Sự Thật Triệt Để: Chúa Kitô Mặc Khải Con Người Cho Chính Họ
Vũ Văn An 23/Jul/2025
John M. Grondelski, trên tạp chí The Catholic Thing, Thứ Tư,
ngày 23 tháng 7 năm 2025, viết: Năm nay đánh dấu kỷ niệm 1,700 năm Công đồng
Nicaea, công đồng đầu tiên trong bảy công đồng chung, được cả Công Giáo lẫn
Chính thống giáo chấp nhận. Công đồng họp từ tháng 5 đến tháng 6 năm 325.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn đến Thổ Nhĩ Kỳ (nơi hiện là trụ sở của Công đồng
Nicaea) để tham dự biến cố này. Bệnh tật kéo dài và cái chết của ngài đã khiến
chuyến đi đó trở nên bất khả thi, tuy nhiên, nhiều khả năng Đức Giáo Hoàng Lêô
XIV sẽ đến Thổ Nhĩ Kỳ vào mùa Thu năm nay, chuyến hành hương quốc tế đầu tiên của
ngài.
Các Công đồng đầu tiên bị chi phối bởi những tranh cãi về Kitô học và Ba Ngôi:
nhân tính và thần tính của Chúa Giêsu hòa hợp với nhau như thế nào và Ba Ngôi
trong Ba Ngôi Thiên Chúa liên hệ với nhau ra sao. Con người hiện đại, vốn không
quen suy nghĩ theo hướng “bản chất” và “con người” (theo nghĩa thần học kỹ thuật),
có lẽ tưởng tượng rằng các Công đồng đó chỉ bận tâm đến những chuyện vô bổ. Tuy
nhiên, các cuộc tranh luận văn hóa và chính trị đương thời về con người là gì
và hệ tư tưởng giới tính cho thấy câu hỏi “bản chất/con người” vẫn còn tồn tại
và phát triển, ngay cả khi chúng ta đã quên mất thuật ngữ có thể giúp làm rõ vấn
đề.
Về mặt Kitô học, các Công đồng đã nhiều lần quay trở lại mối quan hệ giữa bản
chất thần linh và bản chất con người của Chúa Giêsu. Liệu một hữu thể có thể vừa
là con người vừa là thần linh không? Nếu vậy, bằng cách nào? Liệu đó có phải là
một vấn đề tỷ lệ nghịch: càng thần linh thì càng ít con người hơn? Hay là một sự
bình đẳng về mặt lý thuyết, tuy nhiên, lại che giấu một số chiều kích thực tế của
một bản chất (thường là bản chất con người), ví dụ, liệu bản chất con người của
Chúa Giêsu có đang ở trong một trạng thái hoạt động bị đình chỉ, một giấc ngủ
đông cứng nào đó?
Cuối cùng, vào thời điểm Công đồng Chalcedon năm 451, đức tin Kitô giáo chính
thống đã khẳng định rằng Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật..một
cách trọn vẹn, chủ động, hoàn toàn, đồng thời, và thực sự vừa thần linh vừa
nhân bản. Tuy nhiên, tôi e rằng đối với nhiều người Công Giáo, chân lý thô sơ,
nghiêm khắc về sự Nhập Thể vẫn chưa được thấu hiểu trọn vẹn.
Đó là lý do tại sao chúng ta nên nhớ lại một yếu tố cốt lõi trong nhân học thần
học của Thánh Gioan Phaolô II. Ngài đã lấy nó từ Công đồng Vatican II và đặt nó
lên hàng đầu trong thông điệp đầu tiên của mình, Redemptor hominis. Ngài không
bao giờ ngừng nhắc lại điều này trong suốt triều đại giáo hoàng của ngài.
Yếu tố cốt lõi đó là chân lý dạy rằng, nếu con người muốn hiểu chính mình, thì
hình mẫu của họ chính là Chúa Giêsu. Như Đức Gioan Phaolô đã nói:
Đức Kitô, Ađam mới, trong chính sự mặc khải về mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu của
Người, đã mặc khải trọn vẹn con người cho chính họ và làm sáng tỏ ơn gọi cao cả
nhất của họ. (Redemptor hominis, 8, nhấn mạnh thêm)
Đức Kitô Pantocrator
(‘người cai trị muôn loài’) của một họa sĩ tranh tượng vô danh, thế kỷ thứ 5
[Tu viện Thánh Catherine, Bán đảo Sinai, Ai Cập]
Hãy đọc lại văn bản đó thật kỹ. Chúa Giêsu Kitô “mặc khải trọn
vẹn con người cho chính họ”. Đức Gioan Phaolô II không viết Chúa Giêsu “hoàn
toàn mặc khải Thiên Chúa cho con người”. Đúng vậy, Chúa Giêsu Kitô là sự tự mặc
khải của Thiên Chúa. Nhưng đó không phải là điều Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh.
Chúa Giêsu Kitô là sự mặc khải về con người và ơn gọi của con người.
Nói cách khác, nếu bạn muốn biết ý nghĩa của việc làm người, bạn có một (thật
ra là hai) hình mẫu. Chúa Giêsu Kitô. Và Đức Trinh Nữ Maria (bởi vì, nếu bạn
nghiêm túc nhìn nhận Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội nhờ ân sủng dự phòng mà Con của
Mẹ đã nhận được, thì Mẹ cũng mặc khải cho con người nên như thế nào).
Như Kinh Thánh nhắc nhở chúng ta, Chúa Giêsu Kitô “giống chúng ta về mọi mặt,
ngoại trừ tội lỗi” (Hr 4:15). Chữ “nhưng” đó thoạt đầu có vẻ là một
ngoại lệ thực sự quan trọng, vì tất cả chúng ta đều là tội nhân. Nhưng nó đòi hỏi
chúng ta phải suy nghĩ về điều đó.
Thiên Chúa không tạo ra con người tội lỗi. Tội lỗi không nằm trong thiết kế của
Đấng Tạo Dựng. Thiên Chúa tạo ra con người tốt lành, thực sự, “rất tốt lành”. (St 1:28)
Điều đó có nghĩa là không phải Chúa Giêsu mà chính chúng ta – tất cả chúng ta –
mới là những người hiểu sai ý nghĩa của việc trở thành con người đích thực như
Thiên Chúa đã tạo nên con người. Chính chúng ta, chứ không phải Chúa Kitô, mới
là người đi chệch khỏi chuẩn mực. Chúng ta không phải là những gì chúng ta được
cho là phải là. Tội lỗi có thể là phổ quát, nhưng đó là một sự biến dạng tự gây
ra, chứ không phải bẩm sinh. Sự thật là, nơi Chúa Giêsu (và Đức Maria), chúng
ta thấy con người nên như thế nào – vâng phục Chúa Cha –.
“Nhưng tôi không phải là Chúa Giêsu,” bạn phản đối. Đúng vậy. Nhưng Chúa Giê-su
đã chết vì bạn. Trong Sự Cứu Chuộc, Ngài ban cho bạn những ân sủng cần thiết,
trong cuộc sống hiện tại của bạn, để sống theo ý muốn của Thiên Chúa, để trở
nên “thánh thiện và đẹp lòng Ngài.” (Rm 12:1)
Biểu thức tột bậc của Sự Cứu Chuộc, như đã đề cập ở trên, là ân sủng dự phòng
đã làm cho Đức Maria được Vô Nhiễm Nguyên Tội: Đức Maria được giải thoát khỏi tội
nguyên tổ và tội cá nhân ngay từ lúc thụ thai. Nhưng dù vậy, Thiên Chúa, Đấng
muốn “mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2:4), ban
cho con người ân sủng, điều họ cần để nên thánh, để trở nên thánh. Thiên Chúa
không đòi hỏi con người điều không thể.
Đây là thần học Công Giáo cơ bản về ân sủng. Việc chúng ta không thường nghe giải
thích rõ ràng về điều này, đặc biệt là phần nói rằng chúng ta phải làm điều gì
đó với lời mời gọi và ân sủng của Thiên Chúa, là một vấn đề. Bởi vì, mặc dù
Thiên Chúa đi xa đến vậy, Ngài cũng chỉ có thể đi đến một mức độ nào đó: ngay cả
Thiên Chúa cũng không thể khiến ai đó yêu mến Người. Karol Wojtyła đã nhấn mạnh
rằng khi ngài viện dẫn khái niệm của Thánh Tôma, alteri
incommunicabilis: không ai có thể muốn thay tôi; ý muốn của tôi vẫn luôn và
chỉ thuộc về tôi.
Nhìn từ góc độ này, tính cấp tiến trong lời kêu gọi của Đức Gioan Phaolô II thật
rõ ràng: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và là Mẫu Gương, là khuôn mẫu thánh thiện của
chúng ta. Con người không có một “lý tưởng”, một khái niệm, một điều răn, hay một
sự trừu tượng nào về bản chất con người đích thực. Họ có một con người đích thực,
một Ngôi Vị vừa là con người vừa là Thiên Chúa, và là Đấng tìm kiếm mối quan hệ
bản thân đó với mỗi người chúng ta.
Một con người đích thực khi đó có thể định nghĩa lại ý nghĩa của việc làm người:
vượt qua mọi tính hai mặt, chúng ta được nhắc nhở rằng mức độ chúng ta được thần
thánh hóa bởi ân sủng và mức độ chúng ta thực sự sống động và mang tính nhân bản
có liên quan trực tiếp với nhau.
Như Thánh I-rê-nê thành Lyons đã nói (một câu trích dẫn yêu thích khác của
Wojtyła): gloria Dei vivens homo– “vinh quang của Thiên Chúa là con
người sống động.”

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét