21/02/2016
Chúa Nhật tuần 2 Mùa Chay năm C
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật II Mùa Chay - Năm C
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY NĂM C
St 15,5-12.17-18; Pl 3,17-4,1; Lc 9,28b-36
St 15,5-12.17-18; Pl 3,17-4,1; Lc 9,28b-36
CHỦ ĐỀ:
LẮNG NGHE VÀ TÍN THÁC
VÀO THIÊN CHÚA
LẮNG NGHE VÀ TÍN THÁC
VÀO THIÊN CHÚA
“Đây là Con Ta, người được Ta tuyển chọn,
hãy vâng nghe lời Người.”
(Lc 9,35)
hãy vâng nghe lời Người.”
(Lc 9,35)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Hằng
năm, Giáo Hội dành thời gian 40 ngày trong Mùa Chay Thánh để mời gọi các tín
hữu gia tăng việc chay tịnh, đào sâu đời sống cầu nguyện, thúc đẩy việc hãm
mình-thống hối-ăn năn, tập bỏ mình nhiều hơn và gia tăng những việc bác ái đối
với tha nhân. Đây là khoảng thời gian tuyệt vời để người tín hữu sống tinh thần
siêu thoát, thoát tục, hướng thiện và hướng thiên, để chuẩn bị lòng mình xứng
đáng đón nhận Mầu Nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Với
tinh thần này, Phụng Vụ Thánh Lễ Chúa Nhật II Mùa Chay Năm C, tiếp tục mời gọi
chúng ta đọc và suy niệm về ý nghĩa lời Chúa muốn nói với chúng ta.
1. Bài đọc 1: St
15,5-12.17-18 - Lời Hứa và Giao Ước với Abraham
Bài đọc 1 chứa đựng nội dung hai cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và
Abraham. Cuộc gặp gỡ lần thứ nhất xảy ra vào ban đêm (15,5), trong một thị kiến
(15,1), với nội dung liên hệ đến việc Thiên Chúa hứa ban cho Abraham một dòng
dõi đông đảo như sao trên trời. Còn cuộc gặp gỡ lần thứ hai xảy ra vào lúc chập
tối, lúc mặt trời gần lặn (15,12), khi giấc ngủ mê ập xuống trên Abraham
(15,12), với nội dung liên hệ đến việc Thiên Chúa hứa ban đất cho con cháu
Abraham làm sở hữu. Câu 6 “Ông
tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính” chính
là câu nối kết hai sự kiện này.
Đến
thời điểm này trong câu chuyện về tổ phụ Abraham, chúng ta biết được ông và vợ
ông là bà Sarah đã già, n
hưng họ vẫn chưa có con (x. St 15,2-3). Lời hứa về dòng dõi của
Abraham đã xảy ra trước đó, ở St 12,2, khi Thiên Chúa truyền gọi Abraham đi đến
vùng đất Người sẽ chỉ cho ông, Người đã hứa với ông: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân
lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi”. Sau khi Abraham chia tay với Lót,
cháu mình, Thiên Chúa hứa thêm: “Ta
sẽ làm cho dòng dõi ngươi nhiều như bụi trên mặt đất; nếu người ta đếm được bụi
trên mặt đất, thì mới đếm được dòng dõi ngươi” (St 13,16). Và lúc
này, Thiên Chúa đưa Abraham ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và đếm thử các vì sao, xem có
đếm nổi không”. Rồi Thiên Chúa lại phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó”
(St 15,5).
Abraham
hiển nhiên không thể đếm nổi các vì sao trên trời, cũng như người ta không thể
đếm được bụi trên mặt đất. Một cách loại suy, dòng dõi phát xuất từ Abraham,
theo lời hứa của Thiên Chúa, sẽ trở nên đông đảo, không sao đếm nổi. Tuy nhiên,
đây đã là lời hứa lần thứ ba rồi. Abraham có đủ lý do để không tin, hay ít là,
khó tin trước lời Thiên Chúa hứa. Nhưng một lần nữa, chúng ta lại thấy Abraham
xứng danh là tổ phụ của các kẻ tin. Ông đã tin Đức Chúa, và được Đức Chúa kể là
người công chính, vì niềm tin của ông vào lời hứa này của Người.
Mùa
Chay là thời gian để người tín hữu đào sâu tương quan với Thiên Chúa. Đây là
thời gian người tín hữu được mời gọi hướng thiên nhiều hơn. Abraham nhìn lên
trời cao, với hằng hà sa số các vì sao, đến độ ông không sao đếm nổi. Abraham
chắc hẳn đã nhận thấy quyền năng sáng tạo cách lạ lùng của Đấng đang nói với
mình. Nếu trời cao đầy huyền nhiệm kia, mà Thiên Chúa còn tạo ra được, thì
không có lý gì, Người không thể tạo cho ông một dòng dõi đông đảo, dù rằng ông
và Sarah đã già. Tin vào lời Thiên Chúa hứa, là tin vào một Thiên Chúa toàn
năng, siêu việt, nhưng cũng rất gần gũi, luôn dành sự ưu ái với mình. Mùa Chay
đối với chúng ta cũng vậy, đó là thời gian để chúng ta đào sâu ba nhân đức đối
thần – Tin, Cậy, Mến – trong tương quan với Thiên Chúa. Chúng ta thử tự vấn
lòng mình: trước những điều tưởng chừng như vô vọng, tôi có đặt đủ niềm tin vào
Thiên Chúa, như Abraham đã làm không?
Một khi Abraham được Thiên Chúa kể là công chính, Abraham xứng
đáng bước vào tương quan giao ước với Thiên Chúa. Trước lời hứa của Thiên Chúa
về vùng đất mà Người sẽ ban cho Abraham và con cháu ông làm sản nghiệp riêng
(x. St 15,9; đ/c St 13,12.14-15), Abraham đã thắc mắc: “Lạy Chúa, làm sao mà biết là con sẽ
được đất này làm sở hữu?” (St 15,8). Đây không phải là thái độ kém
lòng tin, vì ông không bị Thiên Chúa khiển trách trước câu hỏi này. Sau này,
Đức Trinh Nữ Maria cũng từng thưa với sứ thần trong biến cố truyền tin: “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không
biết đến người nam” (Lc 1,34). Đức Maria cũng không hề bị thiên sứ
khiển trách. Sở dĩ như vậy, vì Thiên Chúa là Đấng thấu suốt cõi lòng con người.
Người biết câu hỏi của Abraham hay thắc mắc của Đức Maria không phản ánh thái
độ kém lòng tin. Tuy nhiên, trường hợp của ông Zacaria, cha của Gioan tẩy giả
thì lại khác. Trước việc sứ thần loan báo là bà Elizabeth sẽ sinh cho ông một
người con trai, ông Zacaria đã thưa lại: “Dựa
vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già và nhà tôi đã lớn tuổi”
(Lc 1,18). Vấn đề mà ông Zacaria nêu ra, có lẽ không khác gì so với chuyện ông
Abraham hay Đức Trinh Nữ Maria nêu lên, nhưng ông Zacaria bị sứ thần khiển
trách, vì sứ thần đã “đọc được” qua những lời này thái độ kém lòng tin của
Zacaria, “bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng
thời đúng buổi” (Lc 1,20).
Lời nói của Abraham - “Lạy
Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” - tương
tự như lời nguyện xin một dấu chỉ để chứng thực lời hứa của Thiên Chúa. Thiên
Chúa đáp lại điều này bằng việc ký kết với Abraham một giao ước. Trong đó,
Người đoan chắc với Abraham: “Ta
sẽ cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến sông Cả, tức sông Euphrates”
(St 15,18). Nhưng trước đó, Người tiên báo về tình trạng của dân Israel trước
khi tiến về và sở hữu Đất Hứa: “Dòng
dõi ngươi sẽ trú ngụ trong một đất không phải của chúng. Chúng sẽ làm tôi người
ta, và người ta sẽ hành hạ chúng bốn trăm năm. Nhưng Ta sẽ xét xử dân tộc chúng
phải làm tôi, và sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều tài sản” (St
15,13-14).
Lịch
sử dân Israel chứng thực điều này. Lịch sử ấy chứng thực rằng việc dân Israel
ra khỏi Ai-cập, việc họ tiến bước trong sa mạc, để tiến về Đất Hứa, việc họ
chiếm được Đất Hứa, đều năm trong chương trình cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa
dành cho họ. Điều mà Thiên Chúa muốn nơi họ là tin tưởng vào quyền năng cứu độ
của Thiên Chúa: Người biết thời điểm nào cần phải giải thoát họ, và hoàn tất
lời Người đã hứa với các tổ phụ của họ. Thái độ tin tưởng vào sự quan phòng của
Thiên Chúa chẳng phải là lời mời gọi dành cho cả chúng ta hôm nay nữa hay sao?
2. Bài đọc 2: Pl
3,17-4,1 - Quê Hương đích thực
Trong
thư gửi tín hữu Philiphê, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta một điểm rất quan
trọng trong Mùa Chay Thánh này, một điểm mà chúng ta có thể hay quên, đó là,
quê hương đích thực của chúng ta không phải ở dưới thế này, nhưng ở trên trời.
Như thế, người tín hữu chúng ta, tuy sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về
thế gian; tuy sống và làm việc ở đời này, nhưng không vì thế mà cố bám víu vào
cuộc sống chóng qua cho bằng được, càng không thể vì thế mà chỉ lo mải mê tìm
kiếm cuộc sống trần thế mau qua này, mà ngó lơ hay đánh mất sự sống đích thực
của chúng ta ở trên thiên quốc với Thiên Chúa.
Thiên Chúa chúng ta thờ, vì thế, không thể là “cái bụng”; điều
chúng ta tìm kiếm, vì thế, không thể là “những sự thế gian” (Pl 3,19). Trái
lại, điều mà chúng ta cần phải lo tìm kiếm trước tiên, là “Nước Thiên Chúa và đức công chính của
Người, còn những điều khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Điều mà
chúng ta cần ngóng lòng mong chờ là được Chúa Kitô đến cứu độ chúng ta, Đấng
đến giải thoát chúng ta khỏi mọi xiềng xích của tội lỗi và của tử thần, để đưa
chúng ta về quê hương đích thực.
Mùa
Chay là thời gian để làm sâu sắc thêm cảm thức thuộc về Thiên Chúa nơi chúng
ta; thời gian sống kết hợp với Thiên Chúa một cách mật thiết hơn; thời gian
hướng lòng mình về với Thiên Chúa và lo tìm kiếm những giá trị thiêng liêng;
thời gian chân nhận ơn gọi đích thực của từng người chúng ta là sống cho Thiên
Chúa và cho mọi người. Đây cũng là thời gian chúng ta cần ý thức hơn về những
giới hạn của chúng ta, nhưng không vì thế mà nản lòng; trái lại, chúng ta trông
chờ vào ơn cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, là Đấng có quyền năng biến đổi thân xác
yếu hèn của chúng ta nên thân xác vinh hiển của Người, khi Người đến trong vinh
quang của Người.
3. Bài Tin Mừng: Lc
9,28b-36 - Đức Kitô hiển dung
Trong
bài đọc 1, Thiên Chúa hứa với Abraham, là Người sẽ ban cho dòng dõi ông có đất
làm sản nghiệp riêng, một vùng đất trải dài từ sông Ai-cập đến sông Cả. Nhưng
để tiến vào vùng Đất Hứa này, dân Israel, con cháu của tổ phụ Abraham, sẽ phải
trải qua một cuộc Xuất Hành từ Ai-cập. Trong cuộc Xuất Hành đó, vị thủ lãnh
đích thực của họ, không ai khác hơn là Thiên Chúa Yahweh, Đấng đã dùng cánh tay
mạnh mẽ của Người để giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ bên Ai-cập, và dẫn dắt họ
vượt qua bao thăng trầm thử thách trong hành trình sa mạc, để tiến về vùng đất
mà Người đã hứa ban cho họ qua tổ phụ Abraham.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, với biến cố Đức Kitô biến hình, chúng ta cũng được nói
đến một cuộc Xuất Hành khác, cao trọng hơn và có ý nghĩa hơn đối với toàn thể
nhân loại, đó là cuộc hành trình đi xuyên qua Cuộc Khổ Nạn và Sự Chết để đạt
tới Vinh Quang Phục Sinh của Đức Giêsu. Nhưng trước khi Đức Giêsu bước vào cuộc
Xuất Hành này, như để củng cố đức tin của các môn đệ trước những thử thách lớn
lao mà họ sẽ phải đối diện trong Cuộc Thương Khó của Người, Đức Giêsu đã tỏ lộ
vinh quang của Người cho ba vị đại diện các môn đệ, là Phêrô, Gioan, và
Giacôbê.
Biến cố này đã tạo ra sự ngất ngây hạnh phúc nơi các môn đệ, đến
độ Phêrô xin dựng ba lều, một cho Đức Giêsu, một cho Môsê và một cho Êlia, để
ba môn đệ này có thể lưu lại thêm chút thời gian trong cảnh giới vinh quang này
của Đức Giêsu. Nhưng tiếng Chúa Cha phán từ trong đám mây - “Đây là Con Ta, người được Ta tuyển
chọn, hãy vâng nghe lời Người” - nhắc nhở các môn đệ một điều hệ
trọng: Đây không phải là lúc để các môn đệ làm theo ý muốn của mình, cho dù ý
muốn đó có tốt đẹp thế nào đi nữa; nhưng là thời gian họ cần biết lắng nghe và
thi hành điều Chúa Giêsu dạy bảo, trong mọi hoàn cảnh sống thường ngày, ngay cả
khi vinh quang rạng ngời của Chúa Giêsu như còn đang che khuất trước mắt
họ.
Áp
dụng vào Mùa Chay Thánh này, đoạn Tin Mừng như thể nói với chúng ta: Mùa Chay
là thời gian để chúng ta gia tăng việc lắng nghe và thi hành thánh ý của Thiên
Chúa cho cuộc đời chúng ta. Việc này cần được thực hiện một cách rõ nét nhất
trong đời sống cầu nguyện. Nhưng không phải chỉ khi nào chúng ta được hạnh
phúc, khi mọi sự diễn ra êm xuôi cho chúng ta hay cho gia đình chúng ta, thì
chúng ta mới biết lắng nghe và thi hành thánh ý của Người. Việc lắng nghe tiếng
Chúa cần được thực hiện trong mọi hoàn cảnh sống thường ngày. Chỉ như vậy,
chúng ta mới có khả năng cùng bước vào cuộc Xuất Hành của Chúa Giêsu, nghĩa là
cùng chịu đau khổ, vác thập giá với Người hằng ngày, để cùng được sống lại với
Người. Liệu chúng ta có dám thực hiện điều này không, nhất là trong Mùa Chay
Thánh này? Làm thế nào để chúng ta có thể gia tăng việc lắng nghe và thực hành
lời Chúa dạy?
II. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Khi tỏ vinh quang cho các môn đệ, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm
tin của các ông trước mầu nhiệm thập giá. Trong niềm tin tưởng và cậy trông vào
lòng thương xót của Chúa, cộng đoàn chúng ta cùng hiệp ý cầu xin:
1. Xin
Chúa cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn vững tin vào vinh quang của Đức
Kitô, biết sẵn sàng chết đi cho tội lỗi và tích cực trở nên chứng nhân cho
quyền năng và tình thương của Thiên Chúa ở giữa thế gian.
2. Xin
Chúa cho những tổ chức và cá nhân đang dấn thân đấu tranh cho công lý và mưu
cầu hạnh phúc cho con người ở khắp nơi trên thế giới, tìm được sự đồng tình
cộng tác và đạt được nhiều thành quả qua những nỗ lực của mình.
3. Xin
Chúa cho những người tội lỗi lầm lạc tìm được niềm tin yêu hy vọng nơi tình
thương quan phòng của Chúa, biết thành tâm sám hối và nhiệt tâm biến đổi đời
sống để xứng đáng với phẩm giá làm người và làm con cái Chúa.
4. “Đây
là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Xin Chúa cho mọi người trong cộng
đoàn chúng ta luôn biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong đời sống hằng
ngày, để ngày càng gắn bó mật thiết với Đức Kitô và nên giống Người hơn.
Chủ tế: Lạy
Chúa Giêsu, Chúa bày tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ và tất cả
chúng con. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban cho chúng con một đức tin
kiên cường cùng đức cậy vững chắc, để trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng
con luôn tiến bước trên con đường thập giá theo chân Chúa. Chúa hằng sống và
hiển trị muôn đời. Amen.
Chủ đề : Biến đổi
Chúa Giêsu biến hình
(Lc 9,28b-38)
Sợi
chỉ đỏ :
Việc
Thiên Chúa kết giao ước với tổ phụ Abraham (Bài đọc I) là nền tảng của sự biến
đổi thân phận loài người : Vì loài người phàm hèn mà được vinh dự kết giao
ước với Thiên Chúa ; Việc biến đổi được thực hiện một cách mẫu mực nơi
Chúa Giêsu (Bài Tin Mừng) : nhân tính của Ngài lu mờ đi để thiên tính hiển
lộ ; Thánh Phaolô (Bài đọc II) hứa hẹn với các tín hữu rằng "Đức Kitô
sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của
Ngài"
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Chắc
hẳn nhiều lần chúng ta phải thất vọng vì con người của mình sao mà tồi tệ xấu
xa quá. Nhiều lần chúng ta cố gắng sửa đổi bản thân cho tốt hơn. Nhưng cũng
nhiều lần chúng ta thất bại.
Bài
Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu biến hình ra vinh quang ;
Thánh Phaolô hứa chúng ta cũng sẽ được biến đổi như thế nhờ quyền năng Thiên
Chúa.
Trong
Thánh lễ này, chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu và xin Ngài biến đổi chúng
ta.
II. Gợi ý sám hối
-
Chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Chúa, nhưng do tội lỗi, càng ngày
chúng ta càng khác xa Ngài.
- Sở
dĩ chúng ta ngày càng khác xa Chúa là vì chúng ta hay dung dưỡng con người xác
thịt mà không bồi dưỡng con người thần linh trong chúng ta.
-
Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chúng ta gần gũi tội lỗi nhiều hơn là gần
gũi với ơn Chúa.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I (St 15,5-12.17-18)
Các
bài đọc Cựu Ước từ Chúa nhật II Mùa Chay trở đi tuần tự nhắc lại những chặng
đường quan trọng của Lịch sử Cứu độ. Hôm nay, đoạn sách Sáng thế đề cập đến
chặng đầu tiên : Thiên Chúa kết giao ước với Abraham. Nhân loại cũ do
nguyên tổ Ađam kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một
nhân loại mới bắt đầu từ Abraham. Nếu Abraham chọn Thiên Chúa là Chúa của mình
và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ là Đấng bảo vệ ông, Ngài sẽ làm cho có một
dòng dõi đông đức, là dân riêng của Ngài.
Giao
ước được ký kết theo nghi thức thời xưa : Một số con vật được xẻ đôi đặt ở
hai bên ; những người kết ước đi giữa những con vật xẻ đôi ấy, ngụ ý rằng
nếu không tuân giữ giao ước thì cũng sẽ bị chết phanh thây như những con vật
ấy. Trong bài tường thuật này, chỉ có Thiên Chúa (được tượng trưng bởi lửa và
khói) đi qua những con vật ấy, Abraham không đi qua, bởi vì đây là giao ước đơn
phương : chỉ mình Thiên Chúa cam kết thôi.
Hình
ảnh những mãnh cầm tượng trưng cho những thế lục thù địch. Chúng xà xuống trên
những con vật để phá việc ký kết giao ước ấy. Nhưng Abraham đã xua đuổi được
chúng.
2.
Đáp ca (Tv Tv 26)
Thánh
vịnh 26 được phụng vụ chọn đọc tiếp theo bài đọc I vì nó diễn tả đúng tâm tình
của Abraham : quyết chọn Chúa là chỗ nương tựa của mình và tuyệt đối tin
tưởng nơi Ngài.
3.
Tin Mừng (Lc 9,28-36)
Chúng
ta nên để ý tới bối cảnh của việc Chúa Giêsu biến hình :
1.
Ngài biến đổi hình dạng ra vinh quang sáng láng đang lúc cầu nguyện.
2.
Có một số chi tiết cho thấy cuộc biến hình này có liên quan tới việc Chúa Giêsu
chịu chết và sống lại :
-
Việc biến hình xảy ra "khoảng 8 ngày sau", tức là sau việc Ngài báo
tin chịu nạn lần thứ nhất (xem Lc 9,22)
-
Hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Ngài "về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn
thành tại Giêrusalem.
-
Tiếng Chúa Cha từ trời phán "Đây là Con Ta, người Ta tuyển chọn" là
trích những đoạn Cựu Ước nói về Người Tôi Tớ của Giavê chịu khổ để chuộc tội
cho loài người.
Như
thế Chúa Giêsu hôm nay biến hình để cho 3 môn đệ thân tín thấy trước một chút
vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài
chịu nạn chịu chết.
4.
Bài đọc II (Pl 3,17--4,1)
Mở
đầu trích đoạn này, Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước Ngài.
Sở dị Phaolô dám kêu gọi như thế vì Phaolô cũng đã bắt chước tổ phụ Abraham,
đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa.
Phaolô
còn khuyến khích rằng nếu chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên
Chúa thì Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài mà chế ngự tất cả những yếu đuối của
thân phận con người và biến đổi chúng ta thành vinh hiển như Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1.
Ơn gọi và Biến hình
Ơn
gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan. Người không đức
tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền : bỏ cái đang có,
đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất
vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô
định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa
vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành
công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn
gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng, diệt cái kiêu căng và cuồng tín Biệt Phái.
Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới
ánh sáng kỳ diệu với lời trách nhẹ nhàng : "Saulê, sao người bắt
bớ Ta ?". Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông Đồ Dân
Ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến
giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
Lịch
sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa ;
từ gái giang hồ thành thánh nhân ; từ trai tứ chiếng nên đấng lập
dòng ; từ kẻ khô khan đến người sốt mến ; từ người tham lạm, hà khắc
trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân... Đó là những cuộc canh tân và biến hình
đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn
Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi
cung lòng mỗi cá nhân.
Phúc
Âm hôm nay hé lộ một chút vinh quang và sự cả sáng của Cứu Chúa khi Ngài đàm
đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng và kính yêu là Elia và Môisen. Tại thế,
vì sứ mệnh cứu độ, Chúa Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi
Lời, để sống đời hèn mọn, bất lực và tầm thường của một thế nhân. Ngài cần ăn
uống, nghỉ ngơi. Ngài phải đau buồn, bị chê bai và chỉ trích. Ngài lo lắng, và
bồn chồn về cuộc thảm tử sắp đến. Nhưng điều khác biệt là Ngài vui đón ý Chúa
Cha. Bởi vậy, một lần nữa, Chúa Cha đã khen thưởng "Đây là Con Ta Dấu
Yêu, hãy nghe lời Ngài". Trong phút giây ngút ngàn thân thương ấy,
Ngài bước ra khỏi cuộc đời lam lũ và ô trọc để vui hưởng phút vinh quang ngây
ngất và tuyệt vời của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không
phải chỉ có Abraham, Môisen, Êlia, Tông đồ mới có ơn gọi và được biến hình.
Trái lại, ơn gọi phổ quát "Hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời"
đã được trao tặng và mời gọi mỗi cá nhân. Thực thi ơn gọi ấy một cách hoàn hảo
và trọn vẹn thì chúng ta ắt sẽ được biến hình.
Giám
mục John Quinn trong lễ Thêm sức cho 50 em tại Sacramento năm 1983 đã mô tả ơn
gọi và sứ mạng của người Việt Nam tại Mỹ như sau : "Cha rất hài
lòng khi thấy các con họp nhau tôn thờ và ca tụng Chúa bằng tiếng mẹ đẻ. Các
con hãy duy trì nền văn hóa và truyền thống cổ truyền, đừng để nó mai một đi.
Cha vui mừng vì hình thức đạo đức bên ngoài biểu lộ đức tin anh hùng và sâu xa chúng
con thừa hưởng do công quả của các Đấng tử đạo Việt Nam. Cha cảm động vì sự
hiện diện của chúng con ở đây nên ánh sáng và muối đất cho những người khác".
Tin
đạo, thực hành đạo là ơn gọi của chúng ta. Sống đạo và mang đạo vào đời là
phương thế trong lành, thánh thiện và vĩ đại chúng ta phải thực hiện để
"danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện". Đừng để phú
quý tạo tâm kiêu và bất cần Chúa. Đừng để ghen tương đốt cháy và tiêu hủy thiện
chí. Đừng để tị hiềm gây bất mãn, đố kỵ và tranh chấp. Đừng để ích kỷ hủy hoại
tình đồng hương và khóa cửa lòng. Hãy nhận diện ra ai là đồng chí để cùng nắm
tay, dìu nhau bước tới và biến hình và ai là kẻ thù đang khai trừ và bắt bớ Đức
Kitô trong Giáo hội để cẩn trọng, đề phòng và cảm hóa. Và nhất là hãy can đảm
cùng Chúa Kitô "vạn lý trường chinh" trong âm thầm, chịu đựng. tự
hủy, hy sinh, khiêm tốn, tin tưởng và phó thác. Chúng ta không bao giờ lầm
đường khi bước trên những dấu chân của Đức Kitô. Đó là con đường biến hình duy
nhất của ông bà, anh chị và của tôi. (Lm Nguyễn Bình An, Nguyệt san "Dân
Chúa Mỹ Châu")
2 *
Hai ngọn núi
Hãy
so sánh cảnh hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu :
- cùng xảy ra trên một ngọn núi : núi biến hình (Tabor ?) và núi Cây
Dầu.
- ở 2 nơi Chúa Giêsu đều biến hình : ở núi biến hình, Chúa Giêsu từ hình
dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa ; ở núi Cây dầu, từ hình
dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.
- Cả 2 sự biến hình đều diễn ra trước 3 nhân chứng : Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Và 2 điểm phụ : 2 lần ấy, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu đều thức và cầu
nguyện.
Nhưng 2 cuộc biến hình này bổ túc ý nghĩa cho nhau : Trên núi biến hình,
các môn đệ thấy được thiên tính của Chúa Giêsu vinh quang hơn bao giờ hết,
khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó ;
Trên núi Cây dầu, họ thấy Thầy trong nhân tính yếu đuối hơn bao giờ hết. Con
người thật của Chúa Giêsu vừa có thiên tính vừa có nhân tính. 2 biến cố bổ túc
nhau giúp ta hiểu được con người thật của Ngài.
* Suy gẫm 2 biến cố này, ta cũng thấy được con người thật của ta : trong
ta có một phần là Adam con của xác thịt, một phần là Con của Chúa.
- Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy
ngất ngây sung sướng ; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa qua, yêu thương
anh chị em quá, sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ
cho kẻ làm hại mình...
- Nhưng cũng như Chúa Giêsu trên núi Cây dầu, lại có những lúc chúng ta suy sụp
trầm trọng ; phần Adam nổi lên lấn áp phần Con của Chúa. Khi đó ta thấy
đời thật buồn nản, thấy không ai thương mình, không ai hiểu mình, Chúa hình như
cũng xa mình... Từ đó ta nguội lạnh với Chúa, ích kỷ với anh chị em, khe khắt
với những kẻ làm khổ mình.
+ Nhưng có một điều rất quan trọng ta hãy nhớ : Chúa Giêsu luôn cầu nguyện
khi biến hình vinh quang trên núi biến hình cũng như khi biến hình thảm não
trên núi Cây dầu. Cầu nguyện giúp thống nhất con người chúng ta đúng theo kế
hoạnh Thiên Chúa. Đặc biệt nhớ cầu nguyện trong lúc suy sụp.
+ Và nếu ta biết cầu nguyện để thống nhất hóa con người mình như thế thì ta sẽ
cũng như Chúa Giêsu được Chúa Cha âu yếm nói "Đây là con yêu dấu của
Ta" (trên núi biến hình), và được thiên thần Chúa an ủi (trên núi Cây
Dầu).
"Lạy
Chúa
Xin
cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Chúa Giêsu xưa trên núi biến
hình.
Trong
những giây phút đó, xin cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa : con sẽ hướng
về Chúa để cầu nguyện và con sẽ được nghe lời Chúa nói : Con là con yêu
dấu của Cha.
Và
lạy Chúa
Khi
con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa : Con
cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi,
nâng đỡ và xoa dịu con."(Viết theo Mark Link, Sunday homilies)
* 3.
Nét mặt con người
Nét
mặt con người rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta không nhớ mặt
người nào thì kể như người đó đã trở thành một chiếc bóng.
Những
sắc thái của nét mặt diễn tả được rất nhiều điều đến độ đáng ngạc nhiên, bởi đó
nét mặt là đối tượng nghiên cứu rất thú vị. Nét mặt luôn biểu lộ cho biết ta là
ai và cuộc sống của ta như thế nào. Điều này giải thích lý do người ta hay dùng
tiếng "mặt" để nói về người khác. Chẳng hạn : "Từ lâu rồi
tôi không thấy mặt nó". Nhìn nét mặt một người, ta có thể đoán được cảm
giác bên trong của người ấy : họ đang vui hay buồn, hay thờ ơ…
Chúng
ta cũng thường nói "mất mặt". Trong trường hợp này, ‘mặt" chính
là danh dự của con người. Khi ta nói người nào đó có "hai mặt" thì có
nghĩa đó là một con người dối trá…
Mỗi
người chúng ta có nhiều nét mặt, được biểu lộ trong nhiều tình huống khác
nhau : khi thì hạnh phúc, khi thì buồn rầu, khi thì bạo dạn, khi thì nhút
nhát, khi thì bình thản, khi thì sợ sệt, khi thì đau đớn, khi thì vui mừng, khi
thì thân thiện, khi thì giận dữ… Điều này chẳng có gì đáng xấu hổ cả, vì đó là
một phần của thân phận làm người của chúng ta. Điều duy nhất đáng xấu hổ là nét
mặt giả tạo, vì tất cả những nét mặt được kể trước đó đều nói lên sự thật, còn
nét mặt giả tạo nói lên sự dối trá.
Tại
sao người ta ngại cho kẻ khác thấy mét mặt thật của mình ? Tại sao người
ta hay mang mặt nạ ? Phải chăng vì người ta sợ người khác biết sự thật yếu
kém của mình ? Có lẽ chính vì thế mà nhiều khi người ta cố làm một nét mặt
tươi cười đang khi trong lòng thì muốn khóc.
Bài
Tin Mừng hôm nay nói khi Chúa Giêsu ở trên núi thì mặt Ngài trở nên sáng chói
như mặt trời. Thật lầm khi nghĩ rằng đó chính là nét mặt thật của
Chúa. Thực ra, điều mà các môn đệ đã thấy là thật, nó tỏ lộ vinh quang bên
trong của Ngài, sự vinh quang mà thường khi Ngài che dấu. Nhưng nói rằng nét
mặt vinh quang trên núi hôm ấy là nét mặt thật thì khiến người ta tưởng rằng
những nét mặt khác là không thật, là giả.
Nét
mặt mà Chúa Giêsu tỏ lộ trên núi là một nét mặt đặc biệt nhưng không phải là nét
mặt duy nhất của Ngài. Ngài có tất cả những nét mặt như chúng ta ta có, chỉ trừ
những nét mặt giả tạo. Chúng ta đã thấy có khi Ngài mệt, có khi Ngài giận, có
khi Ngài buồn, có khi Ngài vui, có khi Ngài trìu mến, có khi Ngài cảm thông…
Tất cả những nét mặt ấy đều thật, vì đàng sau những nét mặt ấy là bản chất thật
của Ngài : vừa là người hoàn toàn giống chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), vừa là
Thiên Chúa vinh quang, như tiếng từ trời phán "Đây là Con yêu quý của
Ta".
Mặc
dù người ta nói nét mặt là cửa sổ của tâm hồn, nhưng mỗi nét mặt che dấu nhiều
hơn là biểu lộ. Điều cốt lõi của con người vẫn còn vô hình không thấy được. Mỗi
người là một huyền nhiệm.
Cũng
như Abraham, chúng ta phải sống bằng đức tin. Đức tin dạy rằng đàng sau những
nét mặt bình thường của một người là thân phận của một người con của Chúa, một
người anh chị em của Chúa Giêsu, hướng tới một vinh quang đời đời. (FM)
* 4.
Một thoáng vinh quang
Trên
núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân xác Chúa Giêsu,
và Ngài được biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ đẹp và sự sáng ngời
ấy. Đó không phải chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh quang thật từ bên trong thoáng
tỏ lộ ra. Nói tắt một lời : Đó là chính Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu.
Chúng
ta cũng có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng ta đã được dựng
nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có những thoáng biến hình.
Van Gogh nói : "Một người tiều phu hay một người thợ mỏ nghèo nhất
cũng có thể có những thoáng cảm hứng khiến anh ta cảm thấy gần như đang ở thiên
đàng".
Một
người nghèo sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể câu chuyện sau
đây. Một hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi nhà thờ lúc nào không
hay. Ông không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện không, nhưng ông nhớ là cảm thấy
tâm hồn mình chìm ngập trong ánh sáng. Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có
bình an. Ông cảm thấy mình rất gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này
rất sâu đậm mặc dù chỉ thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng
đánh đổi cả đời để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm
nghiệm ấy tan loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại
cảm nghiệm tuyệt vời ấy, nhưng không được.
Điều
sai lầm của người vô gia cư trên là muốn bám cứng vào
một cảm nghiệm thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ không đi tới. Nói
rõ hơn nữa : lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm thoáng qua ấy để soi
sáng cuộc đời tăm tối của mình, và nhờ đó mà can đảm tiến bước trong hy vọng.
Phêrô
cũng sai lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám cứng vào cảm
nghiệm vinh quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi tiếp tục cuộc sống thường
ngày. Nhưng Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi để đối diện với tương lai. Ngài
không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc
chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để
giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến.
Nghe
lời Chúa, Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng qua hôm ấy vẫn
còn sáng mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết : "Chúng ta
đã được chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi… Khi ấy có tiếng phán từ trời
rằng : Đây là Con yêu quý của Ta, Ta hài lòng về Ngài" (1 Pr
1,17-18).
Chúng
ta cũng những thoáng cảm nghiệm được ánh sáng và niềm vui. Những thoáng cảm
nghiệm ấy cho ta thấy được đất hứa mà chúng ta phải tiến đến trong đức tin.
Nhưng nên biết rằng Chúa ban những thoáng biến hình ấy là để thêm sức cho chúng
ta sống những nhiệm vụ hằng ngày.
Tín
ngưỡng và sự cầu nguyện không phải là những chỗ ẩn trốn, mà là những trợ lực
giúp chúng ta đương đầu với gian lao thử thách. (FM)
5.
Người vẫn đồng hành
Truyện
ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các
ngôi sao, nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển đổi trong vũ trụ bao
la.
Một
lần kia, đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện trên trời,
ông ta vô ý ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh, khiến một người đi
ngang qua đó nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng giếng, liền đoán được việc
gì đã xay ra, bèn nói với nhà thiên văn : "Này ông, ông cứ
muốn biết những việc xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông
không thấy ?"
*
Đêm
hôm ấy, Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên
núi cầu nguyện.
Trong
lúc Người thân mật cầu nguyện với Chúa Cha thì các ông lại mê mệt trong giấc
ngủ say. Nhưng khi tỉnh dậy, thấy Chúa Giêsu vinh quang chói loà, cả hai ông
Môsê và Êlia đàm đạo với Người cũng rạng ngời vinh hiển, thì Phêrô mau mắn
thưa : "Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá !" (Lc
9,33). Các ông thích ở chốn vinh quang sáng láng, nhưng lại không tỉnh thức cầu
nguyện. Các ông muốn cắm lều trên núi cao, nhưng lại chìm sâu trong cơn ngủ mê.
Sau này trong vườn Cây Dầu, cũng chính ba môn đệ này vẫn còn mê ngủ, cho đến
khi kẻ thù đến bắt mất Thầy. Đó là thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta…
Chính
vì biết các môn đệ yếu chuối mà Chúa Giêsu đã cho các ông được chiêm ngắm vinh
quang của Người, dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin của các ông trong
cuộc khổ nạn mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem. Đồng thời để các ông có
bằng chứng loan báo về việc Người phục sinh sau này.
Việc
biến hình sáng láng hôm nay cũng là để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô
ở Xêdarê cách đây tám ngày : "Thầy là đấng Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống" (Mt 16,16).
Nếu
cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc
Người chấp nhận cuộc khổ nạn, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra vất vả
nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai.
Nếu
đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng biển đổi, thì việc gặp gỡ, kết hiệp
với Chúa trong suy niệm và cầu nguyện sẽ biến đổi tâm hồn, cuộc sống và cả con
người chúng ta mỗi ngày để nên giống Chúa hơn.
Nếu
sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại
tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả Chúa ban trong
cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Người vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta
trong mọi biến cố của cuộc sống.
*
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình sáng láng trên núi Tabo và đã hấp hối bi thảm
trên núi Cây Dầu. Nhưng trong hai lần ấy, Chúa đều cầu nguyện mật thiết với
Chúa Cha. Xin cho chúng con biết cầu nguyện, lúc hạnh phúc cũng như khi đau
khổ, khi an vui cũng như lúc gặp thử thách, để chúng con luôn kết hiệp với Chúa
và để Chúa nâng đỡ chở che. Amen. (TP)
6.
Chuyện minh họa
a/
Biến đổi
Một
người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia,
có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán
nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau
trở vào dõng dạc tuyên bố :
-
Đúng, anh ta nhập đạo thật.
-
Sao anh biết ?
-
Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với qui cách ta
đặt, không thiếu nữa.
Người nào tiếp nhận đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.
b/
Đổi tiền
Đến
nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền
đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên
trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng
thanh niên giầu có : cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
V. Lời nguyện cho mọi
người
Chủ
tế : Anh chị em thân mến, nhờ mầu nhiệm Hiển dung, Chúa mời gọi chúng ta
vâng nghe lời Đức Kitô và đổi mới cuộc đời. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa,
chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1. Chúa Giêsu phải trải qua đau khổ thập giá / rồi mới bước vào vinh
quang phục sinh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa
hiểu rằng / đó cũng là con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua.
2. Như thánh Phêrô /
ai cũng đều mong muốn được hạnh phúc trọn vẹn / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho mọi người hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự / khi tận tụy
phục vụ tha nhân.
3. Trong đời sống thường
ngày / con người gặp biết bao nhiêu là thử thách gian truân / Chúng
ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / trong những giờ phút đen tối nhất
của cuộc đời / được ánh vinh quang Chúa tỏ hiện nơi Đức Kitô soi sáng đỡ
nâng.
4. Đây là Con yêu dấu của
Ta / Ta hết lòng quý mến / Các ngươi hãy vâng nghe lời Người /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chăm chỉ
lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.
Chủ
tế : Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cởi bỏ con người cũ và loại trừ
những việc làm xấu xa tội lỗi, để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô
là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy
Cha : Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương
Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của
Chúa Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình
hiếu thảo của chúng ta.
- Lúc chúc bình
an : Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau
thực sự ; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện
không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
VII. Giải tán
Sau
khi các môn đệ được chứng kiến vinh quang Chúa Giêsu trên núi, Chúa Giêsu đã
bảo các ông xuống núi tiếp tục cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng vừa chứng
kiến vinh quang Chúa trong Thánh Lễ. Giờ đây chúng ta hãy trở lại cuộc sống,
tiếp tục những nhiệm vụ thường ngày với một sức mạnh mới.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật II Mùa Chay (C)
Chúa Nhật, 21 Tháng 2,
2016
Chúa Giêsu Hiển Dung
Phương cách mới làm
viên mãn những lời tiên tri
Lc 9:28-36
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh
với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.
Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã
giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn
về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết
thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh
lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh
Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung
quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa
hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được
hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng
Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý
và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã
mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng
con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Một vài ngày trước đó,
Đức Giêsu đã nói rằng chính Người, Con Một Thiên Chúa, phải chịu xét xử và bị
đóng đinh bởi những kẻ có thẩm quyền (Lc 9:22; Mc 8:31). Dựa theo các dữ
kiện trong các sách Tin Mừng Máccô và Mátthêu, các môn đệ, đặc biệt là ông Phêrô,
đã không hiểu được những điều Chúa Giêsu nói và đã cảm thấy bất an bởi lời ấy
(Mt 16:22; Mc 8:32). Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ và quay sang
Phêrô gọi ông là Satan (Mt 16:23; Mc 8:33). Do bởi vì những lời của
Chúa Giêsu đã không tương ứng với ý tưởng một Đấng Cứu Thế vinh quang mà họ đã
mường tượng. Luca không đề cập đến phản ứng của Phêrô và câu trả lời
mạnh mẽ của Chúa Giêsu, nhưng ông có mô tả, như những Thánh Sử khác, cảnh Chúa
Biến Hình. Luca xem việc Chúa Biến Hình như là một sự hỗ trợ cho các
môn đệ để cho các ông có thể vượt thắng được sự bất an và thay đổi ý tưởng của
họ về Đấng Cứu Thế (Lc 9:28-36). Đem ba môn đệ cùng đi với Người,
Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và, trong khi Người đang cầu nguyện, Người biến
hình. Khi đọc văn bản, tốt hơn chúng ta nên lưu ý đến những điểm sau
đây: “Ai xuất hiện cùng với Chúa Giêsu trên núi để đàm đạo cùng
Người? Chủ đề của cuộc đàm đạo là gì? Thái độ của các môn
đệ ra sao?”
b) Phần phân đoạn văn bản để
trợ giúp cho bài đọc:
Lc 9:28: Giây
phút khủng hoảng
Lc 9:29: Sự
thay đổi diễn ra trong lúc cầu nguyện
Lc 9:30-31: Sự
xuất hiện của hai người đàn ông và cuộc đàm đạo của họ với Chúa Giêsu
Lc 9:32-34: Phản
ứng của các môn đệ
Lc 9:35-36: Tiếng
nói của Chúa Cha
c) Tin Mừng:
28 Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. 29 Và
đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên
trắng tinh sáng láng. 30Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là
Môsê và Êlia, 31 hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của
Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. 32 Phêrô và hai bạn ông
đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với
Người. 33 Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa
Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm
ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Khi nói thế, Phêrô
không rõ mình nói gì. 34 Lúc ông còn đang nói, thì một đám
mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều
kinh hoàng. 35 Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng:
"Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". 36 Và
khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó,
các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể
thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong
phần suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào
trong câu chuyện Chúa Biến Hình đã làm bạn hài lòng nhất? Tại sao?
b) Những ai
cùng đi lên núi với Chúa Giêsu? Tại sao họ lại đi?
c) Ông Môisen
và tiên tri Êlia xuất hiện trên núi bên cạnh Chúa Giêsu. Tầm quan
trọng của hai vị này trong Cựu Ước đối với Chúa Giêsu, đối với các môn đệ, đối
với các giáo đoàn trong thập niên 80 là gì? Và đối với chúng ta ngày
nay là gì?
d) Lời tiên
tri nào trong Cựu Ước được viên mãn trong lời của Chúa Cha nói về Chúa
Giêsu?
e) Thái độ
của các môn đệ trong câu chuyện này là gì?
f) Đã có hiện
tượng biến hình trong cuộc sống của bạn chưa? Kinh nghiệm về hiện
tượng biến hình đã giúp bạn hoàn thành sứ vụ của mình tốt đẹp hơn như thế nào?
g) Hãy so
sánh lời mô tả của Luca về việc Biến Hình của Chúa Giêsu (Lc 9:28-36) với lời
mô tả về nỗi lo buồn của Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu (Lc 22:39-46). Hãy
cố gắng tìm xem có bất kỳ điểm tương đồng nào không. Ý nghĩa của
những điểm tương đồng này là gì?
5. Chìa khóa
dẫn đến bài đọc
Dành cho những ai muốn
đào sâu vào trong chủ đề
a) Bối cảnh
về bài giảng của Chúa Giêsu:
Trong hai chương trước của sách Tin Mừng
Luca, sự đổi mới được đem đến bởi Chúa Giêsu thì nổi bật và mối căng thẳng giữa
Mới và Cũ ngày càng tăng. Cuối cùng, Chúa Giêsu nhận ra rằng không
có ai hiểu được ý của Người và lại càng không hiểu về chính con người của Chúa. Người
ta đã nghĩ rằng Người giống như Gioan Tiền Hô, tiên tri Êlia hay một tiên tri
thuở xưa (Lc 9:18-19). Các môn đệ chấp nhận Người là Đấng Cứu Thế,
nhưng là Đấng Cứu Thế vinh quang, theo như lời tuyên truyền bởi nhà cầm quyền
và những chức sắc tôn giáo của Đền Thờ (Lc 9:20-21). Đức Giêsu đã cố
gắng giải thích với các môn đệ của Người rằng cuộc hành trình được dự kiến bởi
các tiên tri là cuộc hành trình đau thương bởi vì sự ràng buộc của nó với những
kẻ bị hắt hủi trong xã hội và người môn đệ chỉ có thể là môn đệ nếu người ấy tự
vác lấy thập giá của mình (Lc 9:22-26). Tuy nhiên, Người đã không
thành công cho lắm. Trong một bối cảnh khủng hoảng như thế, việc
Chúa Hiển Dung xảy ra.
Trong những năm của thập niên 30, kinh
nghiệm Chúa Biến Hình đã có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của Chúa
Giêsu và cũng như của các môn đệ. Nó đã giúp họ vượt qua cuộc khủng
hoảng đức tin và thay đổi ý tưởng của họ về Đấng Cứu Thế. Vào những
năm của thập niên 80, khi Luca đang viết sách cho các giáo đoàn Kitô hữu ở Hy
Lạp, ý nghĩa của cuộc Biến Hình đã được đào sâu và mở rộng. Trong
ánh sáng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu và của việc truyền bá Tin Mừng giữa dân
ngoại trong hầu hết các quốc gia, từ miền Paléstine đến nước Ý, kinh nghiệm của
việc Chúa Biến Hình đã bắt đầu được xem như là một lời xác tín của các cộng
đoàn Kitô hữu vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hai ý nghĩa
được hiện diện trong lời mô tả và diễn giải của việc Chúa Biến Hình trong Tin
Mừng theo thánh Luca.
b) Lời bình
luận về văn bản:
Lc 9:28: Thời
khắc khủng hoảng
Có vài lần, Chúa Giêsu
gặp phải rắc rối với dân chúng, với các giới chức tôn giáo và các nhà cầm quyền
thời ấy (Lc 4:28-29; 5:20-21; 6:2-11; 7:30,39; 8:37; 9:9). Người biết họ
sẽ không để yên cho Người làm những việc Người đã làm. Chẳng chóng
thì chầy họ sẽ bắt Người. Ngoài ra, trong xã hội thời ấy, việc công
bố về Vương Quốc Nước Trời, như Chúa Giêsu đã làm, là việc không thể nào được
dung thứ. Người hoặc giả phải rút lui hay là sẽ phải chết! Không
có sự chọn lựa nào khác. Chúa Giêsu đã không rút lui. Do
đó, cây thập giá đã thấp thoáng xuất hiện, không chỉ là chuyện có thể xảy ra mà
là một điều chắc chắn (Lc 9:22). Cùng với cây thập giá, cũng có xuất
hiện sự cám dỗ với ý nghĩ về một Đấng Cứu Thế Vinh Quang, thay vì Đấng
Cứu Thế Chịu Đóng Đinh, người tôi tớ chịu đau khổ, được công bố
bởi ngôn sứ Isaia (Mc 8:32-33). Vào lúc khó khăn này, Chúa Giêsu đi
lên núi để cầu nguyện, đi theo cùng với Người có các ông Phêrô, Giacôbê và
Gioan. Qua lời cầu nguyện của mình, Chúa Giêsu tìm kiếm sức mạnh để khỏi
bị mất khả năng định hướng trong sứ vụ của mình (xem Mc 1:35).
Lc 9:29: Sự
biến đổi xảy ra trong lúc cầu nguyện
Ngay khi Chúa Giêsu
bắt đầu cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi và Người xuất hiện vinh
quang. Dung mạo Người thay đổi và áo Người trở nên trắng tinh
sáng láng. Đó là sự vinh quang mà các môn đệ mường
tượng về Đấng Mêssia. Việc biến hình này cho các ông biết rõ ràng
rằng Đức Giêsu đích thực là Đấng Thiên Sai được tất cả mọi người mong
đợi. Nhưng những gì xảy ra tiếp theo sau việc Chúa Biến Hình sẽ chỉ
ra rằng con đường đi đến vinh quang thì khá khác so với những gì họ đã tưởng
tượng. Việc biến hình sẽ là lời mời gọi để hoán cải.
Lc 9:30-31: Hai
người xuất hiện đàm đạo với Chúa Giêsu
Cùng với Chúa Giêsu và
trong cùng một trạng thái vinh quang có sự xuất hiện của các ông Môisen và
Êlia, hai nhân vật lớn của Cựu Ước, đại diện cho Lề Luật và các Ngôn Sứ. Họ
đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc Xuất Hành đem lại sự viên mãn tại
Giêrusalem”. Như vậy, trước mặt các môn đệ, Lề Luật và các Ngôn Sứ
xác nhận rằng Đức Giêsu chính là Đấng Mêssia vinh quang, được hứa
hẹn trong Cựu Ước và được chờ đợi bởi toàn dân. Các ông cũng còn xác
nhận rằng con đường dẫn đến sự Vinh Quang là con đường đau khổ
của sự xuất hành. Cuộc Xuất Hành của Chúa Giêsu là cuộc thương khó,
cái chết và sự sống lại của Người. Qua “cuộc xuất hành” của mình,
Chúa Giêsu đánh đổ sự thống trị của tư tưởng sai lầm về Đấng Mêssia được tuyên
truyền bởi nhà cầm quyền và bởi các viên chức tôn giáo và gài bẫy mọi người
trong điều mơ ước về một vị Mêssia anh hùng dân tộc và vinh quang. Kinh
nghiệm Chúa Biến Hình đã xác nhận rằng Đức Giêsu là Đấng Mêssia Tôi Tớ được chỉ
định như một sự trợ giúp để giải thoát họ khỏi những ý tưởng sai lầm về Đấng
Thiên Sai và để khám phá ra ý nghĩa thực sự của Vương Quốc Nước Trời.
Lc 9:32-34: Phản
ứng của các môn đệ
Các môn đệ đã ngủ
say. Khi các ông thức dậy, nhìn thấy Chúa Giêsu trong vinh quang và
có hai người đàn ông cùng với Người. Nhưng phản ứng của Phêrô cho
thấy rằng các ông đã không nhận thức được ý nghĩa thực sự của vinh
quang mà Chúa Giêsu đã hiện ra cho các ông. Như thường cũng
xảy ra với chúng ta, các ông chỉ nhận thức được những gì liên quan đến
họ. Ngoài những điều ấy thì họ không chú ý đến. “Lạy
Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm!” Và các ông không còn muốn
đi xuống núi nữa! Khi vấn đề là cây thập giá, cho dù trên Núi Biến
Hình hay là Núi Cây Dầu (Lc 22:45), các ông ngủ say! Các ông ưa
chuộng sự Vinh Quang hơn là Thập Giá! Các
ông không muốn nói đến hoặc nghe về cây thập giá. Các ông muốn nắm chắc
giây phút vinh quang trên núi, và các ông đề nghị xin dựng ba lều. Phêrô
không biết mình đang nói gì.
Trong khi Phêrô còn
đang nói, thì có một đám mây hạ xuống từ trên cao và bao phủ các Ngài. Thánh
Luca nói rằng các môn đệ đã kinh hoảng khi đám mây bao phủ họ. Đám
mây là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây đi
theo đám đông dân chúng trên cuộc hành trình của họ qua sa mạc (Xh 40:34-38; Ds
10:11-12). Khi Chúa Giêsu lên trời, Người đã được bao phủ bởi một
đám mây và họ không còn nhìn thấy Người (Cv 1:9). Đây là dấu hiệu
cho thấy rằng Đức Giêsu đã mãi mãi tiến vào thế giới của Thiên Chúa.
Lc 9:35-36: Tiếng
nói của Chúa Cha
Một giọng nói từ trong
đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta Yêu Dấu, Đấng Được Tuyển Chọn, các
ngươi hãy nghe lời Người”. Với cùng một câu mà ngôn sứ Isaia đã công
bố Đấng Mêssia-Tôi Tớ (Is 42:1). Đầu tiên là các ông Môisen và Êlia,
bây giờ đến chính Thiên Chúa trình diện Đức Giêsu như là Đấng Cứu Thế-Tôi Tớ,
Đấng bước tới vinh quang qua cây thập giá. Tiếng nói kết thúc với
một lời khuyên cuối cùng: “Các ngươi hãy nghe lời Người!” Đang
lúc tiếng nói từ trời phát ra, các ông Môisen và Êlia biến mất, và chỉ thấy còn
mình Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa rằng từ giờ trở đi sẽ chỉ có Đức
Giêsu giải thích Kinh Thánh và ý muốn của Thiên Chúa. Người là Lời
Thiên Chúa dành cho các môn đệ: “Các ngươi hãy nghe lời Người!”
Lời tuyên bố “Đây là
Con Ta Yêu Dấu, Đấng Được Chọn, các ngươi hãy nghe lời Người” rất quan trọng
cho các giáo đoàn vào những năm cuối thập niên 80. Qua sự khẳng định
này, Thiên Chúa Cha đã xác nhận niềm tin của các Kitô hữu vào Đức Giêsu là Con
Một Thiên Chúa. Vào thời Chúa Giêsu, đó là những năm 30, từ ngữ Con
Thiên Chúa được dành riêng cho một người có phẩm giá và sứ vụ rất
cao. Chính Đức Giêsu đã đưa ra ý nghĩa liên quan đến từ ngữ này bằng
cách nói rằng tất cả đều là con cái Thiên Chúa (xem Ga 10:33-35). Tuy
nhiên đối với một số người thì danh hiệu Con Thiên Chúa đã trở
thành bản tóm gọn tất cả mọi danh hiệu, hơn một trăm danh hiệu mà các Kitô hữu
tiên khởi đã đặt cho Chúa Giêsu vào hậu bán thế kỷ thứ nhất. Trong
những thế kỷ sau đó, danh hiệu Con Thiên Chúađã được Giáo Hội tập
trung tất cả niềm tin vào con người của Đức Giêsu.
c) Phần phụ
chú:
i) Việc
Chúa Biến Hình đã được ghi lại trong ba sách Tin Mừng: Mátthêu (Mt
17:1-9), Máccô (Mc 9:2-8) và Luca (Lc 9:28-36). Điều này cho thấy
rằng cảnh này chứa một sứ điệp rất quan trọng. Như đã nói, đó là
điều trợ giúp rất nhiều cho Chúa Giêsu, cho các môn đệ và cho các cộng đoàn
tiên khởi. Nó xác nhận rằng Đức Giêsu trong sứ vụ của Người là Đấng
Cứu Thế-Tôi Tớ. Nó đã giúp cho các môn đệ vượt qua cuộc khủng hoảng
mà cây thập giá và sự đau khổ đã gây ra cho họ. Nó hướng dẫn các
cộng đoàn để đào sâu thêm đức tin của họ vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng
đã được mặc khải bởi Chúa Cha và Đấng đã trở nên chìa khóa mới để giải thích Lề
Luật và lời các Ngôn Sứ. Sự kiện Chúa Biến Hình tiếp tục là sự trợ
giúp trong việc khắc phục khủng hoảng mà cây thập giá và sự đau khổ đem đến vào
ngày nay. Ba môn đệ say ngủ là sự phản ảnh của tất cả chúng
ta. Tiếng nói của Chúa Cha được nói với chúng ta như đã nói với các
ông: “Đây là Con Ta Yêu Dấu, Đấng Được Chọn; các ngươi hãy nghe lời
Người!”
ii) Trong
Tin Mừng của Luca, có một sự tương đồng giữa cảnh Chúa Biến Hình (Lc 9:28-36)
và cảnh Chúa Giêsu buồn sầu trong Vườn Cây Dầu (Lc 22:39-46). Chúng
ta có thể lưu ý những điều sau đây: trong cả hai cảnh, Chúa Giêsu đi
lên núi cầu nguyện và đem theo ba môn đệ, Phêrô, Giacôbê và Gioan. Trong
cả hai trường hợp, diện mạo của Chúa Giêsu được biến đổi và Người biến hình
trước mặt các ông; vinh quang tại lúc Chúa Biến Hình, đổ mồ hôi máu trong Vườn
Cây Dầu. Cả hai lần những nhân vật trên trời xuất hiện để an ủi
Người, các ông Môisen và Êlia và thiên thần từ trời. Trong cả hai
lần Chúa Biến Hình và Chúa Lo Buồn, các môn đệ say ngủ, dường như các ông đứng
ngoài sự kiện và dường như họ không hiểu được gì. Tại phần cuối của
cả hai câu chuyện, Chúa Giêsu tái hợp với các môn đệ. Không còn nghi
ngờ gì, Luca muốn nhấn mạnh đến sự tương đồng giữa hai cảnh này. Đó
là điều gì? Đó là trong sự suy gẫm và cầu nguyện, chúng ta sẽ thành
công trong việc hiểu được ý nghĩa mà nó vượt khỏi phạm vi từ ngữ, và để cảm
nhận được chủ đích của tác giả. Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng
ta.
iii) Thánh
Luca mô tả việc Chúa Biến Hình. Có những lần trong đời chúng ta khi
đau khổ đến nỗi mà chúng ta có thể nghĩ rằng: “Thiên Chúa đã bỏ
tôi! Người không còn ở với tôi nữa!” Và sau đó đột nhiên
chúng ta nhận ra rằng Người chẳng bao giờ bỏ rơi chúng ta, mà là mắt của chúng
ta đã bị bịt kín và đã không nhận thức được sự hiện diện của Thiên Chúa. Rồi
thì mọi việc được thay đổi và biến dạng. Đó là sự biến hình! Điều
này xảy ra hàng ngày trong đời sống chúng ta.
6. Thánh Vịnh
42 (41)
“Linh hồn tôi khao khát Thiên Chúa hằng sống!”
Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.
Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống.
Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan?
Châu lệ là cơm bánh đêm ngày,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
"Này Thiên Chúa ngươi đâu? "
Tôi thả hồn miên man tưởng nhớ
thuở tiến về lều thánh cao sang
đến tận nhà Thiên Chúa,
cùng muôn tiếng reo mừng tán tạ,
giữa sóng người trẩy hội tưng bừng.
Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người,
Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
Lạy Chúa, con chìm sâu trong phiền muộn,
nên chi từ giải đất Giođan,
cũng như rặng Khéc-môn cao ngất, và núi nhỏ Mi-xa,
con tưởng nhớ đến Ngài.
Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm,
khi tiếng thác của Ngài tuôn đổ ầm vang.
Sóng cồn theo nước cuốn,
Ngài để cho tràn ngập thân này.
Ban ngày CHÚA gửi tình thương xuống,
con ngâm nga bài thánh nhạc thâu đêm
thành kinh nguyện dâng Chúa Trời nguồn sống.
Con thưa cùng Thiên Chúa,
là núi đá bảo vệ đời con: "Chúa quên con sao đành?
Sao con phải lang thang tiều tuỵ,
bị quân thù áp bức mãi không thôi? "
Xương cốt con gãy rời từng khúc,
bởi đối phương lăng nhục thân này,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
"Này Thiên Chúa ngươi đâu? "
Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người,
Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.
Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống.
Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan?
Châu lệ là cơm bánh đêm ngày,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
"Này Thiên Chúa ngươi đâu? "
Tôi thả hồn miên man tưởng nhớ
thuở tiến về lều thánh cao sang
đến tận nhà Thiên Chúa,
cùng muôn tiếng reo mừng tán tạ,
giữa sóng người trẩy hội tưng bừng.
Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người,
Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
Lạy Chúa, con chìm sâu trong phiền muộn,
nên chi từ giải đất Giođan,
cũng như rặng Khéc-môn cao ngất, và núi nhỏ Mi-xa,
con tưởng nhớ đến Ngài.
Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm,
khi tiếng thác của Ngài tuôn đổ ầm vang.
Sóng cồn theo nước cuốn,
Ngài để cho tràn ngập thân này.
Ban ngày CHÚA gửi tình thương xuống,
con ngâm nga bài thánh nhạc thâu đêm
thành kinh nguyện dâng Chúa Trời nguồn sống.
Con thưa cùng Thiên Chúa,
là núi đá bảo vệ đời con: "Chúa quên con sao đành?
Sao con phải lang thang tiều tuỵ,
bị quân thù áp bức mãi không thôi? "
Xương cốt con gãy rời từng khúc,
bởi đối phương lăng nhục thân này,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
"Này Thiên Chúa ngươi đâu? "
Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người,
Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
7. Lời Nguyện
Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng
con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa
Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và
ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng
con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria,
thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa
là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa
Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét