08/06/2020
Thứ Hai tuần 10
thường niên
BÀI ĐỌC I:
1 V 17, 1-6
“Êlia đứng trước tôn nhan Chúa,
Thiên Chúa Israel”.
Trích sách Các Vua
quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Êlia người Thesbê thuộc miền Galaad, tâu vua Acáp rằng:
“Có Chúa là Đấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan!
Trong những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không
ra lệnh”. Và Chúa đã phán cùng Êlia như sau: “Ngươi hãy bỏ nơi này, đi về hướng
đông và ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Nơi đây ngươi sẽ uống nước
suối, và Ta đã truyền cho chim quạ nuôi ngươi”. Vậy ông trẩy đi và làm như lời
Chúa dạy. Ông đến ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Sáng sớm quạ
đem cho ông bánh và thịt; ban chiều quạ cũng lại đem cho ông bánh và thịt, và
ông uống nước suối. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 120, 1-2.
3-4. 5-6. 7-8
Đáp: Ơn phù trợ của
tôi do nơi danh Chúa, là Đấng đã tạo thành đất với trời (c. 2).
Xướng:
1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban
tới? Ơn phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Đấng đã tạo thành đất với trời. –
Đáp.
2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té, Đấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có
ngủ say. Kìa Đấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say. – Đáp.
3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Đấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt
trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban
đêm. – Đáp.
4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến, Người sẽ bảo vệ linh hồn
ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi, khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời.
– Đáp.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự
sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 5, 1-12
“Phúc cho những ai có tinh thần
nghèo khó”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người
ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. – Phúc
cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. – Phúc cho những
ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. – Phúc cho những ai đói khát điều công chính,
vì họ sẽ được no thoả. – Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được
xót thương. – Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem
Thiên Chúa. – Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa. – Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
“Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét
Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan,
vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt
bớ các tiên tri trước các con như vậy”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Tám mối phúc
thật
Có lẽ người Công giáo nào cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ
nhiều người ngoài Kitô giáo cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương
này. Cũng giống như bản thân Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự
mâu thuẫn. Nếu đối với người Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám
Mối Phúc Thật là nguồn cảm hứng cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số
người khác, như triết gia Nietzsch chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô
những đức tính của loài vật, bởi vì chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và
nhẫn nhục chịu đựng; đối với một số khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời
hứa hão về một thứ thiên đàng ảo tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó
chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối
Phúc Thật?
Bản văn Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay là của thánh Mátthêu.
Chúa Giêsu chỉ công bố Tám Mối Phúc Thật một lần duy nhất, nhưng được hai tác
giả ghi lại; dĩ nhiên, với hai cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Cái
nhìn của Luca có tính xã hội: Luca giải thích các mối phúc thật dưới ánh sáng
giáo huấn của Chúa Giêsu về nghèo khó và việc sử dụng của cải trần thế, để từ
đó đề cao giai cấp những người nghèo khổ trong xã hội; với Luca, những người
nghèo thật sự là những tín hữu tiên khởi của Giáo Hội. Trái lại, Mátthêu quan
tâm đến khía cạnh luân lý nhiều hơn: nếu Luca đề cao giai cấp cùng khổ, thì
Mátthêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo
khó", do đó theo Mátthêu, con người vào được Nước Trời không đương nhiên
vì tình trạng nghèo khó, mà vì thái độ tinh thần của họ; cũng trong cái nhìn ấy,
Mátthêu đáng giá về sự đói khát: nếu Luca nói đến những nạn nhân của bất công,
tức những người đói khát cơm bánh thực sự, thì Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự đói
khát công lý nơi con người.
Tổng hợp hai cái nhìn khác nhau của Luca và Mátthêu, chúng ta có thể đưa
ra bài học về sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Nước Chúa mà Giáo Hội loan
báo không chỉ là Thiên Ðàng trong thế giới mai hậu, nhưng đang đến trong cuộc sống
tại thế này, qua những giá trị như công bình bác ái, huynh đệ, liên đới. Chính
trong những thực tại trần thế mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những thực
tại Nước Trời.
Niềm tin của người Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ
lực của người Kitô hữu nhằm minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của
cuộc sống và định mệnh của con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về
thế gian, sống giữa thế gian, nhưng con người phải nhìn về Quê hương đích thực
là Thiên Quốc. Tuy nhiên, niềm tin hướng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm
cho người Kitô hữu xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín
rằng chính qua những thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của
Nước Trời; chính qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu
của họ. Ðây quả là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời.
Một trong những nguyên nhân khiến người Kitô hữu bị bách hại là bởi vì
con người không hiểu được sứ điệp của Tin Mừng. Chúa Giêsu đã bị chống đối và
cuối cùng bị treo trên Thập giá là bởi vì những người đương thời không hiểu được
sứ điệp và con người của Ngài. Ðó cũng chính là thân phận của người Kitô hữu
trong trần thế, nhưng chính khi bị bách hại mà vẫn kiên trì trong niềm tin của
mình, người Kitô hữu mới thể hiện được ý nghĩa sứ điệp của Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã chẳng nói: khi nào Ta bị giương cao, Ta sẽ kéo mọi người
lên cùng Ta sao? Ðó là sức mạnh và nét hấp dẫn của Tám Mối Phúc Thật mà Chúa
Giêsu không chỉ rao giảng, mà còn thể hiện cho đến cùng. Chết để cho sứ điệp
Tin Mừng được đón nhận, đó là nghịch lý của Tám Mối Phúc Thật. Cái chết ấy được
thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của người Kitô hữu, nghĩa là hăng say phục vụ,
sống quảng đại, liêm khiết, sống bác ái yêu thương, ngay cả chấp nhận những
thua thiệt miễn là không đánh mất niềm tin của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1 Kgs 17:1-6; Mt 5:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tin tưởng nơi tình yêu của Thiên Chúa quan phòng.
Mọi sự trong thế giới là của Thiên Chúa vì Ngại dựng nên tất cả cho con
người hưởng dùng trong những ngày họ sống trong thế gian; nhưng rất nhiều người,
thay vì biết cám ơn Thiên Chúa đã ban cho, lại coi những gì mình có là do sức lực
và tài khéo của mình, thay vì thờ phượng Người đã dựng nên tất cả lại quay sang
thờ phượng những thứ Người đó tạo nên. Tiên tri Isaiah so sánh những người như
thế còn thua cả loài vật, vì: “Con bò còn biết chủ, con lừa còn biết cái máng cỏ
nhà chủ nó. Nhưng Israel thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì” (Isa 1:3).
Các bài đọc hôm nay muốn nhắc nhở cho con người biết hạnh phúc thật không
phải là ở sự hưởng thụ vật chất; nhưng là ở chỗ tin tưởng vào tình yêu của
Thiên Chúa quan phòng. Trong bài đọc I, ngôn sứ Elijah truyền lệnh đóng cửa trời.
Mục đích là để cho dân nhận ra sự cần thiết của Thiên Chúa và quay trở về với
Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tóm tắt đạo lý của Người trong Bát Phúc; những
gì con người phải làm để được Thiên Chúa chúc phúc.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Trong những năm sắp tới, sẽ
chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra lệnh.
1.1/ Lệnh truyền của tiên tri Elijah: Tiên tri tức giận vì nhà vua và dân
chúng đã rời xa Thiên Chúa, vì muốn cho họ mở mắt nhìn thấy đâu là Thiên Chúa
thật, ông nói với vua Ahab của Israel rằng: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống
của Israel, Đấng tôi phục vụ: trong những năm sắp tới, sẽ chẳng có mưa, có
sương, nếu tôi không ra lệnh.”
Thiên Chúa không những dựng nên cây cối và hạt giống làm thức ăn cho muôn
loài, Người còn quan phòng cho mưa nắng, sương gió giúp hạt giống nẩy mầm và
tăng trưởng. Nếu thiếu những yếu tố này, hạt giống sẽ không thể mang lại cho
con người lương thực. Để giúp nhà vua và con cái Israel nhận ra sự quan phòng của
Thiên Chúa, tiên tri được Thiên Chúa cho quyền năng “đóng cửa trời,” để không
có mưa hay sương rơi xuống trên mặt đất cho tới khi tiên tri truyền lệnh lại.
Không có mưa hay sương, con người và thú vật sẽ chết vì khát, cây cỏ sẽ
khô héo và không sinh lương thực, con người và thú vật sẽ chết vì đói. Tiên tri
hy vọng khi con người phải đối diện với nguy hiểm chết vì đói khát, họ sẽ nhận
ra sự cần thiết của Thiên Chúa và tin tưởng nơi Ngài.
1.2/ Thiên Chúa quan phòng cho Elijah: Khi không có mưa sương rơi xuống,
cả tiên tri Elijah cũng bị ảnh hưởng, nhưng ông tin tưởng nơi sự quan phòng của
Thiên Chúa. Thiên Chúa biết chỗ nào có nước để tiên tri có nước uống: “Ngươi
hãy bỏ đây đi về phía đông, và ẩn mình trong thung lũng Cherith, phía đông sông
Jordan. Ngươi sẽ uống nước suối.” Về thức ăn: “Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi ở
đấy.” Ông ra đi và làm như Đức Chúa truyền: là đến ở thung lũng Cherith, phía
đông sông Jordan. Buổi sáng, quạ mang bánh và thịt cho ông; rồi buổi chiều,
cũng mang bánh và thịt cho ông. Ông uống nước suối.
Trình thuật trong Sách Các Vua dạy chúng ta bài học: Nếu con người không biết nhận ra và cám ơn những ân huệ Thiên Chúa đã làm, Ngài sẽ cất đi và con người sẽ chết; nhưng nếu con người nhận ra và tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ có cách nuôi dưỡng con người ngay cả trong khi hạn hán, đói khát.
Trình thuật trong Sách Các Vua dạy chúng ta bài học: Nếu con người không biết nhận ra và cám ơn những ân huệ Thiên Chúa đã làm, Ngài sẽ cất đi và con người sẽ chết; nhưng nếu con người nhận ra và tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ có cách nuôi dưỡng con người ngay cả trong khi hạn hán, đói khát.
2/ Phúc Âm: Người có phúc là người biết
trông cậy hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Có thể nói Bát Phúc là tóm tắt tất cả những gì Chúa Giêsu dạy dỗ con người
trong những ngày Ngài rao giảng ở trần gian. Có thể tóm tắt Bát Phúc vào ba điều
chính theo chủ đề hôm nay. Con người cần phải tin tưởng hoàn toàn vào sự quan
phòng của Thiên Chúa.
2.1/ Trong khi thiếu thốn vật chất: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.” Có nhiều cách giải thích về cụm từ “tâm hồn nghèo
khó.” Trước tiên, chúng ta không thể giản lược vào thiếu thốn vật chất; nhưng rất
nhiều lần Chúa Giêsu tuyên bố người giầu có rất khó vào Nước Trời. Lý do đơn giản
khi con người có đầy đủ mọi thứ, họ có khuynh hướng không cần Thiên Chúa; tối
ngày chỉ lo kiếm nhiều tiền, và khi có nhiều tiền lại tìm kiếm hưởng thụ. Dĩ
nhiên Chúa không cổ động lối sống nghèo đến độ không có của ăn nhà ở, con người
cần có những thứ căn bản ổn định trước khi có thể phát triển tinh thần. Thứ
hai, có người giầu nhưng biết dùng của cải Chúa ban để phân phát cho người
nghèo, ủng hộ vào các chương trình phát triển hay nuôi dưỡng ơn gọi, hay mở rộng
nhà cửa để tiếp đón những nhà truyền giáo. Có lẽ điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh
đến ở đây là có lòng trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa trong mọi sự,
chứ không thuần nhất chỉ của cải vật chất mà thôi.
2.2/ Trong khi thiếu thốn tinh thần: Hiền lành không có nghĩa khờ khạo để
cho người khác muốn làm gì thì làm; nhưng phải biết khi nào và cách thức phản ứng
để đạt được kết quả tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn. Trên đường nhân đức, người
khao khát được trở nên người công chính là người dễ đạt tới đỉnh trọn lành, vì
nếu coi thường hay xem nó không quan trọng, làm sao người đó chịu bỏ công sức để
tập luyện! Xót thương tha nhân là điều kiện Chúa đòi để được Chúa xót thương.
Ai không có lòng thương xót anh em mình, làm sao dám cầu xin lòng thương xót của
Thiên Chúa. Ơn Phúc Kiến, nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường là mục đích của cuộc đời.
Điều kiện Thiên Chúa đòi là tâm hồn trong sạch. Chữ trong sạch ở đây hiểu là
“nguyên chất,” không pha trộn với điều gì khác. Nếu hiểu như thế, trong sạch
không chỉ giản lược vào phạm vi tình dục; nhưng bao gồm tất cả các mong ước bất
chính. Bình an là quà tặng Thiên Chúa ban cho những ai đặt trọn vẹn niềm tin tưởng
vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Xây dựng bình an là giúp cho
con người hoàn toàn tin nơi Thiên Chúa.
2.3/ Trong khi chịu đau khổ: Khi con người chịu đau khổ, họ có thể rơi
vào một trong hay trạng thái: (1) than thân trách Thiên Chúa và mất niềm tin tưởng
nơi Ngài; (2) nâng tâm hồn lên Thiên Chúa để xin Ngài ghé mắt nhìn tới. Con người
dễ hướng lòng lên Thiên Chúa khi thiếu thốn đau khổ hơn là khi sung sướng hạnh
phúc. Nhiều thánh mong ước được chịu đau khổ để họ được cảm thấy sự ủi an của
Thiên Chúa. Đau khổ vì chính đạo là cơ hội cho con người chứng tỏ niềm tin yêu
của họ nơi Thiên Chúa. Khi có dịp để chịu đau khổ vì Chúa, các tín hữu phải
hãnh diện vì được thông phần vào Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, và cũng sẽ được
thông phần vào vinh quang của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Vật chất chỉ là những phương tiện của cuộc sống không phải là đích điểm
của cuộc đời. Chúng ta đừng vì vật chất mà sống xa Thiên Chúa.
– Chỉ một mình Thiên Chúa mới làm đầy những khao khát hạnh phúc của con
người. Để chiếm hữu Thiên Chúa, con người cần khao khát tập luyện các nhân đức.
– Đau khổ vì chính đạo là cơ hội cho chúng ta biểu tỏ đức tin vào Thiên
Chúa. Nếu chúng ta ao ước được chịu đau khổ với Đức Kitô, Ngài sẽ cho chúng ta
cùng hưởng vinh quang với Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
08/02/2020 – THỨ HAI TUẦN 10 TN
Mt 5,1-12
ĐỨC GIÊ-SU: LỜI BAN PHÚC
Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi… Người mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5,1.3)
Suy niệm: Giảng dạy trên một ngọn
núi, Đức Giê-su thể hiện tư thế của Đấng ban luật, tựa như Thiên Chúa trên núi
Si-nai, chứ không như Mô-sê chỉ là người lập lại ý của Thiên Chúa. Tám mối phúc
có thể nói là bản hiến chương Nước Trời, phổ quát cho mọi dân mọi nước, chứ
không chỉ cho riêng dân Ít-ra-en. Hiến chương ấy, một mặt, là những lời chúc
phúc thật đặc biệt, vượt xa tiêu chuẩn hạnh phúc của thế gian, đưa ta đến hạnh
phúc thật sự; mặt khác, hiến chương ấy đòi hỏi con người phải thay đổi nếp
nghĩ, lối sống mới có thể tiếp nhận. Tám mối phúc là những gì Đức Giê-su rao giảng,
đề cao, và chính Ngài đã sống: Ngài sống nghèo khó, khiêm nhường, kiến tạo hòa
bình, tìm kiếm công lý cho kẻ khác, và chịu đau khổ vì chân lý… Nói cách khác,
các mối phúc đều qui về Ngài, và chính Ngài, là phần thưởng lớn nhất cho đời
ta.
Mời Bạn: Tám mối phúc có làm bạn
ngạc nhiên, ngại ngùng? Ai lại nghĩ rằng nghèo khó, khiêm nhường, hiền lành…là
‘phúc’ chứ! Chẳng lẽ phải chịu thiệt thòi, dại khờ vậy sao? Thế nhưng, là môn đệ
Chúa Ki-tô, bạn lại được mời gọi can đảm đáp trả lời dạy này của Ngài. Nhờ
vậy, bạn sẽ gặp được hạnh phúc thật sự, viên mãn.
Sống Lời Chúa: Hôm nay, bạn giữ tâm hồn
trong sạch vì yêu mến Chúa, cũng như tập chia sẻ cho những anh chị em thiếu thốn
bạn quanh bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho
con can đảm sống các Mối phúc, dù phải hy sinh, thiệt thòi, để được hưởng mối lợi
lớn lao là hạnh phúc Nước Trời Chúa hứa ban. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Phúc thay
Suy niệm:
Đức Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994 tại thủ đô nước Anh,
đã được mời chia sẻ về giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.
Một trong những bài chia sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc.
Theo ngài các Mối Phúc dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả.
“Nếu bạn hành động như thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế.
Nếu bạn không hành động như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế.
Vậy rõ ràng nguyên lý nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.”
Thật ra các Mối Phúc của Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân
quả,
dù mới đọc ta có cảm tưởng như vậy.
Các Mối Phúc bắt đầu bằng chữ “Phúc thay”,
kế đến nói lên ai là người được hưởng phúc ấy,
cuối cùng nêu lên lý do hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì”.
Hạnh phúc đích thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên
do “nhân” là việc lành phúc đức của họ.
Dù sống tốt đến mấy đi nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được.
“Quả” hạnh phúc của
Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người.
Điều này được diễn tả qua những lối dùng động từ ở thể thụ động:
“sẽ được ủi an, sẽ được no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.”
Trước khi giảng về các Mối Phúc, Đức Giêsu đã loan báo:
“Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4, 17).
Nước Trời người Do thái mong đợi đã đến với sự hiện diện của Đức Giêsu.
Quà tặng nhưng không của Thiên Chúa đã được trao ban,
chẳng phải do công sức của con người.
Hãy mở lòng ra đón lấy Nước ấy bằng cách hối cải, bỏ đời sống cũ.
Nhưng hơn thế nữa, còn phải đón nhận một lối sống mới cho phù hợp.
Bài giảng trên Núi, và các Mối Phúc, cho thấy hướng sống
của những ai muốn đón nhận quà tặng Nước Trời với bao hạnh phúc kèm theo.
Để nhận được quà tặng vô giá ấy, để được hưởng hạnh phúc vô bờ ấy,
cần cung kính đưa hai tay để đón lấy với lòng khiêm hạ và biết ơn.
Sống theo các Mối Phúc là có thái độ trân trọng cung kính ấy.
Không đưa tay thì cũng chẳng được quà.
Nhưng không phải cứ đưa tay là có quà,
nếu Thiên Chúa không muốn cho trước khi ta xin.
Kitô giáo không dựa trên nguyên lý nhân quả.
Cung kính đưa tay là sống nghèo khó, cậy dựa vào Thiên Chúa,
là hiền lành, là chịu sầu khổ, chịu bách hại vì Đức Kitô.
Cung kính đưa tay là có lòng thương xót, có tinh thần xây dựng hòa bình,
là làm tất cả mọi sự với quả tim trong sáng, không chút vẩn đục.
Khi làm như thế chúng ta hy vọng được chạm đến Thiên Chúa,
thậm chí được nếm biết Nước Trời ngay từ đời này (cc. 3. 10).
Chúng ta có thể viết thêm những mối phúc mới
qua những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu.
Có bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà ta cảm nhận khi sống lời dạy của
Giêsu.
Chỉ khi ấy ta mói thấy thật sự lời của Ngài là Tin Mừng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG SÁU
Một Cộng Đồng Nhân
Vị
Bản văn Sáng Thế 2,24 được kết hợp với lời chúc phúc được ghi lại trong
Sáng Thế 1,28: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt
đất”. Chúng ta nhận ra rằng hôn nhân và gia đình – vốn là một phần của mầu nhiệm
sáng tạo con người – được nối kết bởi mệnh lệnh “thống trị” mặt đất. Mệnh lệnh
này được Đấng Tạo Hóa ủy thác cho đôi vợ chồng đầu tiên.
Con người được kêu gọi thống trị mặt đất, nhưng con người phải cẩn thận.
Con người được kêu gọi để thống trị mặt đất chứ không phải để hủy diệt nó; vì
công trình sáng tạo là một quà tặng của Thiên Chúa và xứng đáng được chúng ta
tôn trọng. Người nam và người nữ được mời gọi để thống trị mặt đất cùng với
nhau. Và mối kết hợp này là gốc rễ phát sinh gia đình và xã hội.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa không chỉ vì con người là nam và là
nữ – nhưng còn vì mối quan hệ hỗ tương của phái tính. Mối quan hệ ấy làm nên
linh hồn và trái tim của “cộng đồng nhân vị”. Nó trở thành một thực tại qua Bí
Tích Hôn Nhân và mang dáng dấp của sự hiệp nhất ba ngôi vị thần linh nơi Chúa
Ba Ngôi.
Về chủ đề này, Công Đồng Vatican II tuyên bố: “Thiên Chúa đã không dựng
nên con người cô độc – bởi vì từ khởi thủy, ‘Ngài đã tạo dựng có nam có nữ’ (St
1,27); sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với
người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã
hội tính; và nếu không liên lạc với những người khác, con người sẽ không thể sống
và thể hiện các khả năng của mình” (MV 12).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 08/6
1V 17, 16; Mt 5,
1-12.
Lời Suy Niệm: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ được gọi là con Thiên Chúa.”
Thiên Chúa là tình yêu, và Ngài
đã sáng tạo mọi loài trong tình yêu, Ngài cho biết tất cả đều tốt đẹp. Nhưng
con người đã phạm tội bất phục tùng với Ngài, nên trong chính con người luôn có
sự bất an, cái thiện và cái ác luôn đối đầu với nhau tạo nên một cuộc chiến
tranh trong chính mình, nảy sinh ra sự bất hòa giữa con người với nhau và với
các tạo vật khác. Nên những ai làm công việc giải hòa đem lại hòa bình, là đang
cọng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo của Ngài. Điều này Chúa Giêsu xác
nhận đây là một phúc được gọi là người con Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Thế giới ngày hôm
nay, đâu đâu cũng đang diễn ra chiến tranh với nhiều loại vũ khí tối tân giết
chết con người và các sinh vật khác, hủy hoại thiên nhiên. Xin Chúa ban cho
nhân loại có thêm thật nhiều người ra tay xây dựng hòa bình, để tất cả nhân loại
được sống trong hòa bình thực sự, vui hưởng sự bình an của Chúa đã ban cho.
Mạnh Phương
08 Tháng Sáu
Mẹ Chúng Ta
Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại
nhà thờ chính tòa Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại
thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử tọa như sau: “Ai trong anh chị em
có thể nói cho tôi biết Ðức Mẹ là ai?”
Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả
lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: “Thưa Cha, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa”.
Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: “Ðúng thế, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng
nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria”.
Liền sau đó, cử tọa liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên
Ðàng, Mẹ là Ðấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Ðấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Ðấng
cứu chữa kẻ bệnh tật v.v…
Sau khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Ðức Maria, thánh
Gioan Bosco mỉm cười nóitiếp: “Ðức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể
ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn noid thêm về Ðức maria…”.
Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: “Tôi xin
được nói với anh chị em Ðức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng
ta. Ðó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần
gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta
hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Ðàng không có vị thánh nào yêu thương
chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria…”.
Chính lúc Ðức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã
long trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan
cho Mẹ.
Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng
của những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Ðức Maria mới sinh hạ
chúng ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm
hiệp thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.
Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác.
Sự độc ác tột cùng mà người Do Thái và La Mã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa
Giêsu qua thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình
thức khác. Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người trà đạp
người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.
Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội
ác của mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng
chiến đấu chống lại tội lỗi.
Sứ điệp của Ðức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội
dung: đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như
ngày xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn
đau, ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau,
đang chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét