở lại với Người và cũng trải qua Cuộc Thương Khó của Người. Khi chúng ta đã thấy Người bị sỉ nhục và đau khổ, khi chúng ta cảm nhận được sức mạnh cứu độ từ Thập Giá của Người, lúc đó chúng ta mới có thể nói rằng chúng ta đã thực sự biết Người. Không có con đường tắt nào để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.

Học các giao tiếp chân thành và khôn ngoan

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta học cách giao tiếp một cách chân thành và khôn ngoan. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả những ai đã bị tổn thương vì lời nói của người khác. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội, để Giáo hội không bao giờ lơ là nhiệm vụ dẫn đưa mọi người đến với Chúa Giêsu, để họ có thể lắng nghe Lời Người, được chữa lành bởi Lời Người, và đến lượt họ cũng trở thành người loan truyền sứ điệp cứu độ của Người.

https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2025-07/tiep-kien-chung-30-07-2025.html

AUGUST 1, 2025: MEMORIAL OF SAINT ALPHONSUS LIGUORI, BISHOP AND DOCTOR OF THE CHURCH

 August 1, 2025

Memorial of Saint Alphonsus Liguori, Bishop and Doctor of the Church

Lectionary: 405

 


Reading 1

Leviticus 23:1, 4-11, 15-16, 27, 34b-37

The LORD said to Moses,
"These are the festivals of the LORD which you shall celebrate
at their proper time with a sacred assembly.
The Passover of the LORD falls on the fourteenth day of the first month,
at the evening twilight.
The fifteenth day of this month is the LORD's feast of Unleavened Bread.
For seven days you shall eat unleavened bread.
On the first of these days you shall hold a sacred assembly
and do no sort of work.
On each of the seven days you shall offer an oblation to the LORD.
Then on the seventh day you shall again hold a sacred assembly
and do no sort of work."

The LORD said to Moses, "Speak to the children of Israel and tell them:
When you come into the land which I am giving you,
and reap your harvest,
you shall bring a sheaf of the first fruits of your harvest
to the priest, who shall wave the sheaf before the LORD
that it may be acceptable for you.
On the day after the sabbath the priest shall do this.

"Beginning with the day after the sabbath,
the day on which you bring the wave-offering sheaf,
you shall count seven full weeks,
and then on the day after the seventh week, the fiftieth day,
you shall present the new cereal offering to the LORD.

"The tenth of this seventh month is the Day of Atonement,
when you shall hold a sacred assembly and mortify yourselves
and offer an oblation to the LORD.

"The fifteenth day of this seventh month is the LORD's feast of Booths,
which shall continue for seven days.
On the first day there shall be a sacred assembly,
and you shall do no sort of work.
For seven days you shall offer an oblation to the LORD,
and on the eighth day you shall again hold a sacred assembly
and offer an oblation to the LORD.
On that solemn closing you shall do no sort of work.

"These, therefore, are the festivals of the LORD
on which you shall proclaim a sacred assembly,
and offer as an oblation to the LORD burnt offerings and cereal offerings,
sacrifices and libations, as prescribed for each day."

 

Responsorial Psalm

Psalm 81:3-4, 5-6, 10-11ab

R. (2a) Sing with joy to God our help.
Take up a melody, and sound the timbrel,
the pleasant harp and the lyre.
Blow the trumpet at the new moon,
at the full moon, on our solemn feast.
R. Sing with joy to God our help.
For it is a statute in Israel,
an ordinance of the God of Jacob,
Who made it a decree for Joseph
when he came forth from the land of Egypt.
R. Sing with joy to God our help.
There shall be no strange god among you
nor shall you worship any alien god.
I, the LORD, am your God
who led you forth from the land of Egypt.
R. Sing with joy to God our help.

 

Alleluia

1 Peter 1:25

R. Alleluia, alleluia.
The word of the Lord remains forever;
this is the word that has been proclaimed to you.
R. Alleluia, alleluia.

 

Gospel

Matthew 13:54-58

Jesus came to his native place and taught the people in their synagogue.
They were astonished and said,
"Where did this man get such wisdom and mighty deeds?
Is he not the carpenter's son?
Is not his mother named Mary
and his brothers James, Joseph, Simon, and Judas?
Are not his sisters all with us?
Where did this man get all this?"
And they took offense at him.
But Jesus said to them,
"A prophet is not without honor except in his native place
and in his own house."
And he did not work many mighty deeds there
because of their lack of faith.

https://bible.usccb.org/bible/readings/080125.cfm

 


Commentary on Leviticus 23:1,4-11,15-16,27,34-37

Today we move on to the third book of the Pentateuch—the Book of Leviticus. It gets its name from the Levites who were responsible for worship and ritual among the Israelites. The content of the book is almost entirely concerned with rules and regulations concerning worship and ritual.

Although we seem to be starting a new ‘book’, it is a continuation of the priestly tradition we saw at the end of Exodus (chaps 25—31; 35—40). And this tradition continues on into the first 10 chapters of the next book, Numbers. The emphasis is on the continuing presence of God among his people. The emphasis is on the continuing presence of God among his people. This emphasis heightens their sense of sin and also influences them to honour God with sacrifices of worship. These are the means by which a sinful people can be reconciled in their relationship with Yahweh.

We will only be taking two readings from the book, both coming from well into the second half, from chapters 23 and 25. Today’s reading, which consists of snippets taken from a whole chapter, touches on the observance of certain important feasts which are to be celebrated “at the time appointed for them.”

The Passover and the Feast of Unleavened Bread
The two festivals are linked together, occurring on consecutive days. The first of these is the Passover of the Lord which falls at the evening twilight on the 14th day of the first month (Nisan).

The 15th day of the same month is the beginning of the feast of Unleavened Bread. For seven days unleavened bread is to be eaten. We saw earlier that this feast may be connected with the fact that the Israelites, during their flight from Egypt, only had unleavened bread with them. On the first day of this feast there is to be a sacred assembly and no work is to be done. And on each day an offering is to be made to the Lord. Finally, on the seventh and last day, there is again a “holy convocation” and no work is to be done.

The First Sheaf
When they arrive in the land which the Lord is giving them, immediately after the harvest, a sheaf of the first fruits of the harvest is to be brought to the priest. He will wave it before the Lord so that it may be acceptable for the offerer. This will be done on the day following the nearest Sabbath.

The Feast of Weeks
On the day after that Sabbath, there shall follow a period of seven full weeks, and on the day after, the 50th day, the offering of cereal made from the new grain will be made to the Lord. Between the feast of Unleavened Bread and the feast of Weeks, the Law of Holiness introduces an offering of the first sheaf (of the barley harvest) at the appropriate place in the agricultural cycle. This is a new formulation of the ancient offering of the first fruits.

From the Greek word for ‘fifty’ (hendeka) we have the name ‘Pentecost’. It was also called ‘the feast of the Seven Weeks’. Pentecost was the thanksgiving feast at the end of the grain harvest, which began after Passover. Later tradition made it a commemoration of the giving of the law at Sinai.

The Day of Atonement
The 10th day of the seventh month is the Day of Atonement, when there is a sacred assembly. Penance is to be done, and an oblation is made to the Lord. On this day, too, no work is to be done. We know this feast more commonly as Yom Kippur. Part of the observance was the slaughtering of two goats. One was offered in holocaust and the other was driven out into the desert to die, bearing with it the sins of the whole community. It is from this that we get our term ‘scapegoat’.

The Feast of Booths or Shelters
The 15th day of the seventh month begins the feast of Booths, which lasts for seven days. The Hebrew name is Sukkoth. On the first day, there is a sacred assembly and no work is to be done. On each of the seven days an oblation will be made to the Lord. On the eighth day, there will again be a “holy convocation”, an oblation made to the Lord and no work will be done.

This feast was the joyful observance of the grape and fruit harvest. During the seven days of the feast, the Israelites camped in booths of branches erected on the flat roofs of their houses, or in the streets, in commemoration of their wanderings in the desert, where they had dwelt in booths.

These are festivals which are to be observed. During each one there will be a “holy convocation”—a sacred assembly—when holocausts and cereal offerings, sacrifices and libations, as prescribed for each day, will be offered to the Lord.

We find a number of these feasts mentioned in the New Testament and some of them have been incorporated into our Christian faith:

  • The feasts of Passover and Unleavened Bread are mentioned during the narrative of Holy Week. The Hebrew Passover was transformed into a new Passover with Christ as the sacrificial Lamb. In every Eucharist, the host is made of unleavened bread.
  • The end of the feast of Weeks is Pentecost which, in our Christian faith, is described by Luke in the Acts of the Apostles as the day on which the Holy Spirit came down on Jesus’ disciples (in the Gospels, the Spirit is described as being given under different circumstances, e.g. John 20).
  • The feast of Booths is mentioned in John’s Gospel (7:2).

Every community—whether secular or religious—needs its regular celebrations as a reminder and affirmation of its identity and purpose. And our Christian communities are no exception. The important thing is that we remain faithful to the meaning of these celebrations and not reduce them to an occasion for ‘having a good time’. We are often reminded to put Christ back into Christmas, which is in constant danger of being taken over by commercial interests.

Comments Off

 


Commentary on Matthew 13:54-58

Immediately following the discourse on the parables of the Kingdom, we see Jesus going to his home town of Nazareth. The New American Bible marks this as the beginning of a new section in Matthew’s Gospel which it calls “Jesus, the Kingdom and the Church”. It ends with chapter 18, which contains the fourth of the five discourses distinctive to Matthew.

As was his right, Jesus spent some time teaching in the synagogue at Nazareth. The townspeople were quite amazed to hear the local carpenter’s son speaking as he did:

Where did this man get this wisdom and these deeds of power?

The New International Version says that the word usually translated “carpenter” could also mean “stonemason”. All his family were well known to the people and they knew he could not have gotten it from them (“Is not this the carpenter’s son?”), but they failed to apprehend the real origin of what he was saying and doing.

And, in the contrariness of human nature, they were so impressed that they rejected him! He was just too much. A perfect example of familiarity breeding contempt and blinding the eyes to the obvious. And Jesus sadly comments that a prophet can get a hearing everywhere except among his own. Probably all of us have had some experience, directly or indirectly, of this! We Irish, in particular, are well known for our ‘begrudgery’!

It might be helpful for us to see how often and where we ourselves have been guilty of this sort of behavior. How often have we written off what people we know very well, or think we know very well, suggest to us? It is important for us to realise that God can communicate with us through anyone at all, and we must never decide in advance who his spokespersons will be.

Finally, we are told that Jesus could not do in Nazareth any of the wonderful things he had done elsewhere “because of their unbelief”. His hands were tied. Jesus can only help those who are ready to be helped, those who are open to him. How open am I?

Comments Off

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1176g/

 

 


Friday, August 1, 2025

Ordinary Time

Opening Prayer

God our Father and protector, without You nothing is holy, nothing has value. Guide us to everlasting life by helping us to use wisely the blessings You have given to the world.

We ask this through our Lord Jesus Christ, Your Son, who lives and reigns with You and the Holy Spirit, one God, for ever and ever. Amen.

Gospel Reading - Matthew 13: 54-58

Jesus came to his native place and taught the people in their synagogue. They were astonished and said, “Where did this man get such wisdom and mighty deeds? Is he not the carpenter’s son? Is not his mother named Mary and his brothers James, Joseph, Simon, and Judas? Are not his sisters all with us? Where did this man get all this?” And they took offense at him. But Jesus said to them, “A prophet is not without honor except in his native place and in his own house.” And he did not work many mighty deeds there because of their lack of faith.

Reflection

The Gospel today tells us of Jesus’ visit to Nazareth, His native community. Passing through Nazareth was painful for Jesus. What was His community at the beginning, now is no longer so. Something has changed. Where there is no faith, Jesus can work no miracles.

           Matthew 13: 53-57ª: The reaction of the people of Nazareth before Jesus. It is always good for people to go back to their land. After a long absence, Jesus also returns, as usual, on a Saturday, and He goes to the meeting of the community. Jesus was not the head of the group, but just the same, He speaks. This is a sign that people could participate and express their own opinion. People were astonished. They did not understand Jesus’ attitude: "Where did the man get this wisdom and these miraculous powers?” Jesus, son of that place, whom they knew since He was a child, how is it that now He is so different? The people of Nazareth are scandalized and do not accept Him: “This is the carpenter’s son, surely?” The people do not accept the mystery of God present in a common man, as they are, and as they had known Jesus. In order to speak about God He should be different. As one can see, not everything was positive. The people, who should have been the first ones to accept the Good News, are the first ones to refuse it. The conflict is not only with foreigners, but also with His relatives and with the people of Nazareth. They do not accept because they cannot understand the mystery which envelops Jesus: “Is not His mother, the woman called Mary, and His brothers James and Joseph and Simon and Jude, and His sisters too, are they not all here with us? So where did the man get it all?” They are not able to believe.

           Matthew 13: 57b-58: Jesus’ reaction before the attitude of the people of Nazareth. Jesus knows very well that “no one is a prophet in his own country.” He says, “A prophet is despised only in his own country and in his own house.” In fact, where there is neither acceptance nor faith, people can do nothing. Prejudice prevents it. Jesus Himself, even wanting, can do nothing. He was astonished at their lack of faith.

           The brothers and sisters of Jesus. The expression “brothers of Jesus” causes much division between Catholics and Protestants. Based on this and other texts, the Protestants say that Jesus had many brothers and sisters and that Mary had more children! Catholics say that Mary did not have any other children. What are we to think of this? Both positions, that of Catholics as well as that of Protestants, contain arguments taken from the Bible and from the tradition of their respective Churches. We should consider that in our communities today we also call each other “brother” and “sister,” yet we don’t share immediate parents. In that day, children didn’t move far from their parents like they might do today, so many extended family relationships existed within the same community. For this reason, it is not helpful to discuss this question with arguments which are only intellectual, because it is a question of profound convictions, which have something to do with faith and with the sentiments of each one. An argument which is merely intellectual cannot change a conviction of the heart! It only irritates and repels! Even if I do not agree with the opinion of others, I have to respect it. In the second place, instead of talking about texts, all of us, Catholics and Protestants, should unite in order to fight for the defense of life, created by God, a life disfigured by poverty, injustice, lack of faith. We should recall some other sayings of Jesus: “I have come so that they may have life and life to the full” (Jn 10: 10); “That all may be one, so that the world may believe that You, Father, have sent Me” (Jn 17: 21); “Do not prevent them! Anyone who is not against us is for us” (Mk 10: 39, 40).

Personal Questions

           In Jesus something changed in His relationship with the community of Nazareth. Since you began to participate in community, has anything changed in your relationship with your family? Why?

           Has participation in the community helped you to accept and to trust people, especially the simpler and the poorest?

           When two join to form a new community in marriage, their relationship with their families also changes. Reconsider the previous questions in light of this as well.

Concluding Prayer

For myself, wounded wretch that I am, by Your saving power raise me up!

I will praise God’s name in song; I will extol Him by thanksgiving. (Ps 69: 29-30)

 

www.ocarm.org

 

01.08.2025: THỨ SÁU TUẦN XVII THƯỜNG NIÊN - THÁNH ANPHONG MARIA LIGÔRI, GIÁM MỤC TIẾN SĨ HỘI THÁNH - Lễ Nhớ

 01/08/2025

 Thứ Sáu tuần 17 thường niên.

 Thánh Anphong Maria Ligôri, giám mục tiến sĩ Hội Thánh.

 Lễ nhớ

 


Thánh nhân sinh năm 1696 tại Napôli. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Kitô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập Dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. Người qua đời năm 1787.

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Lv 23, 1. 4-11. 15-16. 27. 34b-37

Các ngươi phải kể những ngày của Chúa là những ngày rất trọng thể và là ngày thánh”.

Trích sách Lêvi.

Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ðây là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải mừng lễ trong thời gian của nó. Chiều ngày mười bốn tháng Giêng là Lễ Vượt Qua của Chúa; và ngày mười lăm tháng Giêng, là lễ trọng không men của Chúa: Các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Ngày thứ nhất, các ngươi phải kể là ngày rất trọng thể, và là ngày thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy”. Trong bảy ngày, các người phải thiêu hy lễ dâng lên Chúa. Ngày thứ bảy là ngày trọng thể và là ngày thánh hơn, các ngươi không làm việc xác nào trong ngày ấy”.

Chúa lại phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy nói cùng con cái Israel và bảo họ rằng: Khi các ngươi đã tiến vào đất Ta sẽ ban cho các ngươi, và khi các ngươi gặt lúa, thì phải mang bó lúa đầu mùa đến cho tư tế, người sẽ giơ bó lúa lên trước mặt Chúa để hôm sau ngày sabbat, người xin Chúa chấp nhận cho các ngươi, và thánh hoá nó. Vậy các ngươi hãy tính từ hôm sau ngày sabbat, là ngày các ngươi đã dâng bó lúa đầu mùa, các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến ngày hôm sau cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày, thì các ngươi phải dâng của lễ mới cho Chúa. Ngày mùng mười tháng Bảy, là ngày đền tội rất trọng thể, gọi là ngày thánh: trong ngày đó, các ngươi phải hãm dẹp tâm hồn, và dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa. Từ ngày mười lăm tháng Bảy sẽ mừng lễ Nhà Xếp kính Chúa trong bảy ngày. Ngày thứ nhất sẽ gọi là ngày rất trọng thể và rất thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy. Và trong bảy ngày, các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, ngày thứ tám cũng rất trọng thể và rất thánh, các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, vì là ngày cộng đoàn tập họp, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy.

“Ðó là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải kể là những ngày rất trọng thể và rất thánh, trong những ngày ấy, các ngươi phải dâng lên Chúa lễ vật, của lễ toàn thiêu và lễ quán theo nghi lễ của mỗi ngày”.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 80, 3-4. 5-6ab. 10-11ab

Ðáp: Hãy reo mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta 

Xướng: Hãy hoà nhạc và đánh trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất huyền. Hãy rúc tù và lên mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm, ngày đại lễ của chúng ta. 

Xướng: Vì đó là điều đã thiết lập cho Israel; đó là huấn lệnh của Thiên Chúa nhà Giacóp. Người đã đặt ra luật này cho nhà Giuse, khi họ cất gót lên đường lìa xa Ai-cập. 

Xướng: Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. – Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 13, 54-58

Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: “Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?” Và họ vấp phạm đến Người.

Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: “Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình”. Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.

Ðó là lời Chúa.

 


Chú giải về Lê-vi 23,1.4-11.15-16.27.34-37

Hôm nay, chúng ta chuyển sang sách thứ ba của Ngũ Kinh—Sách Lê-vi. Tên sách này bắt nguồn từ người Lê-vi, những người chịu trách nhiệm về việc thờ phượng và nghi lễ giữa dân Ít-ra-en. Nội dung của sách hầu như chỉ xoay quanh các luật lệ và quy định liên quan đến việc thờ phượng và nghi lễ.

Mặc dù dường như chúng ta đang bắt đầu một ‘sách’ mới, nhưng nó là sự tiếp nối truyền thống tế lễ mà chúng ta đã thấy ở cuối sách Xuất Hành (chương 25-31; 35-40). Và truyền thống này tiếp tục trong 10 chương đầu của sách tiếp theo, sách Dân Số. Trọng tâm nằm ở sự hiện diện liên tục của Đức Chúa Trời giữa dân Ngài. Sự nhấn mạnh này làm tăng thêm ý thức về tội lỗi của họ và cũng thúc đẩy họ tôn vinh Đức Chúa Trời bằng các của lễ thờ phượng. Đây là phương tiện để một dân tộc tội lỗi có thể được hòa giải trong mối quan hệ của họ với Đức Chúa. Chúng ta sẽ chỉ đọc hai bài đọc từ sách, cả hai đều nằm trong nửa sau của sách, từ chương 23 và chương 25. Bài đọc hôm nay, bao gồm những đoạn trích từ cả một chương, đề cập đến việc cử hành một số lễ quan trọng được cử hành “vào thời điểm đã định”.

Lễ Vượt Qua và Lễ Bánh Không Men

Hai lễ này được liên kết với nhau, diễn ra vào những ngày liên tiếp. Lễ đầu tiên là Lễ Vượt Qua của Chúa, diễn ra vào lúc chạng vạng tối ngày 14 tháng giêng (Nisan).

Ngày 15 cùng tháng là ngày bắt đầu của Lễ Bánh Không Men. Trong bảy ngày, người ta phải ăn bánh không men. Chúng ta đã thấy trước đó rằng lễ này có thể liên quan đến việc dân Ít-ra-en, trong thời gian chạy trốn khỏi Ai Cập, chỉ mang theo bánh không men. Vào ngày đầu tiên của lễ này, sẽ có một buổi nhóm họp thánh và không được làm bất cứ việc gì. Mỗi ngày phải dâng một lễ vật lên Chúa. Cuối cùng, vào ngày thứ bảy và cũng là ngày cuối cùng, lại có một “cuộc họp thánh” và không có công việc nào được thực hiện.

Bó lúa đầu mùa

Khi họ đến vùng đất mà Chúa ban cho, ngay sau mùa gặt, một bó lúa đầu mùa phải được mang đến cho thầy tế lễ. Thầy tế lễ sẽ đưa nó qua lại trước mặt Chúa để nó được chấp nhận cho người dâng lễ vật. Việc này sẽ được thực hiện vào ngày sau ngày Sa-bát gần nhất.

Lễ Các Tuần

Vào ngày sau ngày Sa-bát đó, sẽ có bảy tuần lễ trọn vẹn, và vào ngày hôm sau, tức ngày thứ 50, lễ vật ngũ cốc làm từ lúa mì mới sẽ được dâng lên Chúa. Giữa Lễ Bánh Không Men và Lễ Các Tuần, Luật Thánh đã đưa ra lễ vật bó lúa đầu mùa (thu hoạch lúa mạch) vào đúng thời điểm trong chu kỳ nông nghiệp. Đây là một cách diễn đạt mới của lễ vật đầu mùa cổ xưa.

Từ chữ “hendeka” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “năm mươi” (năm mươi), chúng ta có tên gọi “Lễ Ngũ Tuần”. Lễ này cũng được gọi là "Lễ Bảy Tuần". Lễ Ngũ Tuần là lễ tạ ơn vào cuối mùa gặt lúa mì, bắt đầu sau Lễ Vượt Qua. Truyền thống sau này coi đây là ngày kỷ niệm việc ban hành luật pháp tại Sinai.

Ngày Chuộc Tội

Ngày 10 tháng Bảy là Ngày Chuộc Tội, khi có một cuộc họp thiêng liêng. Người ta phải sám hối và dâng lễ vật lên Chúa. Vào ngày này, cũng không được làm việc gì cả. Chúng ta thường gọi ngày lễ này là Yom Kippur. Một phần của nghi lễ là việc giết hai con dê. Một con được dâng làm lễ toàn thiêu, con còn lại bị đuổi vào sa mạc để chết, mang theo tội lỗi của cả cộng đồng. Chính từ đây mà chúng ta có thuật ngữ "con dê tế thần".

Lễ Lều Tạm

Ngày 15 tháng Bảy là ngày bắt đầu của Lễ Lều Tạm, kéo dài bảy ngày. Tên tiếng Do Thái là Sukkoth. Vào ngày đầu tiên, có một cuộc họp thánh và không được làm bất cứ việc gì. Vào mỗi ngày trong bảy ngày, một lễ vật sẽ được dâng lên Chúa. Vào ngày thứ tám, lại có một “cuộc họp thánh”, một lễ vật dâng lên Chúa và không được làm bất cứ việc gì.

Lễ này là ngày lễ mừng vui mừng thu hoạch nho và trái cây. Trong bảy ngày của lễ, dân Ít-ra-en cắm trại trong những lều lá được dựng trên mái nhà bằng phẳng của họ, hoặc trên đường phố, để tưởng nhớ những ngày lang thang trong sa mạc, nơi họ đã sống trong những lều lá.

Đây là những lễ hội cần được tuân giữ. Trong mỗi ngày lễ, sẽ có một “cuộc họp thánh”—một cuộc họp thánh—khi đó, lễ toàn thiêu và lễ vật ngũ cốc, tế lễ và lễ quán, theo quy định cho mỗi ngày, sẽ được dâng lên Chúa.

Chúng ta tìm thấy một số lễ này được đề cập trong Tân Ước và một số đã được kết hợp vào đức tin Kitô giáo của chúng ta:

• Lễ Vượt Qua và Lễ Bánh Không Men được đề cập trong tường thuật về Tuần Thánh. Lễ Vượt Qua của người Do Thái đã được biến đổi thành một Lễ Vượt Qua mới với Chúa Kitô là Chiên Con hiến tế. Trong mỗi Bí tích Thánh Thể, bánh thánh được làm bằng bánh không men.

• Lễ Ngũ Tuần kết thúc là Lễ Hiện Xuống, mà trong đức tin Kitô giáo của chúng ta, được Luca mô tả trong Công vụ Tông đồ là ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các môn đồ của Chúa Giêsu (trong các sách Phúc âm, Chúa Thánh Thần được mô tả là được ban xuống trong những hoàn cảnh khác nhau, ví dụ: Ga 20).

• Lễ Lều được đề cập trong Phúc âm Gioan (7,2).

 

Mỗi cộng đồng—dù là thế tục hay tôn giáo—đều cần được cử hành thường xuyên như một lời nhắc nhở và khẳng định bản sắc và mục đích của mình. Và các cộng đồng Kitô giáo của chúng ta cũng không ngoại lệ. Điều quan trọng là chúng ta phải trung thành với ý nghĩa của những lễ kỷ niệm này và không biến chúng thành một dịp để “vui chơi”. Chúng ta thường được nhắc nhở phải đưa Chúa Kitô trở lại với Giáng Sinh, vốn luôn có nguy cơ bị lợi ích thương mại chiếm đoạt.

 


Chú giải về Mát-thêu 13,54-58

Ngay sau bài giảng về các dụ ngôn về Nước Trời, chúng ta thấy Chúa Giê-su trở về quê hương Nazareth. Bản Kinh Thánh Tân Ước Hoa Kỳ (New American Bible) đánh dấu đây là phần mở đầu của một chương mới trong Phúc Âm Mát-thêu, được gọi là "Chúa Giê-su, Nước Trời và Hội Thánh". Chương này kết thúc ở chương 18, bao gồm bài giảng thứ tư trong năm bài giảng đặc trưng của Mát-thêu.

Như đã được ủy quyền, Chúa Giê-su đã dành thời gian giảng dạy tại hội đường Do Thái ở Nazareth. Dân chúng trong thị trấn khá kinh ngạc khi nghe con trai của một người thợ mộc địa phương nói như vậy:

Người này lấy đâu ra sự khôn ngoan và những việc làm quyền năng này?

Bản Kinh Thánh Quốc Tế Mới (New International Version) cho biết từ thường được dịch là "thợ mộc" cũng có thể có nghĩa là "thợ xây đá". Cả gia đình ông đều quen biết ông và họ biết ông không thể nào học được điều đó từ họ ("Chẳng phải ông này là con trai của người thợ mộc sao?"), nhưng họ đã không hiểu được nguồn gốc thực sự của những gì ông nói và làm.

Và, trái ngược với bản chất con người, họ quá ấn tượng đến nỗi họ từ chối Ngài! Ngài thật quá đáng. Một ví dụ hoàn hảo về việc sự thân mật sinh ra sự khinh miệt và che mắt trước những điều hiển nhiên. Và Chúa Giê-su buồn bã nhận xét rằng một nhà tiên tri có thể được lắng nghe ở khắp mọi nơi, ngoại trừ chính những người thân cận của mình. Có lẽ tất cả chúng ta đều đã có kinh nghiệm, trực tiếp hoặc gián tiếp, về điều này! Đặc biệt, người Ai-len chúng ta nổi tiếng với sự “ghen tị” của mình!

Có lẽ sẽ hữu ích cho chúng ta khi xem xét chính chúng ta đã phạm phải hành vi này bao nhiêu lần và ở đâu. Chúng ta đã bao nhiêu lần bỏ qua những gì những người mà chúng ta biết rất rõ, hoặc nghĩ rằng chúng ta biết rất rõ, gợi ý cho chúng ta? Điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra rằng Chúa có thể giao tiếp với chúng ta thông qua bất kỳ ai, và chúng ta không bao giờ được quyết định trước ai sẽ là người phát ngôn của Ngài.

Cuối cùng, chúng ta được cho biết rằng Chúa Giê-su không thể làm bất kỳ điều tuyệt vời nào mà Ngài đã làm ở Nazareth “vì sự vô tín của họ”. Tay Ngài bị trói buộc. Chúa Giê-su chỉ có thể giúp đỡ những ai sẵn sàng được giúp đỡ, những ai mở lòng với Ngài. Tôi mở lòng đến mức nào?

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1176g/

 


Suy Niệm: Nghĩa Vụ Ngôn Sứ

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu về sứ vụ ngôn sứ của Chúa Giêsu mà các tín hữu Kitô đều tham dự vào. Sau một thời gian rao giảng làm phép lạ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, khi trở về làng cũ, những người quen biết với Ngài lại chỉ dành cho Ngài một sự tiếp đón lạnh nhạt. Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng là ở chính quê hương mình và gia đình mình. Ðây là lần đầu tiên áp dụng cho mình tước hiệu ngôn sứ; vị ngôn sứ mà Ngài tự đồng hóa là một ngôn sứ bị ngược đãi.

Ý niệm về ngược đãi và ngay cả bị bách hại được Chúa Giêsu nhiều lần nhắc tới trong những cuộc tranh luận với nhóm biệt phái. Nêu bật tư cách bị ngược đãi và bách hại ấy, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài vẫn tiếp tục truyền thống ngôn sứ trong Cựu Ước. Ðược Thiên Chúa sai đến để thay cho Ngài nói lên sự thật, các ngôn sứ trong Cựu Ước không chỉ nói bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống của mình. Ðộc đáo nhất hẳn phải là cung cách của một Giêrêmia. Không biết phải dùng lời lẽ nào để tố cáo sự bất trung và phản bội của cả một dân tộc, ông đã đeo một cái gông vào cổ và đi giữa phố chợ. Với cử chỉ ấy, vị ngôn sứ này muốn nói với mọi người rằng chính vì đã xé bỏ giao ước với Thiên Chúa mà họ phải bị xiềng xích trong gông cùm của ngoại bang.

Riêng tiên tri Hôsê thì lại triệt để hơn trong sứ mệnh của mình khi ông đi cưới một cô gái điếm về làm vợ. Với hành động này ông cũng muốn nói với dân Do Thái rằng họ đã bất trung với Thiên Chúa. Không thể chọn lựa thái độ thinh lặng, thỏa hiệp hay sợ hãi, ông đã lên tiếng tố cáo bất công, tội ác hay bạo quyền và hành động của ông đã gây nên phẫn nộ trong dân.

Chính vì thế và cũng như các ngôn sứ trong Cựu Ước; cũng như thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, và nhất là cũng như chính Chúa Giêsu, tất cả những ai dám lên tiếng nói lên sự thật cũng đều được liên kết chung với nhau trong cùng một số phận là bị khinh rẻ, ngược đãi, oán ghét, sỉ vả và khai trừ.

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)