Trang

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014

15-01-2014 : THỨ TƯ TUẦN I MÙA THƯỜNG NIÊN (năm chẵn)

15/01/2014
Thứ Tư sau Chúa Nhật 1 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (năm II) Sm 3, 1-10. 19-20
"Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, trẻ Samuel phục vụ trước mặt Hêli. Thời ấy, ít khi Chúa phán và hiện ra. Ngày nọ, Hêli đang nằm tại chỗ mình, mắt ông đã loà và không còn thấy được: Ðèn chầu chưa tắt, Samuel ngủ trong đền thờ Chúa, nơi đặt hòm bia Thiên Chúa. Chúa đã gọi Samuel; cậu trả lời: "Này con đây", rồi chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli trả lời: "Ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi". Samuel đi ngủ lại. Nhưng Chúa gọi Samuel lần nữa, và Samuel chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli trả lời: "Này con, ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi". Samuel chưa nhận ra Chúa, và lời Chúa chưa mạc khải cho cậu. Chúa lại gọi Samuel lần thứ ba. Cậu chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli biết Chúa đã gọi Samuel, nên nói với Samuel: "Hãy đi ngủ, và nếu Người còn gọi con, thì con nói rằng: "Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe". Samuel trở về chỗ mình và ngủ lại. Chúa đến gần và gọi Samuel như những lần trước: "Samuel! Samuel!" Và Samuel thưa: "Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Phần Samuel ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa. Toàn dân Israel, từ Ðan tới Bersabê, đều nhận biết Samuel là tiên tri trung thực của Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 39, 2 và 5. 7-8a. 8b-9. 10
Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).
Xướng: 1) Con đã cậy trông, con đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên con, và Ngài đã nghe tiếng con kêu cầu. Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà. - Ðáp.
2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở rộng tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.
3) Như trong quyển vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.
4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

 Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 1, 29-39
"Ngài chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu ra khỏi hội đường. Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các Ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám; và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người. Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm được Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Ðộng lực của việc tông đồ

Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì".
Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 3:1-10, 19-20; Mk 1:29-39.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là Thượng-tế nhân-từ và trung-tín.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có đau mắt mới biết thương người mù.” Có là cha mẹ mới biết nỗi khổ của việc cưu mang và dưỡng nuôi con cái. Có trải qua đau khổ và cám dỗ, một người mới có thể giúp ai trong hoàn cảnh đó. Các Bài đọc hôm nay xoay quanh vấn nạn tại sao Chúa Giêsu phải nhập thể và trở nên hoàn toàn giống như con người về mọi phương diện, trừ tội lỗi.
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, thầy cả Eli dùng kinh nghiệm để dạy cho con trẻ Samuel biết lắng nghe và nhận ra tiếng Thiên Chúa trong đêm trường tỉnh thức và cầu nguyện. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đồng cảm với số phận con người: Ngài chữa lành cho mẹ vợ Phêrô và tất cả mọi người trong Thành Capernaum kéo đến kêu xin. Ngài cũng dạy cho các tông-đồ biết thăng bằng giữa các họat động tông-đồ với đời sống cầu nguyện.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): "Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."
1.1/ Những đức tính cần thiết của người ngôn sứ: Để có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa, con người phải tập để có những đức tính sau:
(1) Tĩnh lặng: Đền thờ là một trong những nơi Thiên Chúa nói với con người, Samuel ngủ trong Đền Thờ với Thiên Chúa. Ngoài ra, sa mạc hay đỉnh núi cũng là chỗ Thiên Chúa tỏ mình cho con người. Khi không có cơ hội, phòng riêng cũng là nơi tốt để cầu nguyện. Ngược lại, ồn ào làm con người chia trí và tâm hồn không thể lắng đọng để nghe tiếng Thiên Chúa.
(2) Tỉnh thức: Chúa Giêsu khuyên các môn đệ luôn phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể đứng vững. Cậu bé Samuel trong trình thuật hôm nay rất bén nhạy với tiếng gọi, ba lần cậu giật mình tỉnh thức trong đêm trường. Các thánh có thói quen cầu nguyện trong đêm tối; vì là thời gian Thiên Chúa tỏ mình cho con người. Ngôn sứ cần có tỉnh thức để nhận ra nhu cầu của con người chung quanh trước khi có thể đáp ứng nhu cầu của họ. Những ai mê ngủ khó có thể nghe được tiếng Chúa và tiếng kêu cứu của tha nhân.
(3) Mau mắn vâng lời: Ba lần nghe tiếng gọi trong đêm, ba lần Samuel mau mắn chạy tới với thầy cả Eli để xem Thầy cần gì. Samuel không nản chí khi Thầy truyền về ngủ lại cả ba lần. Nếu Samuel nản chí, cậu sẽ không có cơ hội được Thiên Chúa tỏ mình. Ngôn sứ không chỉ lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng còn phải mau mắn vâng lời và làm theo ý của Ngài. Trong trình thuật hôm nay, Thiên Chúa đang thử luyện cậu bé Samuel trước khi trao sứ vụ ngôn sứ cho cậu. Làm sao Thiên Chúa có thể trao sứ vụ cho những người ù lỳ không thi hành những gì Ngài mong muốn.
1.2/ Kinh nghiệm của thầy cả Eli: Con người cần lắng nghe để học hỏi kinh nghiệm và vâng lời sự chỉ dẫn của những người hữu trách, vì đó là một trong những cách thức Thiên Chúa dùng để huấn luyện con người. Một người không chịu lắng nghe và học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước thường sẽ bị trả giá nặng nề. Trong trình thuật hôm nay, thầy cả Eli truyền kinh nghiệm của mình cho Samuel để cậu có thể lắng nghe tiếng của Ngài: "Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa: "Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."
Sau khi nhận được cách thức đáp lại tiếng Thiên Chúa của Thầy, Samuel về ngủ ở chỗ của mình. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: "Samuel! Samuel!" Samuel thưa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."
Kể từ đó, Thiên Chúa thường xuyên nói chuyện với Samuel. Đức Chúa ở với ông và ông không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu. Toàn thể Israel, từ Dan tới Beer-Sheba, đều biết rằng ông Samuel được Đức Chúa tín nhiệm cho làm ngôn sứ của Người.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu đồng cảm với con người. Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.
2.1/ Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc của Phêrô: “Vừa ra khỏi hội đường Capernaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.”
Trong hành trình của Chúa trên dương gian, Ngài luôn đồng cảm với con người, nhất là những bệnh nhân và những người lâm cảnh khốn khó. Ngài luôn chữa lành khi họ kêu xin; và nhiều khi họ chưa kêu xin nữa.
2.2/ Chúa Giêsu chữa bệnh cho rất nhiều người trong thành: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” Sở dĩ họ phải chờ chiều đến, là Luật Do-Thái không cho chữa bệnh trong ngày Sabbath.
2.3/ Chúa Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
(1) Sự cần thiết của đời sống cầu nguyện: Khi Ngài còn đang cầu nguyện, ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!" Cả một ngày vất vả dạy dỗ và chữa bệnh, Chúa Giêsu vẫn tìm được thời gian để cầu nguyện với Thiên Chúa. Ngài muốn dạy các môn đệ: cần phải thăng bằng giữa đời sống kết hợp với Thiên Chúa để
nuôi dưỡng các họat động tông-đồ.
(2) Nước Chúa cần được mở rộng khắp nơi: Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." Rồi Người đi khắp miền Galilee, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Người tông-đồ của Chúa Giêsu phải biết cảm thương với số phận của con người: ngây thơ, yếu đuối, bệnh tật, đau khổ, và tội lỗi, trước khi có thể giúp đỡ đem họ về cho Chúa.
- Chúng ta cần phải giữ thăng bằng cho đời sống: có thời giờ cho các họat động tông đồ và có thời giờ để cầu nguyện kết hợp với Thiên Chúa.
- Để có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa, chúng ta cần tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tránh xa mọi chia trí của cuộc sống.
- Chúng ta cần trưởng thành trong đời sống để tự giúp mình, và để lãnh trách nhiệm trong việc mở mang Nước Chúa, chứ không được hoàn toàn sống ỷ lại vào người khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Mc 1,29-39


A. Hạt giống...
Chuyện này cũng diễn ra trong khung cảnh một ngày ở Capharnaum và tiếp liền chuyện hôm qua. Sau khi làm một cuộc trừ tà ở Hội đường, Chúa Giêsu đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon. Chúa Giêsu không nói lời nào, chỉ làm một cử chỉ nhỏ là đến gần cầm tay bà nâng dậy. Việc khỏi bệnh xảy ra tức thì. Bà hết bệnh và lo tiếp đãi các ngài.
Người Do thái quen coi bệnh tật là do ma quỷ gây nên. Đặc biệt bệnh sốt là dấu chỉ Thiên Chúa trừng phạt tội bất trung (x. Lv 26,15-16 Đnl 28,22). Vì người ta coi bệnh này là do ma quỷ gây nên, do đó việc Chúa Giêsu cứu chữa bệnh này cũng là một việc trừ tà (Lc 4,39), cho thấy Chúa Giêsu là Đấng đến giải thoát con người khỏi xiềng xích của sự dữ và sự chết.
Kết thúc một ngày làm việc : "Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoàng vắng và cầu nguyện".

B.... nẩy mầm.
1. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận : giảng ở Hội đường (câu 21) ; giảng xong, chữa một người bị quỷ ám (cc 23-28) ; rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô (cc 29-32) ; chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa (cc 32-34) ; Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoàng vắng để cầu nguyện (c 35), và bắt đầu một ngày mới cũng rất bận rộn. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ đề cầu nguyện ; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu vẫn có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
2. Nhìn lại cuộc sống đã qua, một nhà hiền triết thú nhận : Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ, tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi thế giới này nên tốt hơn. Khi được nửa đời người, tôi ý thức mình chưa làm gì được cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào, tôi liền đổi lại lời cầu nguyện cho thiết thực hơn : Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng ngày thôi". Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình quá cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau : "Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính đời sống của con". Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế thì có lẻ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một cuộc đời vô ích" (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
3. "Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. Nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai" (Mc 1,34)
"Tại sao Con Thiên Chúa không muốn làm vua Do thái hở mẹ ? Những điều kỳ diệu của Người khiến con kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Người đủ huỷ diệt sức mạnh của Rôma. Thế mà Người lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian lao khó nhọc đã trở thành vô ích ? Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của Rôma và để vũ khí mà ta khổ công đúc rèn phải rỉ sét ư ?"
Ben Hur đã thốt lên lời ấy trong thất vọng, chán chường. Anh cũng như những người do thái khác đã thất vọng về Con Thiên Chúa. Họ chờ đợi Đấng Messia như một người có thể đem lại cho họ phồn vinh và công lý trong trần thế. Họ chỉ muốn thấy vinh quang Thiên Chúa trừng phạt đế quốc La mã.
Phải chăng vì thế mà Chúa Giêsu không cho quỷ nói Người là ai ? Con đường cứu độ không dẫn Người đến ngai vàng và vương miện trần gian. Người đến để mặc khải tình yêu của Cha, và để mặc khải được trọn vẹn, Người đã chết thay cho mọi người, những kẻ đã dửng dưng để cho máu của Người đổ trên đầu mình.
Lạy Chúa Giêsu, giờ đây công cuộc cứu chuộc của Người đã hoàn tất. Xin cho con luôn biết đón nhận con đường của Người, con đường đưa đến sự sống đời đời. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

15/01/14 THỨ TƯ TUẦN 1 TN
Mc 1,29-39

HẾT MÌNH VÌ THA NHÂN
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các Ngài. Chiều đến khi mặt trời lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. ...Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.
(Mc 1, 31-34)
Suy niệm: Dân chúng tìm đến với Chúa Giêsu như tìm đến một thầy thuốc chữa bá bệnh, nhưng qua các phép lạ chữa bệnh, Chúa lại cho họ thấy Ngài là Đấng Thiên Sai. Hành vi “lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy” chính là ngôn ngữ của Tin Mừng mà Ngài loan báo. Đức Kitô giải thoát con người khỏi những nỗi đau thể xác, để loan báo trọng tâm của chương trình cứu độ là giải thoát con người khỏi tội lỗi, tái lập mối tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa với con người.
Mời Bạn: Bạn chia sẻ những đau khổ của con người, qua những biến cố thiên tai bão lụt, chiến tranh tại đất nước chúng ta hay đó đây trên thế giới. Nhưng bạn chưa là chứng nhân Tin Mừng nếu bạn dừng lại ở đó. Hành vi phục vụ, chia sẻ phải là một lời loan báo Tin Mừng, trước hết là trong ý hướng.
Chia sẻ: Có gì khác giữa việc chữa bệnh của thầy thuốc với việc chữa lành của Đức Kitô? Có gì khác giữa việc phục vụ của một người tin với một người không tin?
Sống Lời Chúa: Mỗi khi làm việc gì, bạn hãy làm với ý hướng phục vụ, và mỗi công việc phục vụ bạn hãy định hướng nó về việc loan báo Đức Kitô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thế giới hôm nay vẫn còn đầy dẫy sự dữ: bệnh tật, tội lỗi, những sa đoạ trong kiếp người. Xin Chúa chữa lành chúng con để chúng con được hưởng dư đầy ơn Chúa cứu độ. Amen.


Bà phục vụ các ngài
Xin cho mọi người biết nhìn nhận vai trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà, và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội. 


Suy nim:
Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum,
Đức Giêsu trở về một căn nhà của một gia đình quen biết,
gia đình của hai anh Simon và Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài.
Không may bà mẹ vợ của Simon lại đang lên cơn sốt.
Đức Giêsu đã lại gần giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà dậy.
Lập tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.
Đây là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu
cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm,
nhưng cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được,
gây cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình.
Đức Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại.
Bếp lại có lửa, bàn lại có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé.
Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này.
Thật gần gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi nắm tay người bệnh nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế.
Nhưng Đức Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an.
Ngài đã nâng bà dậy (êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách.
Phục vụ hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giê su
sau khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau khi Đức Giêsu chết trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ đã đi theo ngài và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê
và họ đã cùng ngài lên Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).
Các bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng,
phục vụ như Thầy Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Xin cho mọi người biết nhìn nhận
vai trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà,
và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Cầu nguyn:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ



Suy niệm
Bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho bà mẹ vợ ông Simon và một số người trong thành; nhưng dẹp tan, tiêu diệt mọi khổ đau bệnh tật không phải là mục đích chính của Đức Giêsu ở trần gian.
Chúa Giêsu đã đạt được rất nhiều thành công trong những ngày đầu của sứ vụ loan báo Tin Mừng. Người giảng dạy những điều mới mẻ, và đặc biệt là chữa lành nhiều bệnh tật khiến dân chúng rất vui mừng và thích thú khi đi theo Người. Nhưng chính vì việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh cho nhiều người, khiến cho dân chúng hiểu lầm về sứ vụ của Người.
Mọi người đều đi tìm thầy”. Tìm thầy để thầy ở lại làng của họ luôn, để tiếp tục chữa bệnh và làm nhiều phép lạ khi họ cần. Nhưng Chúa Giêsu đến thế gian không phải với mục đích đó. Người đến thế gian để loan báo về một Thiên Chúa tình thương, để loan Tin Mừng cứu độ cho tất cả mọi người không ưu tiên cho bất cứ một người nào, một làng nào, hay một đất nước nào.
Bài tin mừng cho chúng ta một cơ hội để suy nghĩ về mối tương quan của chúng ta với Chúa. Chúng ta đến với Người như một người con đến với Cha đầy tình yêu thương, hay chúng ta đến với Người vì Người ban cho chúng ta những ơn mà chúng ta cần?
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chạy đến với Chúa bằng tâm tình của một người con hiếu thảo. Amen.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15 THÁNG GIÊNG
Đời Sống Gia Đình Củng Cố Cấu Trúc Xã Hội
Như chúng ta thấy, gia đình – trong tư cách là “xã hội thứ nhất” – có những đòi hỏi tự nhiên của riêng nó và không thể bị o ép bởi các ý thức hệ hoặc bởi những đòi hỏi cá biệt nào đó của xã hội. Thật vậy, trách nhiệm của xã hội là phải gìn giữ và hỗ trợ gia đình bằng cách thiết lập những khoản luật và chế định những giá trị luân lý để phục vụ cho thiện ích chung. Bất cứ điều luật hay chuẩn mực luân lý nào không hỗ trợ cho gia đình thì cũng không thể nào là tốt cho toàn xã hội, vì gia đình là nền móng của xã hội. Những gì phá hoại gia đình thì đồng thời cũng phá hoại tất cả xã hội. Xã hội nào sẵn sàng xé rách gia đình rốt cục cũng sẽ thấm thía sự thật ấy.
Các nhà cầm quyền và những người làm công tác khoa học cần nhận thức rằng những nhu cầu chính đáng của con người và của xã hội đòi phải có sự cộng tác giữa lĩnh vực xã hội trần thế và lĩnh vực tôn giáo để bênh vực cho quyền lợi của gia đình. Công Đồng Vatican II nhìn nhận: “Trong khi theo đuổi mục đích cứu rỗi của mình, Giáo Hội không phải chỉ truyền thông sự sống Thiên Chúa cho con người, nhưng còn chiếu giãi ánh sáng của sự sống thần linh ấy trên toàn thế giới. Giáo Hội làm công việc này, trước hết bằng cách chữa trị và nâng cao phẩm giá nhân vị, củng cố cơ cấu của xã hội nhân loại và thấm nhuần cho hoạt động thường nhật của con người một chiều hướng và một ý nghĩa sâu xa hơn.” (MV 40) Như vậy, trong khi bảo vệ quan điểm Kitô giáo về đời sống hôn nhân và gia đình, Giáo Hội cũng đang xây dựng và củng cố toàn thể cộng đồng xã hội trần thế bằng một nền nếp luân lý vững chãi và tốt lành.
Thật vậy, tinh thần vâng phục của các tín hữu đối với giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình sẽ bảo đảm rằng các nhân đức luân lý vốn có khả năng vãn hồi sự công bằng, lòng trung tín, sự kính trọng nhân vị, tinh thần trách nhiệm và sự hiểu biết lẫn nhau … sẽ được nhấn mạnh và đề cao vì ích lợi của toàn xã hội.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 15-01
1Sm 3,1-10.19-20; Mc 1, 29-39.

LỜI SUY NIỆM: Chiều đến khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”.
Trên hành trình rao giảng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa Giêsu làm phép lạ giữa đám đông lúc ban ngày, trong ngôi nhà nhỏ bé của mẹ vợ Phêrô, trong hội đường, trong nhà ông trưởng hội đường cũng như trong nhà của viên đại đội trưởng, kể cả lúc mặt trời đã lặn. Chúa Giêsu không giới hạn thời gian và không gian đối với tất cả mọi người đến với Chúa bất cứ vì lý do gì, vì mục đích gì. Là con cái của Chúa, chúng ta cần phải sống như Ngài.
Lạy Chúa Giêsu. Trong ngày sống của chúng con, có biết bao cái chúng con nhìn thấy, nhưng chúng con đã từ chối, bỏ qua với nhiều lý do. Xin cho chúng con biết hy sinh và bước ra khỏi cái “tôi” của chúng con để chúng con sống với con tim yêu thương.
Mạnh Phương


15 Tháng Giêng
Bình An Cho Các Con
Có lần người ta hỏi đại thi hào Dante của nước Italia rằng: đâu là điều mà ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc sống. Bậc vĩ nhân đã trả lời như sau: "Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: đó là sự bình an".
Ðó là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố: trên bia mộ nào, chúng ta cũng luôn ghi lời cầu xin: xin cho họ được an nghỉ nghìn thu. Phải chăng trong cuộc sống hiện tại thế này, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được hòa bình và an nghỉ? Trong những phút giây cuối đời, Chúa Giêsu đã hứa hẹn với chúng ta: "Ta ban bình an cho các con. Ta ban thứ bình an mà thế giới không thể ban tặng cho các con".
Thế giới của chúng ta dường như chưa bao giờ được hưởng những giây phút thái bình thực sự. Hòa bình chỉ là những khoảnh khắc tạm bợ đầy những rình rập của chiến tranh và lo sợ.
Trước Chúa Kitô 600 năm tai Roma, một đền thờ đã được xây lên để kính nhớ thần Janus, vị thần mà người ta đã lấy tên để đặt cho tháng đầu tiên trong năm. Theo ước mong của toàn dân trong đế quốc La Mã, đền thờ này chỉ được mở cửa trong thời bình. Trong vòng 600 năm ấy, dường như các cửa của đền thờ này chỉ được mở trong ba giai đoạn ngắn ngủi. Cánh cửa Hòa Bình đóng mãi đối với con người ở mọi thời đại. Thời đại nào thế giới cũng mong đợi hòa bình, thời đại nào con người cũng mong đợi hòa bình. Khát vọng của Hòa Bình ăn rễ sâu trong lòng người, ngay cả những người suốt đời chỉ gieo rắc chiến tranh và đau thương cho người khác. Chúng ta thích khung cảnh tịch mịch thư thái, chúng ta ngây ngất trước ánh bình minh tươi sáng, chúng ta vui thỏa trước buổi chiều tà êm ả, chúng ta yêu thích những cánh hoa tươi mát v.v… Chúng ta thán phục những con người luôn tỏ ra bình thản trước những hoàn cảnh xáo trộn. Chúng ta đi tìm những tư tưởng bình an, những dòng nhạc êm dịu, những con người hiền lành.
Chúa Giêsu đã nói đến hai chữ bình an không biết bao nhiêu lần. Ngày Ngài sinh hạ, các Thiên Thần loan báo sứ điệp của bình an. Ngài là Vua của những người xây dựng Hòa Bình.
Thánh Phaolô luôn mở đầu và chấm dứt các lá thư của Ngài bằng những lời cầu chúc bình an nồng nhiệt nhất.
(Lẽ Sống)

Thứ Tư 15-1
Thánh Phaolô Ẩn Tu

(233 - 345)
N
hững gì chúng ta thực sự biết về cuộc đời Thánh Phaolô Ẩn Tu thì không rõ đó có phải là dữ kiện hay truyền thuyết.
Ðược biết ngài sinh ở Ai Cập, là nơi ngài mồ côi cha mẹ khi 15 tuổi. Ngài còn là một thanh niên có học thức và đạo đức. Trong thời kỳ bách hại của vua Decius ở Ai Cập năm 250, ngài buộc phải trốn tránh trong nhà của một người bạn. Sau đó sợ rằng người anh rể của mình sẽ đi tố cáo, ngài trốn vào sa mạc và ở trong một cái hang. Dự định của ngài là sẽ trở về nhà sau khi việc bách hại chấm dứt, nhưng cái êm đềm của sự cô quạnh và cái sung sướng của sự chiêm niệm đã khiến ngài thay đổi ý định ban đầu.
Ngài tiếp tục sống ở đó trong 90 năm. Nước uống thì ngài lấy từ con suối gần đó, thức ăn và vải che thân ngài lấy từ cây chà là. Sau 21 năm sống trong cô độc có một con chim hằng ngày đem cho ngài nửa ổ bánh. Trong cuộc sống tĩnh mịch đó ngài cầu xin cho thêá giới được tốt đẹp hơn.
Thánh Antôn làm chứng cho cuộc đời và cái chết thánh thiện của Thánh Phaolô Ẩn Tu. Bị cám dỗ cho rằng mình là người đầu tiên phụng sự Thiên Chúa nơi hoang dã, Thánh Antôn xin Thiên Chúa soi sáng để được biết điều ấy và ngài đã tìm thấy Thánh Phaolô, và thú nhận rằng Thánh Phaolô còn tuyệt hảo hơn ngài. Và chính Thánh Antôn là người đã chôn cất Thánh Phaolô Ẩn Tu, lúc ấy ngài được 112 tuổi và được coi là vị Ẩn Tu Ðầu Tiên.
Ngày lễ kính nhớ ngài được cử hành trong Giáo Hội Ðông Phương và ngài còn được nhắc đến trong nghi thức phụng vụ của Giáo Hội Coptic và Armenia.
Lời Bàn
Thánh ý và đường hướng của Thiên Chúa được thấy trong mọi hoàn cảnh của đời sống. Ðược hướng dẫn bởi ơn sủng của Thiên Chúa, chúng ta có tự do để đáp lại lời mời gọi của Ngài qua những chọn lựa nhằm đưa chúng ta đến gần Chúa hơn, và giúp chúng ta lệ thuộc nhiều hơn vào Thiên Chúa, là Ðấng đã dựng nên chúng ta. Có khi những lựa chọn ấy dường như tách biệt chúng ta khỏi người thân quen. Nhưng thực sự, chúng lại đưa chúng ta gần với nhau trong lời cầu nguyện và trong tình bằng hữu.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét