Trang

Thứ Năm, 4 tháng 6, 2020

05-06-2020 : THỨ SÁU - TUẦN IX THƯỜNG NIÊN - THÁNH BÔNIPHÁT, GIÁM MỤC, TỬ ĐẠO - Lễ Nhớ


05/06/2020
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 9 thường niên.
Thánh Bôniphát, giám mục, tử đạo.
Lễ nhớ.


* Thánh nhân sinh tại Anh quốc quãng năm 673. Người nhập đan viện I-xơ-te và được Đức Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô II đổi tên Uyn-phơ-rít thành Bô-ni-pha-xi-ô.
Người là tông đồ của nước Đức và là người tổ chức lại Hội Thánh nhiều miền. Sau khi được Đức Giáo Hoàng tấn phong giám mục (năm 722), người rảo khắp nước Đức, thành lập các giáo phận và các đan viện trong đó có đan viện Phun-đa. Người bị sát hại ở Đốc-cum (Hà Lan) cùng với năm mươi hai đồng bạn năm 754.

BÀI ĐỌC I: 2 Tm 3, 10-17
“Kẻ sống đạo đức trong Đức Giêsu Kitô, đều chịu bắt bớ”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Timô-thêu.
Con thân mến, con đã noi theo cha về giáo lý, đức hạnh, dự định, lòng tin, khoan dung, yêu thương, kiên nhẫn, bắt bớ, đau khổ, như đã xảy đến cho cha ở Antiokia, Icôni và Lystra. Biết bao cuộc bắt bớ cha đã phải chịu, và Chúa đã cứu cha thoát khỏi tất cả. Vả lại, mọi kẻ muốn sống đạo đức trong Đức Giêsu Kitô đều chịu bắt bớ. Còn những kẻ tội lỗi và gian trá, thì sẽ đi sâu vào tình trạng tệ hại hơn, vì họ lầm lạc và làm cho kẻ khác lầm lạc. Phần con, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 118, 157. 160. 161. 165. 166. 168
Đáp: Đại bình an cho những ai yêu luật pháp Chúa (c. 165).
Xướng:
1) Nhiều người bắt bớ và nhiễu hại con, nhưng con chẳng sai trật lời nghiêm huấn của Chúa. – Đáp.
2) Căn bản lời Chúa là sự thật, mọi chỉ dụ công minh của Chúa tồn tại muôn đời. – Đáp.
3) Các vua chúa bách hại con vô lý, nhưng lòng con vẫn kính sợ lời Ngài. – Đáp.
4) Đại bình an cho những ai yêu luật pháp Chúa, không có gì làm cớ cho họ sẩy chân. – Đáp.
5) Lạy Chúa, con mong ơn Ngài phù trợ, để thực thi những chỉ thị của Ngài. – Đáp.
6) Con tuân giữ huấn lệnh và những lời truyền của Chúa, vì bao đường lối của con hiện ở trước nhan Ngài. – Đáp.

ALLELUIA: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 12, 35-37
“Sao họ có thể bảo Đức Kitô là Con vua Đavít?”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: “Sao các luật sĩ lại nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít? Vì chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: ‘Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con’. Chính Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Đavít được?” Và đám dân chúng thích thú nghe Người nói.  Đó là lời Chúa.


Suy Niệm : Ðấng Kitô là Chúa
Cuộc đối đầu trực diện giữa Chúa Giêsu và các đối thủ qua đi với việc họ không còn chất vấn Ngài nữa. Lúc này, tác giả Marcô lại nhớ thêm một cảnh, trong đó chính Chúa Giêsu là người chất vấn. Marcô không xác định rõ kẻ bị hỏi, chỉ ở cuối đoạn ông mới cho biết đông đảo dân chúng lắng nghe Ngài cách thích thú.
Trong lần chất vấn này, Chúa Giêsu đề cập đến tước hiệu mà các luật sĩ gán cho Ngài: con vua Ðavít. Một truyền thống Do thái xa xưa vẫn cho rằng Ðấng Kitô phải thuộc dòng dõi vua Ðavít (2V 7,14-17). Người ta cũng thường gọi Chúa Giêsu là "con vua Ðavít" (x. 10,48; 11,10). Nhưng chắc chắn Chúa Giêsu không tự xưng mình bằng tước hiệu này, vì nó quá hàm hồ, Ngài muốn tránh xa quan niệm về Ðấng Kitô theo kiểu chính trị. Ngài trưng dẫn Thánh vịnh 110, theo đó Ðấng Kitô vừa là con vua Ðavít, vừa được Ðavít gọi bằng "Chúa tôi". Chính Kinh Thánh đã gán cho Ðấng Kitô một phẩm tính cao cả hơn con vua Ðavít và gọi bằng tước hiệu "Chúa". Sau biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã sử dụng Thánh vịnh 110 để tìm ra các tước hiệu bao hàm trọn vẹn tính cách của Chúa Giêsu: họ tuyên xưng Ngài thực sự thuộc đẳng cấp thần thánh: Ngài đã sống lại và được Thiên Chúa phong làm "Chúa". Ngài lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Cv 2,34-36).
Ðức Kitô là Thiên Chúa thật và cũng là người thật. Ðó là lòng tin kiên vững của Kitô giáo. Quá nhấn mạnh tới thiên tính mà bỏ quên nhân tính, hoặc ngược lại, đều là những sai lầm tai hại. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, như lời thánh Gioan: "Từ khởi thủy đã có Lời, và Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa". Nhưng Lời đã thành xác phàm và sống giữa nhân loại để cứu độ con người và nâng con người lên địa vị con cái Thiên Chúa. Nói theo thánh Irênê: Thiên Chúa đã làm người để con người được trở thành Thiên Chúa.
Ước gì đó là niềm xác tín mà chúng ta mang trong lòng, diễn tả ra cuộc sống và sẵn sàng bảo vệ đến cùng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 9 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc2 Tim 3:10-17; Mk 12:35-37.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kinh Thánh giúp con người đạt được ơn cứu độ.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật vai trò của Kinh Thánh trong đời sống con người. Trong bài đọc I, Phaolô cắt nghĩa chi tiết cho Timothy về tầm quan trọng của Kinh Thánh trong việc rao giảng Tin Mừng để đạt được ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sửa sai sự hiểu biết của các kinh sư về danh xưng “Con Vua David.” Danh xưng này không đủ để diễn tả nguồn gốc và uy quyền của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những sự chuẩn bị cần thiết của người rao giảng
1.1/ Những gì Timothy đã học được nơi Phaolô: Phaolô gợi lại cho Timothy những gì ông đã huấn luyện và làm gương cho Timothy.
(1) Về đạo lý: Trước tiên và trên hết là đạo lý; nhà rao giảng không thể giảng đạo lý nếu người ấy không biết đúng những lời dạy dỗ của Đức Kitô. Nguy hiểm hơn nữa nếu người đó còn dạy những giáo lý sai lạc. Kế đến là việc huấn luyện thực hành: người môn đệ không phải chỉ biết những gì Đức Kitô dạy mà còn phải thực hành những gì Ngài muốn. Cách huấn luyện hiệu quả nhất là “lời nói phải đi đôi với hành động.” Sau cùng, người môn đệ phải ý thức rõ ràng về đích điểm hướng tới. Không gì tệ hại hơn nhà lãnh đạo mà không biết dẫn những người dưới quyền mình đi đâu; làm rất nhiều việc nhưng không biết để làm gì!
(2) Về các nhân đức: Phaolô chỉ nhắc nhở các nhân đức chính yếu ở đây: Đức tin cần thiết cho việc tin Đức Kitô và những lời dạy dỗ của Ngài. Lòng yêu mến hay đức bác ái là nhân đức không thể thiếu trong cuộc đời của người Kitô hữu. Niềm hy vọng được biểu lộ qua hai nhân đức là sự nhẫn nại để tập luyện và sự kiên trì để vượt qua các gian nan thử thách trong cuộc đời.
(3) Về trung thành trong đau khổ: Phaolô nhắc nhở Timothy nhớ lại những gian khổ và sự bảo vệ của Thiên Chúa đã làm trong cuộc đời rao giảng của ông. Phaolô chỉ nhắc lại ba biến cố:
– Antioch, Pisidia: Khi thấy Phaolô và Barnabas lôi kéo được nhiều khán giả theo hai ông, người Do-thái ghen tị và cấu kết với các phụ nữ quí tộc và những nhà lãnh đạo trong thành trục xuất hai ông khỏi thành (Acts 13:50).
– Iconium: Khi hay biết một nhóm người Do-thái và Dân Ngoại đã phác họa kế hoạch để ném đá mình, Phaolô rời thành trốn sang Derbe và Lystra (Acts 14:5-6).
– Lystra: Sau khi Phaolô chữa một người bị bại liệt từ lúc mới sinh, dân thành tưởng hai ông là thần họ thờ nên mang lễ vật đến để tôn thờ. Nhưng những người Do-thái từ Antioch và Iconium lại đến xúi giục dân thành ném đá hai ông. Tưởng Phaolô đã chết họ vứt xác ông khỏi thành; nhưng khi các môn đệ khác tới Phaolô trỗi dậy và đi Derbe với họ (Acts 14:19).
Nhắc lại những điều này, Phaolô muốn cho Timothy biết: “những ai muốn sống đạo đức trong Đức Giêsu Kitô, đều sẽ bị bắt bớ.” Nhưng Chúa đã giải thoát Phaolô khỏi tất cả các ghen tị và mưu toan của đối phương. Còn hạng người xấu xa và bịp bợm sẽ ngày càng xấu hơn, họ vừa lừa dối, vừa bị lừa dối.
1.2/ Tầm quan trọng của Sách Thánh: Phaolô muốn nêu bật tầm quan trọng của Kinh Thánh cho mọi người, cách riêng cho người rao giảng.
(1) Dạy trở nên người khôn ngoan: Sách Thánh mặc khải cho con người những mầu nhiệm của Thiên Chúa, và không có sự khôn ngoan nào của con người có thể so sánh với khôn ngoan của Thiên Chúa. Biết được sự khôn ngoan của Thiên Chúa là biết hết khôn ngoan và lừa đảo của con người.
(2) Giúp tin vào Đức Kitô để được ơn cứu độ: Lời Chúa chuẩn bị cho con người đặt niềm tin vào Đức Kitô. Khi tuyên xưng niềm tin của họ vào Đức Kitô, họ được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa do Đức Kitô mang lại.
(3) Cần thiết cho việc giáo dục con người: Để trở thành người hoàn thiện như Thiên Chúa mong muốn, con người không thể thiếu Sách Thánh, vì nó giúp con người:
– trong việc dạy dỗ: giúp con người biết mục đích cuộc đời, biết điều hay lẽ phải để theo và biết điều xấu lẽ dại để tránh.
– trong việc sửa lỗi hay luận tội: khi biết điều thật con người cũng nhận ra ngay điều sai trái. Con người có thể xử dụng sự thật để chống lại hay luận tội sự sai lầm.
– trong việc huấn luyện để trở nên người công chính: Kinh Thánh giúp con người luyện tập các nhân đức và bước theo đường ngay nẻo chính.
Nhờ tất cả những điều trên, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.
2/ Phúc Âm: Hiểu đúng ý nghĩa của danh xưng “Con Vua David”
2.1/ Những ý nghĩa khác nhau của danh xưng “Con vua David.”
Người Do-thái không có nhiều tĩnh từ để mô tả đặc tính, họ xử dụng động từ ở thời quá khứ phân từ hoặc người nghe phải tự mình phân biệt. Có ít nhất ba ý nghĩa của chữ “con” theo truyền thống Do-thái:
(1) con ruột: người con sinh ra bởi người ấy. Solomon là con ruột của David.
(2) thuộc dòng dõi người đó: Chẳng hạn, khi thiên thần nói với Joseph, “con vua David” đừng ngại nhận Maria về nhà làm vợ (Mt 1:20). Theo gia phả trong Tin Mừng Matthew, Đức Kitô cũng được gọi là “con vua David” theo nghĩa này.
(3) cách biểu tượng, con có thể dùng để chỉ một người có đức tính đó; ví dụ: Bar-nabas, có nghĩa “con của sự ủi an.” Con của Belial có nghĩa “người vô dụng.”
2.2/ Danh xưng Đức Kitô là “Con Vua David” không đủ để diễn tả Đức Kitô:
Khi nghe nói “con vua David,” nó đòi người đọc phải suy nghĩ Chúa Giêsu là con vua David theo nghĩa nào. Ngài thuộc dòng dõi David theo tiêu chuẩn con người mà thôi. Theo tiêu chuẩn Thiên Chúa, David là con của Ngài. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu dùng Thánh Vịnh 110 để cắt nghĩa danh xưng “con vua David” không đủ để diễn tả Ngài:
+ theo quyền năng: Chính vua David được Thánh Thần soi sáng đã nói: “Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con. Chính vua David gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì Đấng Kitô lại là con vua ấy thế nào được?”
+ theo nguồn gốc: Chúa Giêsu có trước vua David vì Ngài luôn có từ ngàn đời. Gioan Tẩy Giả cắt nghĩa về vai trò của Đức Kitô như sau: “Ngài xuất hiện sau tôi nhưng Ngài có trước tôi, và tôi không đáng cởi giây quai dầy cho Ngài” (Jn 1:15, 27).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Kinh Thánh không thể thiếu trong đời sống con người. Chúng ta cần dành thời giờ học hỏi để hiểu biết trước khi rao giảng và giáo dục người khác.
– Kinh Thánh không dễ hiểu. Để hiểu đúng đắn, chúng ta cần nhiều thời gian để nghiên cứu tất cả các Sách mới có thể nối kết các mặc khải của Thiên Chúa và tránh sai lầm.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


05/06/2020 – THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 9 TN
Th. Bô-ni-phát, giám mục, tử đạo
Mc 12,35-37


CHIÊM NGẮM MẦU NHIỆM
“Chính vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì Đấng Ki-tô lại làm con vua ấy sao được?” (Mc 12,37)

Suy niệm: Đấng Ki-tô là “con vua Đa-vít”, đó là một chân lý mà người Do Thái tin nhận không cần bàn cãi (x. Tv 132,10-11). Nhưng các kinh sư lại không thể trả lời khi Chúa Giê-su chất vấn ngược lại họ: Tại sao vua Đa-vít xưng tụng Đấng Ki-tô là “Chúa Thượng”? Dường như hai vai trò này không thể dung hợp trong một ngôi vị Ki-tô: Làm sao vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là “Chúa Thượng” của mình, thế mà vị Chúa Thượng ấy lại trở thành “con cháu” của nhà vua được? Các nhà thông luật Do Thái bối rối cũng phải thôi, bởi vì căn tính và sứ mạng của Đấng Ki-tô là một mầu nhiệm chỉ có thể chiêm ngắm với cặp mắt đức tin; và hơn nữa Đấng Ki-tô là người con sinh ra bởi dòng dõi vua Đa-vít, lại chính là Con Thiên Chúa nhập thể nơi con người Giê-su Na-da-rét đang hiện diện ở giữa họ đây.
Mời Bạn: Chính vì cái nhìn mang tính trần tục, với ý đồ vụ lợi thực dụng mà họ không thể hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn siêu việt hạ mình sinh xuống trần như một phàm nhân. Mầu nhiệm đó vẫn là một thách đố lớn cho con người trong thế giới hiện đại. Bạn có dám tin và làm chứng cho niềm tin đó hay không? Bạn nhớ thánh Gio-an tông đồ quả quyết ai “tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm” thì người ấy bởi Thần Khí của Thiên Chúa, bằng không người ấy là kẻ “phản Ki-tô” (1 Ga 4,2-3).
Sống Lời Chúa: Làm một cử chỉ thờ lạy trước Thánh Giá Chúa Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã đến cứu độ chúng con, xin cho chúng con vững tin vào mầu nhiệm tình yêu cứu độ của Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)


Suy niệm : Bên hữu Cha đây
Suy niệm

Trong những ngày cuối tại Giêrusalem,
Đức Giêsu bị kéo vào những cuộc tranh luận với nhiều nhóm
về quyền, về chuyện nộp thuế, về sự sống lại (Mc 11, 27- 12, 27).
Ít có một cuộc đối thoại đúng nghĩa khi người ta chỉ muốn giăng bẫy,
và không thực sự muốn kiếm tìm chân lý.
Chính vì thế bài Tin Mừng hôm nay là một bất ngờ thú vị.
Một kinh sư nghe Đức Giêsu trả lời các đối thủ của mình
thì ông có cảm tình và muốn hỏi Ngài câu hỏi mà ông bận tâm.
“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?” (c. 28).
Đức Giêsu thấy thiện tâm của ông, và Ngài đã trả lời nghiêm túc.
Ông kinh sư như reo lên khi nghe câu trả lời của Ngài.
“Thưa Thầy hay lắm, Thầy nói rất đúng.”
Câu trả lời của Đức Giêsu chạm đến điều dường như đã có nơi ông.
Ông thích thú lặp lại những lời Ngài đã nói (cc. 32-33).
Theo ông, những điều răn đó còn quý hơn hy lễ và lễ toàn thiêu (c. 33).
Đức Giêsu vui sướng khi đứng trước một vị kinh sư khôn ngoan và cởi mở.
Ngài nói với ông một câu mà chúng ta thèm muốn :
“Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (c. 34).
Vị kinh sư hỏi Đức Giêsu về một điều răn đứng đầu.
Ngài đã trả lời tới hai điều răn (c. 31).
Hai điều răn này gắn kết với nhau chặt chẽ, nhưng vẫn là hai.
Cả hai đều đòi hỏi một thái độ, một chọn lựa diễn tả qua động từ “yêu”.
Yêu Thiên Chúa bằng tất cả con người mình
bằng trọn cả trái tim, linh hồn, trí khôn và sức lực,
và yêu tha  nhân như yêu chính mình (cc. 29-31).
Tình yêu đối với tha nhân không thay thế được tình yêu đối với Thiên Chúa.
Tình yêu đối với Thiên Chúa như thanh dọc của thập giá
đỡ lấy thanh ngang là tình yêu tha nhân.
Sống trọn tình yêu là chấp nhận cả hai thanh gỗ làm nên cây thập giá.
Nếu lễ toàn thiêu đòi đốt hoàn toàn lễ vật, và hy lễ đòi giết chết con vật,
thì tình yêu đối với Chúa và tha nhân
cũng đòi thiêu rụi và giết chết cái tôi kiêu ngạo, ích kỷ của mình.
Chẳng thể nào yêu mà đòi giữ nguyên cái tôi khép kín.
Người Kitô hữu hôm nay cũng có thể hỏi Chúa câu hỏi tương tự:
Điều răn nào quan trọng hơn cả chi phối mọi lề luật trong Giáo Hội?
Chúa cũng sẽ giữ nguyên câu trả lời như ngày xưa.
Ngài vẫn tóm mọi điều răn và giới răn trong một động từ đơn giản: yêu.
Xin để tình yêu chiếm lấy trái tim của tôi, chi phối mọi chọn lựa,
và biến đời tôi thành tình yêu.

Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh :
nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG SÁU
Mạc Khải Và Thuyết Tiến Hóa
Trong thời hiện đại của chúng ta, giáo thuyết mạc khải rằng con người được tạo dựng như một hữu thể gồm cả hồn lẫn xác đã gặp một khó khăn đặc biệt do thuyết tiến hóa dấy lên. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu nguồn gốc con người chủ trương rằng không những có một mối liên kết giữa con người và toàn bộ thế giới tự nhiên mà, hơn nữa, con người đã tiến hóa từ các động vật thượng đẳng. Vấn đề nguồn gốc con người đã taọ ra sự tranh luận công khai và rộng rãi. Nó đã trở thành mối quan tâm chủ yếu của nhiều nhà khoa học trong hơn một thế kỷ nay.
Câu trả lời của huấn quyền được tìm thấy trong Thông Điệp Humani generis (1950) của Đức Piô XII: “Huấn quyền Giáo Hội không có gì chống lại học thuyết tiến hóa, trong mức độ mà thuyết tiến hóa tìm kiếm nguồn gốc của thân xác con người nơi một chất thể sống động và hiện hữu trước – vì đức tin Công Giáo khẳng định rằng linh hồn người ta do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng…” (DS 3896).
Vì thế, từ quan điểm giáo thuyết, không có gì trở ngại để tin rằng thân xác con người đã tiến hóa từ các loài động vật thượng đẳng. Song cũng cần phải nhớ rằng thuyết tiến hóa cũng chỉ là một giả thuyết. Nó nêu lên một khả tính rằng một điều gì đó có thể đúng. Nó không phải là một sự chắc chắn về mặt khoa học. Đàng khác, giáo huấn đức tin dạy chúng ta một cách chắc chắn rằng linh hồn thiêng liêng của con người được Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng.
Nói vậy có nghĩa là thân xác con người có thể đã được chuẩn bị từng bước cho con người, theo một thứ tự do Đấng Tạo Hóa vạch định. Nhưng, linh hồn con người không thể phát xuất từ vật chất, vì linh hồn có bản tính thiêng liêng. Và chính linh hồn là yếu tố quyết định định mệnh cuối cùng của con người.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 05/6
Thánh Bônifatiô, giám mục tử đạo
2Tm 3, 10-17; Mc 12, 35-37.

Lời Suy Niệm:  “Chính vua Đavít được Thánh Thần soi sáng đã nói: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân con.”
       Khi giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giêsu lên tiếng hỏi: “Sao các kinh sư lại nói Đấng Kitô là con vua Đavít”. Điều này Chúa Giêsu không trực tiếp ám chỉ về mình; Vào thời bấy giờ người Do-thái tin tất cả các Thánh Vịnh đều do vua Đavít sáng tác. Nên Chúa Giêsu đã dùng chính lời trong Sách Thánh Vịnh 110,1: “Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân con.” Điều Chúa Giêsu muốn nói ở đây: chính Người là Con Vua Đavít và còn hơn thế nữa; không những chỉ là Con Vua Đavít mà còn là Chúa của Vua Đavít nữa.
       Lạy Chúa Giêsu. Chúa có nhiều tước hiệu và danh xưng, mà trong Cựu Ước và Tân Ước đã cho chúng con biết. Xin cho tất cả chúng con luôn tin và tôn thờ Chúa: là Chúa của con, Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất,  là Thiên Chúa thật. Để chúng con được nên một trong một niềm tin.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 05-06: Thánh BÔNIFACIÔ
Giám Mục Tử Đạo (673 – 754)

Thánh Bônifaciô có tên sơ khởi là Winfrid. Ngài là người Saxon miền nam, sinh ở Creditôn gần Exêter, năm 673, thời đó, phong trào truyền giáo rất mạnh mẽ ở nước Anh. Gia đình Ngài thường là nơi dừng chân của rất nhiều nhà truyền giáo. Winfrid rất thích gần gũi ở những con người thánh thiện này và không bỏ mất một lời nào các Ngài kể lại và năng hỏi thăm về những chân lý các Ngài rao giảng. Một ngày kia Winfrid hỏi các Ngài phải làm gì để được cứu rỗi ? Các vị thừa sai trả lời: – Phải nỗ lực để nên tốt lành với mọi người và đừng nghĩ đến mình.
Nghe những lời này, Winfrid muốn lên đường ngay để rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Ngài đã xin cha đi tu nhưng cha Ngài đã từ chối. Ngài ngã bệnh khiến cha Ngài hốt hoảng và đã chấp nhận.
Winfrid nhập dòng ở Exeter và vì thiện chí học hỏi của Ngài, người ta gởi Ngài tới Nursling để học kinh thánh, thơ văn và văn phạm, năm 717, Winfrid đã trở thành một giáo sĩ nổi bật của miền nam Saxon và được đề nghị làm tu viện trưỏng tu viện Nursling. Nhưng Ngài đã quyết định gia nhập nhóm truyền giáo. Angle-saxon lên đường tới Frisia. Vẫn quan tâm đến các công việc của nước Anh cho đến hết đời, Ngài giữ liên lạc thư từ rất thường xuyên nhưng không hề viếng nước Anh lần nào nữa.
Miền đất Winfrid muốn đến rao giảng Tin Mừng là một vùng thuộc nước Đức và nằm giữa hai giòng sông Rhin và Danube. Cả người Rôma lẫn người Pháp đã không thuần hoá được dân chúng hung dữ của miền này. Nhưng một cuộc chiến bùng nổ giữa bá ước Ratborol và Charles Martel, khiến Ngài không cập bến được. Ngài hướng về Roma với một nhóm hành hương và xin sự chẩn nhận của Đức giáo hoàng. Đức Thánh cha Grêgoriô II đã chúc lành cho tu sĩ này và ban cho mọi người quyền hạn để mang Nước Chúa đến cho dân Đức còn đang thờ ngẫu tượng.
Rời Rôma, Người rảo qua các miền Lombardie, Baviere và Thuringia học hiểu ngôn ngữ và giữ các phong tục địa phương của đám dân. Ngài muốn truyền bá Tin Mừng. Ngài đã đến Frisia, đến giữa nước Đức, và lập được nên một nhà nguyện, một tu viện ở Hambourg. Thành quả này làm phấn khởi cũng như thúc đẩy tình yêu nơi vị tông đồ. Những cuộc trở lại đạo này ngày một nhiều.
Năm 722 Đức giáo hoàng gọi Winfrid về Roma và tấn phong Ngài làm giám mục. Đức Giáo hoàng nói: – Từ nay con sẽ mang tên là Bônifaciô, nghĩa là “người thi ân”. Đây là lần đầu tiên một tòa giám mục ở xa đã theo thực hành địa phương của Italia và đã tỏ bày sự tuân phục đối với Đức Giáo hoàng .
Bônifaciô lại lên đường truyền giáo với tư cách giám mục. Ngài sẽ không ở Frisia dưới quyền Willibord, nhưng muốn mở ra một lãnh địa mới ở Tây Đức. Ngài đã bắt đầu ở Hesse miền Thuringia là nơi Ngài đã đến đốn một cây sồi cổ thụ. Dân chúng đặt tên cho cây sồi này là “sức mạnh thần Jupiter”. Thánh nhân đã triệt hạ cây cổ thụ cách dễ dàng lạ lùng rồi dùng cây dựng nhà thờ kính thánh Phêrô. Dân chúng thờ ngẫu thần đã giận dữ vì sợ bị thần minh oán phạt. Họ tuốn đến đe dọa thánh nhân. Nhưng khi nghe Ngài nói rất hay và đầy tình đầy nghĩa, nhiều người đã trở lại đạo.
Charles Martel lúc ấy sẵn sàng đem binh lực phục vụ Kitô giáo. Tuy nhiên Đức Giám mục Bônifacio đã không muốn cậy dựa vào sức mạnh mà chỉ dùng tình thương để cải hóa các tâm hồn. Ngài đã thiết lập nhiều tu viện và kêu gọi sự trợ giúp từ nước Anh gởi tới. Đã có nhiều linh mục, nghệ sĩ, văn sĩ, tới góp công và nhiều người khác đóng góp của cải cho việc truyền giáo. Cứ như thế mà thánh Bônifacio đã có thể trao phó cộng đoàn nhỏ bé và mới mẻ cho các tu sĩ coi sóc rồi lại lên đường tiếp tục mở mang nước Chúa.
Đức giáo hoàng Gregoriô III phong đức Bônifacio lên chức Tổng giám mục và trao cho trách nhiệm thiết lập các toà giám mục ở nước Đức. Sau cuộc viếng thăm Rôma lần thứ ba, Ngài nhận sứ mệnh tổ chức Giáo hội ở hữu ngạn sông Rhin. Suốt 7 năm đi rao giảng Tin Mừng ở Hesse, Ngài đi vào khu rừng phân cách Hesse và Thuringia. May mắn, nhà truyền giáo được hứơng dẫn tiến về thung lũng Fuloda. Cùng với các tu sĩ, Ngài phá rừng đào đất và xây dựng tu viện Fulda. Tu viện này sẽ trở nên thành trì của đời sống tôn giáo trí thức của dân man rợ thời Trung Cổ.
Đức Tổng giám mục Bônifacio chọn Mayence làm toà tổng giám mục. Carlôan con của Charles martel chọn đời sống tu trì và nhường quyền kế vị cho Pépin. Ông này muốn được một đức giám mục lớn phong vương. Trong một lễ nghi long trọng ở Soissons, vị tông đồ đã đặt vương miện lên đầu Pépin le Brej. Sau đó không kể gì đến tuổi già, Ngài lại lên đường truyền giáo.
Ngài xuống thuyền với 50 người tùy tùng gồm có các linh mục, tu sĩ và các sinh viên. Đoàn thuyền tới giữa các cánh đồng lầy lội. Cư dân của vùng này còn sống rất hoang dại. Các nhà truyền giáo rao giảng Tin Mừng cho họ. Đức cha Bônifacio hẹn các tân tòng ở Dokum, gần bờ bể, ngày 5 tháng 6 năm 756, hôm ấy là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lúc vừa cử hành thánh lễ thì một đoàn người mang khí giới xông tới, Bônifacio quay về với các bạn và nói: – Can đảm lên, khí giới này không làmgì được linh hồn.
Các lương dân xông vào sát hại các nhà truyền giáo. Một nhát búa bổ xuống Đức Tổng giám mục và cuốn Phúc âm Ngài đang cầm trong tay.
Xác thánh nhân được đưa về chôn cất ở nhà thờ chánh tòa Fulda. Thư viện còn lưu giữ được cuốn sách bị chặt đứt của thánh nhân.
(daminhvn.net)


05 Tháng Sáu
Hãy Cho Một Nụ Cười
Một bệnh nhân nọ được đưa vào một bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều trị trong một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác trong một phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc. Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các bệnh nhân khác.
Không chịu đựng nổi trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ trách. Anh trình như sau: “Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không đau yếu như tôi”.
Vị phụ trách mỉm cười đáp: “Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết, một bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không tin”.
Người đàn ông muốn biết bí quyết ấy. Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu. Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên… Ngài giải thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân ở đây. Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau. Hòn đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ thường sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp hối”.
Cái chết của Ðức Kitô là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó là Tình Yêu được dâng hiến cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng của một người sống và chết cho mọi người.
Nhìn ngắm Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người khác, con người càng trở nên phong phú…
Có của cải, có thì giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của mình. 
Âm thầm đón nhận một đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Vác lấy khổ đau để trở thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong những chia sẻ cao quý nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Dâng từng khổ đau, hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự chia sẻ ấy.
(Lẽ Sống)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét