5/04/2020
Thứ Bảy tuần 2 Phục
Sinh
THÁNH MÁCCÔ, TÁC GIẢ
SÁCH TIN MỪNG.
Lễ kính.
* Thánh Marcô là cháu của thánh Barnaba. Người đã đi theo thánh
tông đồ Phaolô trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, và theo đến tận Rôma.
Người cũng là môn đệ của thánh Phêrô và là thông ngôn của thánh
Phêrô, đã soạn lời giảng của thánh Phêrô thành sách Tin Mừng. Truyền thống
cho rằng người đã sáng lập giáo đoàn Alexandria.
BÀI ĐỌC I: 1 Pr 5,
5b-14
“Marcô, con tôi, gửi lời chào
anh em”.
Trích thư thứ nhất
của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, tất cả
anh em hãy mặc lấy đức khiêm nhường để đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại
kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm nhường. Vậy anh em hãy hạ mình dưới bàn
tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người nhắc anh em lên trong thời giờ Người thăm
viếng. Anh em hãy trút bỏ cho Người mọi điều lo lắng của anh em, bởi vì chính
Người chăm sóc anh em.
Anh em hãy ăn ở tiết độ
và hãy tỉnh thức, vì kẻ thù anh em là ma quỷ, như sư tử gầm thét, nó rình mò
chung quanh, tìm kiếm một ai để nuốt. Anh em hãy vững vàng trong đức tin mà chống
lại nó, vì biết rằng hết mọi người anh em khác trong thế gian đều phải chịu
cùng một sự đau khổ đó. Nhưng Thiên Chúa nguồn mạch mọi ân sủng, Đấng đã kêu gọi
anh em tham dự vinh quang đời đời của Người trong Đức Giêsu Kitô, chính Người sẽ
làm cho anh em là những người chịu đau khổ ít lâu, được hoàn thiện, vững vàng
và kiên cố. Nguyện Người được vinh quang và uy quyền đến muôn đời. Amen.
Nhờ Silvanô, người anh
em trung tín, tôi cam đoan như thế, tôi viết vắn tắt thư này cho anh em, để
khuyên nhủ và chứng thực rằng đó là ơn đích thực của Thiên Chúa, và anh em đang
tận hưởng. Hội thánh được tuyển chọn ở Babylon và Marcô, con tôi, gởi lời chào
anh em. Anh em hãy chào nhau trong cái hôn thánh thiện.
Nguyện (chúc) ơn Chúa ở
cùng tất cả anh em, những người ở trong Đức Giêsu Kitô. Amen.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 88, 2-3.
6-7. 16-17
Đáp: Lạy Chúa, con
sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
1) Con sẽ ca ngợi tình
thương của Chúa tới muôn đời. Qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung
thành Chúa. Vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi
trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. – Đáp.
2) Lạy Chúa, trời xanh
ca tụng những kỳ công của Chúa, và lòng trung thành Chúa trong công hội thánh
nhân. Vì trên cõi nước mây, ai bằng được Chúa, trong các con Thiên Chúa, ai giống
như Ngài? – Đáp.
3) Phúc thay dân tộc
biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng
rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. – Đáp.
ALLELUIA: 1 Cr 1, 23.
24
Alleluia, alleluia!
– Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, Ngài là quyền năng và khôn ngoan
của Thiên Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 16, 15-20
“Các con hãy đi khắp thế gian
rao giảng Tin Mừng”.
Bài kết thúc Phúc
Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện
ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng
cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ
bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy,
họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất
độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ
được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với
các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các
ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời
giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Thánh Marcô,
Thánh sử
Thánh Marcô, mặc dù
mang tên Roma, nhưng lại là người Do Thái, và còn được gọi theo tên Do Thái là
Gioan. Tuy không thuộc nhóm Mười Hai Tông Đồ, nhưng rất có thể ngài đã quen biết
Chúa Giêsu. Nhiều văn gia Giáo Hội phát hiện ra chữ ký kín ẩn của thánh Marcô
trong Phúc Âm của ngài, trong trình thuật người thanh niên bỏ chạy với một mảnh
vải trên người, khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu: ý nghĩa ở đây là chỉ
có mình thánh Marcô đề cập đến chi tiết ấy. Điều này còn trùng hợp với một chi
tiết khác: Marcô là con trai bà Maria, một góa phụ giàu có, sở hữu ngôi nhà,
nơi các tín hữu Jerusalem tiên khởi thường tụ họp. Theo một truyền thống cổ
xưa, ngôi nhà này chính là ngôi nhà có phòng Tiệc Ly, nơi Chúa Giêsu đã ăn bữa
Tiệc Ly và thiết lập bí tích Thánh Thể.
Marcô có bà con với
thánh Barnabas; ngài đã đồng hành với thánh Phaolô trong cuộc truyền giáo lần
thứ nhất, và ở bên cạnh vị Tông Đồ dân ngoại trong những ngày cuối đời của
ngài. Tại Roma, Marcô còn làm môn đệ của thánh Phêrô. Trong Phúc Âm của ngài, với
ơn linh hứng Chúa Thánh Thần, thánh Marcô đã trung thành trình bày giáo huấn của
vị Tông Đồ trưởng. Theo một truyền thống cổ xưa được thánh Jerome kể lại, sau
khi hai thánh Phêrô và Phaolô chịu tử đạo, thánh Marcô đã sang Alexandria, giảng
đạo, thành lập giáo đoàn và trở thành giám mục tiên khởi ở đó. Vào năm 825,
thánh tích của ngài được dời từ Alexandria về Venice, thành phố hiện nay nhận
ngài làm quan thầy.
1. Marcô, người
phụ tá của thánh Phêrô.
Ngay từ khi còn rất trẻ,
Marcô đã thuộc vào nhóm các tín hữu tiên khởi ở Jerusalem, những người quen biết
và được sống bên cạnh Đức Mẹ và các Tông Đồ. Mẹ của ngài là một trong những phụ
nữ đã lấy tài sản chu cấp cho Chúa Giêsu và mười hai Tông Đồ. Marcô cũng có bà
con với thánh Barnabas, một trong những nhân vật chính yếu trong thời kỳ đầu,
và là người đầu tiên dìu dắt ngài trong công cuộc rao giảng Phúc Âm. Marcô đồng
hành với thánh Phaolô và thánh Barnabas trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất,1
nhưng khi đến đảo Cyprus, Marcô cảm thấy không thể tiếp tục được nữa nên đã từ
giã và trở về Jerusalem.2 Thánh Phaolô dường như rất thất vọng về tính thay đổi
của Marcô. Về sau, khi trù định cho hành trình truyền giáo lần thứ hai, thánh
Barnabas muốn đem theo Marcô, nhưng thánh Phaolô nhất định không chịu vì nhớ lại
sự việc trước đó. Cuộc tranh luận giữa thánh Phaolô và thánh Barnabas căng thẳng
đến nỗi sau cùng hai vị đã chia tay, mỗi người tiến hành chương trình của riêng
mình.
Khoảng mười năm sau,
chúng ta lại thấy Marcô tại Roma, lần này ngài giúp đỡ thánh Phêrô. Lời thánh
Phêrô đã viết trong thư: con tôi là Marcô,3 minh chứng mối liên hệ lâu bền và gần
gũi giữa hai vị. Thời gian ấy, Marcô là thông dịch viên cho vị Tông Đồ trưởng,
việc này đem lại một lợi điểm mà chúng ta nhận ra trong Phúc Âm được ngài viết
sau đó ít năm. Mặc dù không ghi lại một bài giáo huấn dài nào của Chúa, nhưng
bù lại, thánh Marcô đã mô tả rất sinh động về những biến cố trong cuộc sống của
Chúa Giêsu với các Tông Đồ. Trong các trình thuật của ngài, chúng ta thấy hiện
lên những thị trấn nhỏ ven bờ biển Galilê; chúng ta cảm nhận được những lời bàn
tán của đám đông đi theo Chúa Giêsu, chúng ta như thể tiếp xúc với những cư dân
của các địa phương ấy, nhìn thấy những việc kỳ diệu của Chúa Giêsu, và những phản
ứng tự phát của nhóm Mười Hai. Tóm lại, chúng ta thấy mình như giữa đám đông
dân chúng, được chứng kiến các biến cố Phúc Âm. Qua những mô tả sinh động,
thánh Marcô đã in đậm vào linh hồn chúng ta một hấp lực dịu dàng nhưng không
sao cưỡng lại của Chúa Giêsu mà dân chúng và các Tông Đồ đã cảm nghiệm được
trong cuộc sống với Thầy Chí Thánh. Thánh Marcô đã trung thành ghi lại những hồi
tưởng thân mật của thánh Phêrô với Thầy Chí Thánh: những ký ức ấy không phai
nhòa theo năm tháng, nhưng càng ngày càng sâu đậm và sinh động hơn, càng thấm
thía và hứng thú hơn. Có thể nói Phúc Âm thánh Marcô là tấm gương sinh động về
giáo huấn của thánh Phêrô.4
Thánh Jerome cho chúng
ta biết, theo thỉnh nguyện của các tín hữu Roma, Marcô, môn đệ và thông ngôn của
thánh Phêrô, đã viết Phúc Âm theo những gì ngài đã được nghe thánh Phêrô giảng
dạy. Và chính thánh Phêrô, sau khi đã duyệt bản Phúc Âm ấy, đã dùng quyền bính
chấp thuận cho sử dụng trong Giáo Hội.5 Đây thực sự là sứ mệnh chính trong cuộc
đời thánh Marcô: trung thành ghi lại những lời giảng của thánh Phêrô. Ngài đã để
lại cho hậu thế biết bao ích lợi! Ngày nay, chúng ta thực sự phải mang ơn thánh
Marcô vì nhiệt tâm ngài đã đặt vào công việc và lòng trung thành với ơn linh hứng
của Chúa Thánh Thần! Ngày lễ kính thánh Marcô là dịp để chúng ta xét lại việc hằng
ngày chúng ta đọc Phúc Âm, lời Chúa nói trực tiếp với chúng ta, như thế nào.
Chúng ta có thể tự hỏi đã bao lần chúng ta đã sống như người con hoang đàng, hoặc
áp dụng cho mình lời cầu khẩn của anh mù Bartimaeus: Lạy Chúa, xin cho con được
nhìn thấy – Domine, ut videam! Hoặc lời thỉnh nguyện của người cùi: Lạy Thầy, nếu
Thầy muốn, xin cho tôi được sạch – Domine, si vis, potes me mundare! Bao lần
chúng ta cảm thấy tận đáy lòng rằng Chúa Kitô đang nhìn và mời gọi chúng ta hãy
sát bước theo Người, kêu gọi chúng ta hãy vượt thắng một thói xấu nào đó làm
chúng ta xa cách Người, hoặc như các môn đệ trung thành, hãy sống nhân ái hơn nữa
với những người khó hòa hợp với chúng ta?
2. Là khí cụ của
Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện một cuộc khởi đầu mới.
Thánh Marcô đã giúp đỡ
thánh Phêrô nhiều năm tại Roma, ở đó, chúng ta còn thấy ngài phụ giúp thánh
Phaolô nữa.6 Quả thế, con người mà thánh Phaolô thấy không thể sử dụng trong
hành trình truyền giáo lần thứ hai thì nay lại là một niềm an ủi7 và một người
bạn trung thành. Vào khoảng năm 66, thánh Tông Đồ đã viết cho Timothy: Con hãy
đem Marcô đi với con, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của cha.8 Sự
kiện đảo Cyprus một thời hết sức ảm đạm, thì nay dường như đã bị quên lãng hoàn
toàn. Giờ đây, thánh Phaolô và thánh Marcô là bạn hữu và đồng sự của nhau trong
công cuộc quan trọng là mở rộng vương quốc Chúa Kitô. Thực sự đây là một tấm
gương lớn lao và cũng là một bài học tuyệt vời cho chúng ta học biết: đừng bao
giờ kết luận dứt khoát về một ai, khi nào cần thiết một ai, chúng ta hãy biết
cách nối lại mối dây thân hữu mà đã có lúc xem như đã tan rã hoàn toàn!
Giáo Hội hôm nay nêu
lên mẫu gương thánh Marcô. Thật là một hy vọng và ủi an khi chiêm ngưỡng đời sống
vị sử gia thánh thiện này. Mặc dù có những yếu đuối, nhưng chúng ta vẫn có thể
như ngài, tin tưởng vào ơn Chúa và sự phù trợ của Mẹ Giáo Hội. Những thất bại
và những hành vi nhát đảm của chúng ta, dù lớn hoặc nhỏ, phải làm chúng ta
khiêm tốn hơn, liên kết chúng ta mật thiết hơn với Chúa Giêsu, và kín múc từ
nơi Chúa nguồn sức mạnh mà chúng ta đang thiếu thốn.
Chúng ta đừng để những
bất toàn nên cớ làm chúng ta xa cách Chúa hoặc từ bỏ sứ mạng tông đồ, mặc dù
đôi khi chúng ta đã không đáp ứng đúng mức với ơn Chúa, hoặc chúng ta đã ngần
ngại khi được nhờ cậy. Những hoàn cảnh như thế, nếu có khi nào xảy ra, chúng ta
không nên ngạc nhiên, bởi vì như lời thánh Phanxicô Salê đã nói, Không có gì phải
ngạc nhiên vì bệnh tật là bệnh tật, yếu đuối là yếu đuối, và gian ác là giac
ác. Tuy nhiên, hãy hết sức gớm ghét điều bạn đã xúc phạm đến Chúa, và với lòng
tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, hãy quảng đại quay lại con đường mà bạn
đã từ bỏ.9
Những thất bại và những
hành vi nhát đảm rất quan trọng. Chúng khiến chúng ta trở về bên Chúa để nài
xin ơn tha thứ và trợ giúp của Người. Nhưng Chúa vẫn tin tưởng chúng ta, và
chúng ta vẫn cậy trông ơn Chúa, nên chúng ta hãy lập tức làm lại và quyết tâm
trung thành hơn trong tương lai. Với ơn phù trợ của Đức Mẹ, chúng ta sẽ biết
cách rút ra điều hữu ích từ những yếu đuối, nhất là khi kẻ thù, những kẻ không
bao giờ nghỉ ngơi, ra sức làm chúng ta thất đảm và từ bỏ cuộc chiến. Chúa Giêsu
muốn chúng ta thuộc về Người mặc dù chúng ta đã có một lịch sử yếu đuối với những
sai phạm.
3. Sứ vụ tông đồ.
Hãy đi khắp thế gian
và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo.10 Hôm nay, chúng ta đọc những lời này
trong Ca Nhập Lễ. Đây là sứ vụ tông đồ Chúa đã ban và thánh Marcô đã ghi lại. Về
sau, được ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, thánh nhân đã minh chứng lệnh truyền ấy
đã được thực hiện khi ngài chép Phúc Âm: Các tông đồ ra đi và rao giảng khắp
nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố tin mừng bằng những phép lạ
kèm theo.11 Đó là những lời thánh Marcô kết thúc Phúc Âm của ngài.
Thánh Marcô đã trung
thành với sứ vụ tông đồ mà ngài đã nghe qua lời giảng của thánh Phêrô: Hãy đi
khắp thế gian. Chính thánh Marcô và Phúc Âm của ngài đã là một thứ men hiệu quả
cho thời đại ngài. Chúng ta cũng phải trở nên một thứ men tốt cho thời đại
chúng ta. Nếu sau lần nhát đảm, thánh nhân đã không khiêm nhượng và dũng cảm
làm lại, có lẽ giờ đây chúng ta không có những kho tàng lời giảng và việc làm của
Chúa Giêsu để thường xuyên suy gẫm, và nhiều người, nếu không nhờ ngài, chắc
cũng chẳng bao giờ biết được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của nhân loại.
Sứ mạng của thánh
Marcô - cũng như của các Tông Đồ, của các nhà truyền giáo, của các tín hữu tốt
lành luôn ra sức sống đúng với ơn gọi của mình - chắc chắn không phải là một sứ
mạng dễ dàng. Chúng ta biết ngài đã chịu tử đạo. Ắt hẳn thánh nhân đã trải qua
kinh nghiệm chịu bách hại, mệt mỏi, và hiểm nguy trong việc theo bước Chúa.
Chúng ta hãy cám tạ
Thiên Chúa, cũng như các tín hữu thời các Tông Đồ, vì sức mạnh và niềm vui Chúa
Kitô đã được truyền lại đến ngày nay cho chúng ta. Mọi thế hệ Kitô hữu, mọi cá
nhân đều được mời gọi lãnh nhận sứ điệp Phúc Âm và truyền thụ lại cho người khác.
Ơn Chúa không bao giờ thiếu: Non est abbreviata manus Domini – Cánh tay Chúa
không bị thu ngắn.12 Người tín hữu biết Chúa đã thực hiện các phép lạ từ nhiều
thế kỷ trước kia, và hiện nay Người vẫn đang thực hiện.13 Với ơn Chúa giúp, mỗi
người chúng ta cũng sẽ thực hiện những phép lạ nơi tâm hồn thân nhân, bạn bè,
và những người quen biết, nếu chúng ta sống trong mối kết hợp với Chúa Kitô qua
lời cầu nguyện.
(Trích ‘dongcong.net’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Marcô Thánh Sử (Ngày 25 tháng 4)
Bài đọc: 1 Pet
5:5b-14; Mk 16:15-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành với sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Theo truyền thống,
Marcô Thánh Ký được đồng nhất với John Mark (Acts 12:12, 25; 15:37; Col 4:10; 2
Tim 4:11; Phi 24). Thánh Phêrô trong bài đọc I hôm nay gọi Marcô là “con của
ngài” (1 Pet 5:13). Marcô là anh em họ (anepsios) của Barnabas (Col
4:10), là con của bà Mary. Bà này là bạn với thánh Phêrô, sống tại Jerusalem
(Acts 21:12), và là một thành phần quan trọng của giáo hội sơ khai tại
Jerusalem. Chính tại nhà Bà mà thánh Phêrô đến, sau khi được sứ thần của Thiên
Chúa giải thoát khỏi ngục tù (Acts 12:12-13).
Khi nạn đói xảy ra vào
năm 45-46 AD, Barnabas và Phaolô sau khi đã hoàn thành sứ vụ tại Jerusalem, họ
mang Marcô đi với họ trong hành trình trở về Antioch (Acts 12:25). Không lâu
sau đó, khi bắt đầu hành trình truyền giáo thứ nhất, họ đem Marcô theo như một
trợ tá (hupereten, Acts 13:5). Theo văn mạch ám chỉ, Marcô có thể đã
giúp hai ông ngay cả trong việc rao giảng Tin Mừng. Khi hai ông tiếp tục cuộc
hành trình từ Perga tiến vào trong vùng trung tâm của Asia Minor, Marcô bỏ hai
ông và trở về Jerusalem (Acts 13:13). Tại sao Marcô trở lại Jerusalem, không ai
biết rõ lý do; nhưng có thể Marcô sợ khổ cực (Acts 15:38). Phaolô không quên biến
cố này, nên ông từ chối cho Marcô đi theo trong hành trình truyền giáo thứ hai.
Sự từ chối này dẫn tới việc phân ly giữa Phaolô và Barnabas, Phaolô tiếp tục cuộc
hành trình, Barnabas và Marcô xuống thuyền tới đảo Cyprus (Acts 15:37-40). Sau
biến cố này (khoảng 49-50 AD), chúng ta mất dấu Marcô trong CVTĐ, cho tới khi
Marcô xuất hiện khoảng 10 năm sau như một bạn đồng hành của Phaolô, và đi theo
Phêrô tại Rôma.
Theo cuốn Lịch Sử Giáo
Hội của Eusebius (III,39), viết khoảng năm 130 AD, đặt căn bản trên thế giá của
một kỳ mục, Marcô là “người thông dịch” (hermeneutes) của Phêrô, và đã
viết cách chính xác, mặc dù không theo niên lịch, giáo huấn của Phêrô. Nhiều
người giả sử chàng thanh niên ở trần trốn chạy từ vườn Gethsemane là Marcô (Mk
14:51). Điều này có thể vì nhà mẹ của Marcô nằm trong Jerusalem và là nơi các
môn đệ hay lui tới. Ngày chết của Marcô không chắc chắn, thánh Jerome cho là
năm thứ tám của triều đại Nero (62-63 AD). Thánh Marcô là quan thầy của
Alexandria, Ai-cập; và là quan thầy của thành phố Venice, nước Ý.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hội-thánh ở Babylon, và Marcô, con tôi, gửi lời chào
anh em.
1.1/ Thiên Chúa chống
lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.
Trình thuật hôm nay là
phần khuyên nhủ và kết thúc Thư I của thánh Phêrô. Ngài tóm tắt những điều cần
khuyên nhủ quan trọng tới các tín hữu.
(1) Hãy tự khiêm tự hạ
dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người
đã định: Đây là đức tính quan trọng hàng đầu người tín hữu cần luyện tập; nếu
không có đức tính này, họ sẽ dễ dàng rơi vào bẫy giăng của ma quỉ và sa ngã như
ông Adam và bà Eva trong Vườn Địa Đàng
(2) Mọi âu lo, hãy
trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em: Lo lắng làm con người bất an và
nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa. Để diệt lo lắng, con người cần tin tưởng
nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài bỏ rơi con cái trông đợi nơi
tình thương của Ngài!
(3) Hãy sống tiết độ
và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm
mồi cắn xé: Tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa không có nghĩa con người
không cần phải làm chi cả. Thánh Phêrô khuyên con người hãy tập luyện để biết sống
tiết độ. Nói cách khác, con người cần tập luyện nhân đức mới có thể thắng vượt
các chước cám dỗ của ba thù.
(4) Hãy đứng vững
trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải
qua cùng một loại thống khổ như thế: Đức tin cần được thử thách bằng những gian
khổ, ai cũng phải trải qua tiến trình rèn luyện để vượt qua những gian khổ. Người
chiến thắng là người kiên vững trong đức tin cho dù phải gian nan, đau khổ,
ngay cả phải chấp nhận cái chết.
1.2/ Phần thưởng của
các tín hữu là cuộc sống mai sau: Các Kitô hữu phải chịu đau khổ để thử luyện đức
tin trước khi được lãnh nhận vinh quang: “Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng
là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô. Phần
anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được
nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường.”
Ân sủng của Thiên Chúa
đủ cho các tín hữu: Khi phải chịu thử thách nặng nề, thay vì kêu trách Thiên
Chúa và tha nhân, các tín hữu cần chạy đến với Thiên Chúa để xin gia tăng ơn
thánh, hầu có thể đứng vững trong đức tin. Thánh Phêrô, cũng như thánh Phaolô,
tin chắc ơn thánh của Thiên Chúa ban đủ sức giúp các tín hữu vượt qua mọi trở
ngại trong cuộc đời: “Tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em và làm chứng rằng đó
thật là ân sủng của Thiên Chúa: anh em hãy sống vững vàng trong ân sủng đó.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ.
2.1/ Trao sứ vụ rao giảng
Tin Mừng: Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn
ai không tin, thì sẽ bị kết án.” Khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, Ngài đã
hoàn tất sứ vụ mang lại ơn cứu độ cho con người. Giờ đây Ngài trao sứ vụ loan
báo Tin Mừng cho các môn đệ, để các ông mang ơn cứu độ này cho mọi người sống
trên trần thế. Để được hưởng ơn cứu độ, con người cần tin vào Đức Kitô và chịu
Phép Rửa.
2.2/ Ban uy quyền cho
các môn đệ để khán giả tin vào lời các ông rao giảng: Chúa hứa với các nhà rao
giảng: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ
sẽ:
(1) Khai trừ quỷ:
Phaolô truyền cho quỉ xuất khỏi người đầy tớ tại Philippi (Acts 16:18)
(2) Nói được những tiếng
mới lạ: Các Tông-đồ nói tiếng của thổ dân trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1-11)
(3) Tránh được nguy hiểm:
“Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao.”
(4) Chữa lành: “Và nếu
họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” Điều
này đã được làm bởi Phêrô, Phaolô, và rất nhiều môn đệ.
“Nói xong, Chúa Giêsu
được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp
nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác
nhận lời các ông rao giảng.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Trung thành theo
Chúa đến cùng không phải là điều dễ dàng vì chúng ta phải đương đầu với ba kẻ
thù nặng ký là ma quỉ, thế gian và xác thịt.
– Để có thể vượt qua
các thử thách, con người cần tập luyện nhân đức và cầu nguyện xin Thiên Chúa
ban ơn thánh. Chúng ta phải trỗi dậy sau mỗi lần bị ngã và tiếp tục tiến bước.
Ngoài ra, chúng ta cũng phải giúp nhau để trung thành trong ơn gọi của mình.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
25/04/2020 – THỨ BẢY TUẦN 2 PS
Th. Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng
Mc 16,15-20
CHỨNG NHÂN MỌI THỜI
“Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Thánh Mác-cô đã thực thi lệnh truyền của Chúa không
những bằng việc cộng tác đắc lực với các tông đồ Phê-rô, Phao-lô trong các cuộc
hành trình rao giảng Tin Mừng mà còn tìm ra một phương thế tích cực: viết lại
những lời rao giảng. Lời nói bay đi, chữ viết còn lại: Những lời giảng dạy tiên
khởi của các tông đồ được lưu giữ chính xác mà cũng nhờ thế Tin Mừng bằng chữ
viết càng được loan truyền rộng rãi và lâu dài hơn. Dưới sức tác động của Chúa
Thánh Linh, quyển Tin Mừng theo thánh Mác-cô đã trở thành một phương thế vô
cùng hữu hiệu để “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
Mời Bạn: Đã nhiều lần tham dự nghi thức “sai đi” trong các đại
lễ, có khi nào bạn nghĩ tới một phương cách riêng thích hợp cho việc loan báo
Tin Mừng trong môi trường bạn đang sống? Qua kinh nghiệm của thánh Mác-cô bạn
có nghĩ những phương tiện truyền thông hiện đại (sách báo, máy móc…) sẽ giúp bạn
thực thi tốt hơn sứ mạng loan báo Tin Mừng không?
Chia sẻ: Bạn có nhiều dịp tiếp xúc với anh em lương dân qua
những sinh hoạt của cuộc sống thường ngày. Bạn có thể truyền đạt cho họ được một
nét nào trong sứ điệp Tin Mừng bằng những phương thế bạn đang có: lời nói, việc
làm, cung cách sống… không?
Sống Lời Chúa: Nhiệt tình giới thiệu tập sách “5 ph/ngày cho Lời
Chúa” bạn đang sử dụng cho một người chưa có thói quen đọc Lời Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, loan báo Tin Mừng Chúa phục sinh
là bổn phận đầu tiên của người Ki-tô hữu. Xin cho con luôn ý thức chu toàn.
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Loan báo
Tin Mừng
Suy niệm :
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Marcô, tác giả sách Tin Mừng.
Ngài thường được coi là người viết cuốn sách Tin Mừng đầu tiên.
Ngài đã thu tập những tài liệu có trước, rồi sắp xếp lại thành một câu
chuyện.
Marcô muốn kể một câu chuyện lý thú về Đức Giêsu.
Dù khả năng viết tiếng Hy lạp của ngài không thuộc loại giỏi,
nhưng bù lại, ngài là một nhà kể chuyện có tài.
Ngài cho chúng ta một khuôn mặt Đức Giêsu rất sống động và rất người.
Đức Giêsu ấy biết giận dữ, biết xao xuyến, biết ngạc nhiên như người
khác.
Marcô đã cầm bút viết tác phẩm của mình về Thầy Giêsu
trong một giai đoạn đen tối của Giáo hội sơ khai.
Vào năm 64, bạo chúa Nêrô đốt thành Rôma và đổ tội cho các kitô hữu.
Cuộc bách hại dữ dội bắt đầu tại Rôma.
Vậy mà tại nơi ấy, giữa thời điểm căng thẳng ấy, Marcô viết sách Tin Mừng
dành cho những kitô hữu không phải là người Do Thái.
“Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1):
Marcô đã bắt đầu tác phẩm của mình như thế.
Sách này thật là Tin Mừng nâng đỡ các tín hữu bị chao đảo bởi bách hại.
Đức Giêsu vác thánh giá mời gọi người ta trung tín bước theo Ngài.
Ngài đã chết nhưng hẹn gặp lại các môn đệ ở Galilê sau khi Ngài phục
sinh.
Bài Tin Mừng hôm nay, tuy không phải do thánh Marcô soạn thảo,
nhưng lại hợp với ngày lễ mừng thánh nhân.
Đấng sống lại kêu gọi nhóm Mười Một đi khắp thế giới để rao giảng Tin Mừng.
Đó là Tin Mừng về Đức Giêsu bị đóng đinh nhưng nay được phục sinh,
được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (c. 19).
Các tông đồ đã vâng lời, đi rao giảng khắp nơi.
Chúa lên trời nhưng Ngài vẫn cùng làm việc với họ như xưa.
Ngài giúp họ có khả năng trừ quỷ, chữa bệnh, nói những thứ tiếng mới.
Ngài bảo vệ họ khỏi những hiểm nguy do rắn rít hay thuốc độc (cc.17-18).
Giáo Hội hôm nay cần nhiều kitô hữu say mê rao giảng Tin Mừng.
Trên quê hương vẫn còn nhiều nơi vắng tiếng chuông nhà thờ buổi sáng.
Marcô đã kể chuyện về Giêsu bằng ngòi bút, viết trên giấy da hay giấy
cói.
Chúng ta có nhiều phương tiện nhanh hơn, rộng hơn, để kể chuyện về Giêsu.
Làm sao để Giêsu đến gặp con người qua internet, sách báo, phim ảnh…?
Làm sao để cuộc đời chúng ta trở thành một cuốn sách Tin Mừng
để ai đọc cũng gặp được Giêsu?
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG TƯ
Phục Sinh Trong Hiện
Tại
Đức Kitô đã sống lại từ
cõi chết tại một thời điểm nhất định trong thời gian. Tuy nhiên, Người vẫn đang
đợi chờ sự Phục Sinh của Người tác động biến đổi mọi người. Người vẫn đang đột
phá vào cuộc sống của mỗi cá nhân và vào lịch sử của mọi dân tộc. Nhưng tác động
chuyển hóa của cuộc Phục Sinh đối với xã hội và cá nhân còn tùy thuộc vào sự hợp
tác của con người nữa.
Trong cuộc Phục Sinh
này, người ta phá vỡ sự ràng buộc của tội lỗi và sự chết. Người ta sống lại
trong Đức Kitô như chính Người đã sống lại vào buổi sáng Phục Sinh cách đây hai
mươi thế kỷ ấy. Vâng, bất cứ ở đâu có một trái tim thắng vượt ích kỷ, bạo lực, và
đố kỵ – bất cứ ở đâu có một trái tim mở ra cho một ai đó đang cần đến mình –
thì ở đó Đức Kitô được Phục Sinh từ cõi chết, được Phục Sinh trong hiện tại hôm
nay. Bất cứ ở đâu có người theo đuổi công lý và hòa bình đích thực, thì sự chết
bị đánh bại và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô được khẳng định lại. Bất cứ khi nào
một người lìa đời sau khi đã sống một cuộc sống đầy tràn tin, yêu, và đau khổ
vì Đức Kitô … thì ở đấy và lúc ấy có sự Phục Sinh.
Cuộc Phục Sinh này –
được định liệu cho mọi người – là chiến thắng tối hậu. Đó là câu trả lời của
Thiên Chúa cho những đau buồn và thử thách của con người. Đó không phải là sự
chết mà chính là sự sống. Đó không phải là thất vọng mà chính là hy vọng. Và
Giáo Hội mời gọi mọi con người hôm nay đón nhận niềm hy vọng này.
Giáo Hội nhắc lại với
chúng ta, với mọi người, lời công bố khó tin nhưng rất thật rằng: Đức Kitô đã sống
lại! Mong sao cả thế giới cùng sống lại với Người! Alleluia!
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 25/4
Thánh Maccô, tác giả
Sách Tin Mừng
1Pr 5, 5b-14; Mc
16, 15-20.
Lời Suy Niệm: “Anh em hãy
đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và
chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.”
Trong ngày lễ kính thánh Máccô, tác giả Sách Tin Mừng, Giáo hội cho chúng ta
nghe đoạn kết của Sách, sau khi thánh nhân đã trình bày toàn bộ hành trình rao
giảng của Chúa Giêsu cho đến khi lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng với sự hiện
diện của Chúa Giêsu: “Chúa cùng hoạt động với các ông.”
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đang dùng chúng con trong kế hoạch của Chúa. Xin cho chúng
con nhận ra những thành qua là của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 25-04
THÁNH MARCÔ THÁNH SỬ
(Thế kỷ I)
(Thế kỷ I)
Marcô là ai ? Chắc chắn
Ngài không phải là một trong 12 tông đồ. Nhưng một người tên Marcô đã được các
cộng đoàn Kitô giáo sơ khai biết đến, nhiều như là người bạn đồng hành của
thánh Phaolô và như người bạn thân ái của thánh Phêrô ở Roma (Cl 4,10; 1Pr 5,13;
2Tim 4,11). Sách Công vụ ba lần nói tới một “Gioan cũng gọi là Marcô” (Cv
12,12; 25,15.17) là bạn thiết của thánh Barnaba.
Các học giả thường đồng
ý rằng: Marcô đã được nói tới trong các thánh thư, Gioan tên Marcô trong sách
công vụ và tác giả Phúc âm thứ II đều chỉ là một người. Đồng ý với sự đồng hóa
trên, chúng ta có thể phác họa hình ảnh của thánh sử như sau:
– Ngài là con của
Maria. Một góa phụ giàu có ở Giêrusalem có một người giúp việc và căn nhà rộng
rãi làm nơi tụ họp các tín hữu.
Năm 43, sau khi thoát
khỏi ngục tù, thánh Phêrô đã chọn nhà này làm nơi trú ngụ (Cv 12,12-17). Như thế,
Marcô sớm quen thuộc với những ghi nhận của thánh Phêrô. Hai năm sau, tức là
năm 45, chúng ta thấy Marcô và thánh Barnaba cùng đi trong cuộc hành trình thứ
nhất của Phaolô. Nhưng khi đoàn truyền giáo đi về hướng bắc, Marcô đã từ giã để
trở về Giêrusalem (Cv 13,13). Phaolô bất bình và không muốn nhận cho Marcô đi
theo trong cuộc hành trình thứ hai. Năm 50, như Barnaba đề nghị, Barnaba về phe
với Marcô, và đáp tàu về Cyprus là quê hương của Barnaba (Cv 15,36-39).
Chúng ta không thấy
nói gì đến Marcô nữa cho tới năm 61 khi Ngài ở Roma với Phaolô (Cl. 4,10), ba
năm sau tức là năm 64 thánh nhân vẫn có mặt ở Roma vì Phêrô có nhắc tới tên Người
trong các lời chào của mình (1Pr 5,13). Đây là năm thánh Phêrô chịu tử đạo. Ít
lâu sau đó có lẽ thánh Marcô đã bắt đầu viết sách Phúc âm ở Roma, dầu một số
tác giả mới đây cho rằng ở Alexandri. Năm 67, thánh sử ở Ephesô vì một ít tháng
trước khi qua đời, thánh Phaolô dặn dò Timothêô đưa theo Marcô đến Roma (2Tm
4,14). Mối bất hòa xưa đã được hàn gắn hoàn toàn.
Từ đây, chúng ta phải
dựa vào truyền thống để tìm hiểu về Marcô. Có lẽ sau khi thánh Phêrô qua đời,
Marcô đi rao giảng ở Alaexandria thành lập và làm giám mục giáo đoàn này. Sự kiện
không được chắc vì các bậc tiến sĩ của Alexandria như Clêmente (200), và
Origênê (203) không nhắc nhở gì đến.
Cuốn Chronicon-Pascale
không mấy có thế giá cho rằng: Marcô đã làm giám mục ở Alexandrie và bị thiêu sống
dưới thời Trajanô (năm 98 – 117).
Dựa vào bút pháp của
Marcô, chúng ta cố gắng tìm hiểu tính khí của Ngài. Tính chất sống động của
Phúc âm thứ II biểu lộ rõ chứng tích mục kiến của Phêrô, chứ không phải của
Marcô, dầu có thể là Marcô đã chứng kiến việc bắt bớ Chúa Giêsu vì các nhà chú
giải đồng hóa Ngài với người thanh niên vô danh bỏ chạy mình trần (Mc
14,50-52). Dầu vậy, thánh Marcô không phải là một máy ghi âm diễn lại lời của
Phêrô, Ngài là tác giả ghi lại ký ức của Phêrô với bút pháp riêng. Ngài là người
ít lời (673 câu so với 1068 câu nơi Matthêu) và có giọng văn không chải chuốt.
Người ta có thể cho rằng:
Ngài không có đau khả năng viết văn cho duyên dáng. Nhưng với những khiếm khuyết
này, Marcô lại tỏ ra rất chân thành, Ngài đã ương ngạnh từ chối việc bỏ bớt những
sự kiện vụng về hay là giải thích chúng. Chẳng hạn không thánh sử nào giấu giếm
sự chậm hiểu của các thánh tông đồ, nhưng ở Marcô nhấn mạnh: “Lòng họ ra như
chai lại” ( Mc 6,51). Marcô cũng không che dấu tham vọng không thể tin nổi của
họ (Mc 9,34). Chính Phêrô cũng rất thẳng thắn: “Ông không biết phải đáp ứng làm
sao” (Mc 9,6). Có lẽ chứng cớ hùng hồn nhất nói lên sự lương thiện của Marcô là
Ngài đã liều tỏ ra mâu thuẫn với chính mình.
Chẳng hạn đối với Ngài
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ “vượt các thiên
thần” (3,32) “có quyền tha tội” (2,10). Nhưng rồi Ngài không ngần ngại viết rằng:
“Ở Nazareth Người đã không làm được phép lạ nào” (6,5) Ngài cũng không dấu diếm
sự kiện bà con Chúa Giêsu nghi ngờ Người thiếu khôn ngoan (3,21) hay sự kiện
Chúa Giêsu thất vọng với cây vả không trái (11,13). Những chi tiết loại này khiến
cho tựa đề của Marcô được nguyên vẹn (Phúc âm Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa)
nhưng lại mang dáng vẻ khó hiểu vì Ngài đã không thèm dấu giếm gì hết. Với một
sử gia tài danh như vậy, chúng ta rất an tâm.
Tại đền thờ thánh
Marcô người ta nói có chôn dưới bàn thờ thánh nhân do các thương gia mang từ
Alexandria về vào thế kỷ IX. Thánh sử được biểu trưng bằng hình con sư tử vì
Phúc âm của Ngài mở dầu bằng tiếng nói oai hùng của Gioan tẩy giả từ trong sa mạc.
Đọc Phúc âm theo thánh Marcô, chúng ta như có thể nghe tiếng nói thô sơ của
thánh sử “Đừng nhìn tôi, hãy nhìn Người”.
(daminhvn.net)
25 Tháng Tư
Sư Tử Có Ðôi Cánh
Khách du lịch đến
thưởng ngoạn Venezia, một thành phố mơ mộng nằm trên sông nước và được làm tăng
thêm vẻ đẹp bằng những công trình kiến trúc độc đáo cũng như bằng những tác phẩm
nghệ thuật thời danh nằm ở mạn đông bắc Italia, không thể bỏ qua công trường
Marcô, công trình mang tên của vị thánh bổn mạng của thành phố Venezia và cũng
là vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay.
Trên con đường tiến
gần đến công trường Marcô, du khách nhìn thấy một con sư tử có đôi cánh đứng sừng
sững trên một ngọn tháp cao. Hình sư tử này nhắc đến sự nghiệp viết sách Phúc
Âm đầu tiên của thánh Marcô, như chứng từ của sử gia Papias, sinh sống vào cuối
thế kỷ thứ hai viết như sau:
“Marcô, người thông
ngôn của Phêrô, đã viết ra đúng những gì nhớ được, tuy không theo thứ tự, về những
điều Ðức Kitô đã nói và đã làm. Marcô không trực tiếp nghe Chúa giảng, cũng
không phải là môn đệ của Ngài. Nhưng ông đã tháp tùng Phêrô, người đã giảng dạy
theo những gì ông cảm thấy cần thiết, chứ không phải chủ tâm thuật lại lời Chúa
một cách có hệ thống”.
Marcô là người
thông ngôn và lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô giảng, vì thế không lạ
gì ở cuối bức thư thứ nhất, Phêrô gọi ông là “Marcô, người con của tôi”.
Ngoài sự gần gũi với
thánh Phêrô, Marcô cũng tiếp xúc lân cận với Phaolô, bắt đầu vào lần gặp gỡ đầu
tiên vào năm 44, khi Phaolô và Barnaba đưa về Giêrusalem số tiền cộng đoàn
Antiokia quyên được để trợ giúp cộng đoàn Mẹ. Khi trở về, Barnaba đem theo
Marcô, là cháu của ông.
Sau đó, trong khi đồng
hành với Phaolô và Barnaba để hoạt động truyền giáo ở đảo Cypre, vì một sự bất
đồng ý kiến nào đó, Marcô đã bỏ về Giêrusalem. Vì lý do này, trong chuyến truyền
giáo thứ hai, Phaolô đã nhất quyết không cho Marcô theo, mặc dù Barnaba tha thiết
yêu cầu. Sự kiện này đã gây đổ vỡ đến sự cộng tác giữa Phaolô và Barnaba.
Nhưng trong những
ngày cuối đời, khi chờ đợi ngày hành quyết, Phaolô đã viết thư nhắn với
Timôthê: “Hãy đem cả Marcô đến nữa, vì tôi cần sự giúp đỡ của anh ấy lắm”. Bạn
bè người ta muốn gặp trong những ngày cuối đời phải là những người đồng sinh đồng
tử!
Những chi tiết khác
nhau đó của cuộc đời của thánh Marcô không lấy gì làm chắc. Có tài liệu cho là
thánh nhân chết tự nhiên. Tài liệu khác lại cho là thánh nhân được phúc tử đạo.
Vương cung thánh đường tại công trường Marcô ở Venezia tự hào là còn giữ lại
hài cốt của Ngài.
Trong cuộc sống, Marcô
đã chu toàn bổn phận mà mọi người Kitô được kêu gọi phải thực thi: Ðó là rao giảng
Tin Mừng và làm chứng về Ðức Kitô. Marcô đã thực hiện công việc này đặc biệt
qua công tác viết sách Phúc Âm, những người Kitô khác qua kịch nghệ, âm nhạc,
thơ phú hay qua việc dạy đạo cho con em quanh bàn ăn của gia đình hoặc qua cuộc
sống chứng tá trong những sinh hoạt và nếp sống hằng ngày.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Thánh Máccô, Phúc Âm Thánh Sử – Mc
16:15-20
Saturday 25 April,
2020
Lectio Divina
Thánh Mátthêu, Phúc Âm
Thánh Sử
Mùa Phục
Sinh
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa
của chúng con,
Có rất nhiều điều
trong chúng con đã che lấp Lời của Chúa
Và ngăn trở chúng con
trở thành Giáo Hội thật sự của Chúa.
Hôm nay, chúng con cầu
xin Chúa:
Xin hãy gọi chúng con,
như Chúa đã gọi Máccô xưa kia,
Để chúng con nói và sống
Lời Chúa.
Xin Chúa hãy linh ứng
chúng con qua Chúa Thánh Thần
Và xin hãy dạy chúng
con sống trong hy vọng
Rằng vương quốc của
Chúa sẽ đến
Và ở lại giữa chúng
con
Nhờ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng con
Bây giờ và muôn đời.
2. Bài Đọc Tin Mừng
– Máccô 16:15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện
ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng
Tin Mừng cho mọi tạo vật, Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được ơn cứu độ;
ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người
đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn
trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những
người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh.” Vậy sau khi nói với các môn
đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông
đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời
giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
3. Suy Niệm
– Bài Tin Mừng hôm nay là một phần của phần phụ lục
của sách Tin Mừng Máccô (Mc 16:9-20), trong đó trình bày bản danh sách một số lần
hiện ra của Chúa Giêsu: với bà Maria Mađalêna (Mc 16:9-11), với hai môn đệ
đang trên đường về miền quê (Mc 16:12-13) và với nhóm Mười Một Tông Đồ (Mc
16:14-18). Lần hiện ra cuối cùng này cùng với lời tường thuật việc Chúa về
Thiên Đàng (Mc 16:19-20) tạo thành bài Tin Mừng hôm nay.
– Mc 16:14: Các phép lạ kèm theo với
lời loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu hiện ra với mười một tông đồ và quở
trách các ông vì đã không tin vào những người đã trông thấy Chúa đã phục
sinh. Các ông đã không tin lời bà Maria Mađalêna (Mc 16:11), cũng chẳng
tin hai môn đệ trên đường đi về miền quê (Mc 16:13). Nhiều lần, thánh
Máccô đề cập đến sự ương ngạnh của các môn đệ trong việc tin vào những nhân chứng
là những người đã có kinh nghiệm về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tại sao
thánh Máccô lại nhấn mạnh rất nhiều đến việc thiếu lòng tin của các môn đệ như
vậy? Có lẽ, để giảng dạy hai điều: Thứ nhất, đó là niềm tin vào
Chúa Giêsu phải đi qua lòng tin vào những người làm chứng. Thứ hai, không
ai được nản lòng khi có sự ngờ vực trong lòng. Ngay cả nhóm mười một môn
đệ cũng đã hoài nghi!
– Mc 16:15-18: Sứ vụ loan báo Tin
Mừng cho toàn thế giới. Sau khi đã quở trách việc thiếu lòng tin của các
môn đệ, Chúa Giêsu giao phó sứ vụ cho các ông: “Các con hãy đi khắp thế
gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ
được ơn cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.” Đối với những ai đã có đủ
can đảm để tin vào Tin Mừng và những ai đã chịu phép rửa, Chúa Giêsu hứa hẹn những
phép lạ sau đây: họ sẽ trừ quỷ, họ sẽ nói được nhiều thứ tiếng lạ, họ sẽ
cầm rắn trong tay và sẽ không bị hề hấn gì nếu họ uống phải chất độc, họ sẽ đặt
tay trên những người bệnh và những bệnh nhân này sẽ khỏi bệnh. Điều này vẫn
còn xảy ra ngay cả ngày nay:
* Trừ quỷ: đó là để chiến đấu chống lại quyền lực
tội lỗi phá hủy sự sống. Đời sống của nhiều người cải thiện bởi vì họ đã
gia nhập vào cộng đoàn và đã bắt đầu sống Tin Mừng về sự hiện diện của Thiên
Chúa trong đời sống của họ.
* Nói nhiều ngôn ngữ lạ: đó có nghĩa là bắt đầu
thông tri với người khác theo phương cách mới. Thỉnh thoảng chúng ta gặp
một người mà chúng ta chưa từng gặp bao giờ, thế mà dường như chúng ta đã quen
biết người ấy lâu rồi. Điều này xảy ra bởi vì chúng ta nói cùng một ngôn
ngữ, ngôn ngữ của tình yêu.
* Chất độc sẽ chẳng làm hại được họ: có nhiều điều đầu
độc cuộc sống chung, cuộc sống cộng đoàn. Có quá nhiều chuyện bàn tán phá
hủy mối quan hệ giữa các cá nhân. Một người sống trong sự hiện diện của
Thiên Chúa không nên quan tâm đến những chuyện này và do đó không thể bị quấy rầy
bởi chất độc khủng khiếp này.
* Họ chữa bệnh: Bất cứ nơi nào có một lương tâm trong
sáng và sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa, thì nơi đó cũng có một sự
chăm sóc đặc biệt dành cho những kẻ bị thiệt thòi và hắt hủi, cách riêng là những
kẻ bệnh tật. Điều mà có thể giúp chữa lành là người đó cảm thấy được chấp
nhận và yêu thương.
– Mc 16:19-20: Qua cộng đoàn, Chúa
Giêsu tiếp tục sứ vụ của mình. Chính Chúa Giêsu đã sống ở vùng Paléstine,
và chấp nhận người nghèo khó của thời bấy giờ, mặc khải tình yêu của Chúa Cha với
họ, và trong cùng cách này Chúa Giêsu tiếp tục sống ở giữa chúng ta, trong cộng
đoàn chúng ta. Qua chúng ta, Người muốn tiếp tục sứ vụ của Người để mặc
khải Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho những kẻ nghèo khó.
Ngay cả ngày nay, việc sống lại vẫn diễn ra. Và nó thôi thúc chúng ta phải
ca khen lên: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức
Kitô?” Không có một quyền lực nào của thế gian này có thể tách rời chúng
ta khỏi sức mạnh đến từ đức tin vào Chúa Phục Sinh (Rm 8:35-39). Một cộng
đoàn muốn trở thành nhân chứng cho Chúa Phục Sinh phải là một dấu chỉ của sự sống,
phải đấu tranh chống lại quyền lực của sự chết, theo một cách mà thế gian có thể
là nơi thuận lợi cho sự sống, nơi để tin rằng một thế giới khác là điều có thể.
Hơn hết cả, tại châu Mỹ Latin, nơi đời sống người dân đang gặp nguy khốn bởi vì
chế độ chết chóc đã được áp đặt, các cộng đoàn phải là một bằng chứng sống động
cho niềm hy vọng vượt thắng thế gian, mà không sợ được hạnh phúc!
4. Một vài câu hỏi
gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa xảy
ra trong đời sống của tôi như thế nào?
– Ngày nay, những dấu chỉ nào về sự hiện diện của
Chúa Giêsu ở giữa chúng ta sẽ thuyết phục người ta nhất?
5. Lời nguyện kết
Tình thương CHÚA, đời
đời con ca tụng,
Qua muôn ngàn thế hệ
Miệng con rao giảng
lòng thành tín của Ngài.
Vâng con nói:
“TÌnh thương ấy được xây dựng tới thiên thu,
Lòng thành tín Chúa được
thiết lập trên trời.”
(Tv 89:1-2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét