13/06/2020
Thứ Bảy tuần 10
thường niên.
Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.
* Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh
sĩ thánh Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ
lý tưởng sống Tin Mừng của thánh Phanxicô. Người đã đến Át-xi-di, sống
bên cạnh thánh Phanxicô (năm 1221). Với tài năng giảng thuyết ngoại thường,
người được phái qua Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành
hành. Người lập một tu viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là người đầu
tiên trong dòng dạy thần học cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng
tĩnh tâm mùa Chay tại đó (năm 1231).
BÀI ĐỌC I:
1 V 19, 19-21
“Êlisê chỗi dậy đi theo Êlia”.
Trích sách Các Vua
quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Êlia xuống núi tìm đến cùng Êlisê, con ông Saphat,
đang cày với mười hai đôi bò; chính Êlisê là người dẫn đôi bò thứ mười hai.
Êlia tiến đến gần ông và ném áo choàng mình trên ông. Êlisê bỏ đôi bò đó, chạy
lại Êlia và thưa rằng: “Xin cho tôi về hôn cha mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ theo
Ngài”. Êlia nói với ông: “Cứ về rồi trở lại, vì ta đã làm gì ngươi đâu?” Êlisê
rời Êlia, bắt đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi, nấu thịt bò và đem cho dân
chúng ăn. Đoạn Êlisê chỗi dậy đi theo làm đồ đệ Êlia. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 15, 1-2a và
5. 7-8. 9-10
Đáp: Lạy Chúa, Chúa
là phần gia nghiệp của con (c. 5a).
Xướng:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng
Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính
Ngài nắm giữ vận mạng của con. – Đáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng
con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì
Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. – Đáp.
3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt
của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ,
cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát. – Đáp.
ALLELUIA: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia!
– Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh
quang trên các tầng trời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 5, 33-37
“Thầy bảo các con: đừng thề chi
cả”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con lại còn nghe dạy
người xưa rằng: ‘Đừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa’. Phần
Thầy, Thầy bảo các con: Đừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của
Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy
Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con
không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải:
có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra”. Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Có thì nói
có
Trong một xã hội mà sự dối trá lừa đảo đã trở thành luật sống, thì sự
trung thực quả là vàng. Phải chăng nhiều người Kitô hữu chúng ta lại không cho
rằng trong hoàn cảnh hiện nay, giới răn thứ tám không còn ràng buộc nữa? Người
người dối trá, tại sao tôi không dối trá, miễn là tôi không vi phạm đến quyền lợi
người khác thì thôi!
Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ một luật trừ trong giới răn này:
"Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ mà
ra". Nền tảng của giới răn này chính là phẩm giá của con người. Con người
là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Ðấng chân thật, cho nên thuộc tính
cơ bản nhất của con người cũng phải là chân thật. Thiên Chúa phán một lời liền
có trời đất muôn vật, không có quãng cách giữa lời và hành động của Thiên Chúa.
Người tôn trọng phẩm giá cao cả của minh đương nhiên cũng là người tôn trọng lời
nói của mình, đó là đòi hỏi của bất cứ nền luân lý đạo đức nào.
Ðón nhận chân lý mạc khải của Thiên Chúa về con người, người Kitô hữu phải
ý thức hơn ai hết về phẩm giá cao trọng của mình. Phẩm giá ấy được thể hiện hay
không là tùy ở mức độ trung thực của họ. Bản sắc của người Kitô hữu có được thể
hiện hay không là tùy ở mức độ trong suốt của cuộc sống của họ. Niềm tin của
người Kitô hữu có khả tín hay không là tùy họ có can đảm để lội ngược dòng giữa
một xã hội mà dối trá đã trở thành luật sống.
Những vần thơ sau đây của thi sĩ Phùng Quán quả thật đáng cho chúng ta
suy nghĩ:
Yêu ai cứ bảo rằng yêu
Ghét ai cứ bảo rằng ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết,
Cũng không nói ghét thành yêu.
Chúa Giêsu đã sống cho đến cùng những lời Ngài rao giảng. Dù cái chết
cũng không khóa được những lời sự thật của Ngài và cái chết của Ngài trên Thập
giá cuối cùng cũng trở thành lời. Biết bao người đang chờ được nghe những lời
chân thật của các Kitô hữu, không chỉ những lời thốt ra từ môi miệng, mà còn là
những lời từ một cuộc sống ngay thẳng, thanh liêm.
Nguyện xin Chúa gìn giữ và ban cho chúng ta can đảm để làm chứng cho lời
chân lý của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1
Kgs 19:19-21; Mt 5:33-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Người môn đệ phải luôn trung thành với Thiên Chúa và tha nhân.
Chúng ta đang sống
trong một kỷ nguyên mà con người bị khủng hoảng trầm trọng trong các mối liên hệ:
con người không ngừng vi phạm những điều họ đã hứa với Thiên Chúa và với tha
nhân. Nhìn vào những nhà lãnh đạo của các quốc gia, trước khi đắc cử, họ hứa hẹn
với dân chúng rất nhiều; nhưng sau khi nhậm chức, chẳng thực hành được bao
nhiêu. Trong lãnh vực kinh tế và tài chánh cũng thế, sự khủng hoảng kinh tế
toàn cầu đang xảy ra là vì quá nhiều chủ tịch các công ty đã gian lận tiền của
chính phủ và của dân chúng để làm của riêng mình. Trong đời sống gia đình cũng
chẳng khá hơn: bao nhiêu cặp vợ chồng ăn ở với nhau mà chẳng cần làm hôn thú
hay lễ cưới; dẫu có thề hứa trước Thiên Chúa cũng chẳng giữ lời (hơn 50% đã
chia tay). Trong đời sống linh mục và tu trì cũng thế, bao nhiêu người đã giũ
áo ra đi và không trung thành với những gì mình đã thề hứa! Lời thề hứa hôm nay
còn có giá trị hay không? Thiên Chúa còn có thể tin những gì con người thề hứa?
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong việc dạy con người phải trung thành giữ lời hứa mà không cần phải
thề thốt. Trong Bài Đọc I, khi được ngôn sứ Elijah gọi, Elishah biết đó là tiếng
gọi của Thiên Chúa, ông xin phép về thăm cha mẹ; sau đó ông sát tế cặp bò làm lễ
hy sinh và đập nát cày làm củi thiêu của lễ. Hành động này chứng tỏ sự dứt
khoát của ông theo ngôn sứ Elijah làm việc cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu dạy các môn đệ không cần phải thề thốt; nhưng phải luôn biết tập luyện để
nói, sống, và làm chứng cho sự thật. Một cách đơn giản: hễ “có” thì phải nói
“có;” “không” thì phải nói “không.” Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngôn sứ phải bỏ mọi sự và trung thành theo Chúa.
1.1/ Theo lời Đức
Chúa, Elijah chọn Elishah làm người thay thế mình.
Trình thuật hôm nay tường
thuật ơn gọi của Elishah. Theo lời của Đức Chúa, ngôn sứ Elijah chọn Elishah và
huấn luyện ông thành người tiếp tục công việc ngôn sứ. Mười hai cặp bò chứng tỏ
Elishah thuộc gia đình rất giàu có; vì gia đình giầu chỉ có một hay hai con.
Khi ngôn sứ Elijah ném tấm áo choàng của mình lên người ông Elishah, ông
Elishah hiểu ngay cử chỉ này. Nó tương đương với lễ nghi mặc áo và vào nhà tập
của các dòng tu ngày nay. Lời yêu cầu của ông Elishah bình thường, vì ông
Elishah phải từ giã cha mẹ. Câu trả lời của Elijah hơi khó hiểu; nhưng có lẽ muốn
nói “Tôi không ngăn cản anh làm chuyện đó!”
1.2/ Thái độ dứt khoát
của Elishah:
Hành động của Elishah
là một hành động can đảm. Ông “bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu
thịt đãi người nhà.” Việc làm này chứng tỏ ông sẵn sàng chấm dứt nghề nghiệp của
mình để lên đường theo ngôn sứ Elijah trong sứ vụ mới. Tiệc đãi người nhà chứng
tỏ ơn gọi ngôn sứ có tính công cộng: người nhà biết quyết định theo Chúa làm
ngôn sứ của Elishah.
Chúng ta có thể học tấm
gương anh hùng của Elishah. Một khi đã quyết định theo Chúa, chúng ta phải mạnh
dạn khước từ tất cả: cha mẹ, sự nghiệp, tài sản… Nếu không dứt khoát, chúng ta
sẽ bị cám dỗ để trở về hay thái độ “chân trong, chân ngoài” rất khó để trung
thành theo Chúa đến cùng.
2/ Phúc Âm: “Có” thì phải nói “có,” “không” thì phải nói “không.”
2.1/ Đừng thề thốt chi
cả: “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời
thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả.”
Trước tiên, chúng ta cần
nhớ đây là những lời dạy lý tưởng trong chương 5 của Tin Mừng Matthew để trở
thành môn đệ của Chúa. Lề Luật chỉ là những điều kiện tối thiểu để ngăn cản con
người đừng phạm tội; nhưng trở thành môn đệ của Đức Kitô đòi con người phải tiến
xa hơn là việc đơn giản giữ các luật lệ. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu
dạy dỗ các môn đệ về việc phải luôn trung tín trong lời nói và việc làm. Để hiểu
những lời này, chúng ta cần phân biệt ít nhất 2 lý do tại sao con người dùng
tên Chúa để thề:
(1) Thề một cách không
suy nghĩ: Có những người quen kêu tên Chúa, Đức Mẹ, và các thánh, cách vô cớ như
“Giêsu Maria Giuse.” Họ kêu mà chẳng nghĩ gì đến các ngài cả. Đây là tội phạm đến
điều răn thứ hai, vì Danh Chúa là danh cực trọng. Người Do-thái không dám gọi
đích danh Thiên Chúa, mà chỉ dám lướt qua (Yahweh) hay gọi một chữ khác. Có những
người quá quen lấy danh Chúa mà thề, mặc dù sự việc chẳng có gì quan trọng hay
chẳng ai bắt phải thề thốt chi cả.
(2) Thề cách có tính
toán: Có những người thề nhưng lại tránh dùng đích danh Chúa, vì họ biết Lề Luật
buộc họ phải thi hành khi lấy danh Chúa thề; nên khi họ thề, họ chỉ trời, chỉ đất,
chỉ Đền Thờ, chỉ lên đầu như Chúa Giêsu liệt kê hôm nay, để khỏi phải giữ lời
thề. Người ngày nay cho nếu hai ngón tay trỏ và giữa ngoắc lên nhau trong khi
thề, lời thề đó không có giá trị! Họ quên đi Chúa ở khắp mọi nơi và thấu hiểu mọi
ý nghĩ trong lòng họ; chẳng thể nào họ có thể chỉ bất cứ gì để thề mà không phải
giữ, vì mọi sự trong trời đất này đều thuộc về Thiên Chúa.
Người tín hữu có được
thề trong các tòa án? Trước tiên, chúng ta cần hiểu nếu sống trong một thế giới
hay cộng đồng tốt lành, người tín hữu không cần phải thề thốt chi cả. Như những
người Essenes và Quakers, họ sống trong cộng đồng hay làng xóm gần gũi nhau,
nên họ tin tưởng nhau mà không cần phải thề thốt. Nhưng vì người tín hữu sống
chung với thế giới đầy những gian tà, nên họ phải theo những thủ tục của tòa án
để bảo vệ quyền lợi của hai bên. Hơn nữa, lời thề trong tòa án nhân danh hiến
pháp quốc gia chứ không nhân danh Thiên Chúa.
2.2/ “Có” thì phải nói
“có,” “không” thì phải nói “không.”
Người môn đệ của Đức
Kitô phải luôn luôn biết nói, sống và làm chứng cho sự thật. Nếu một người luôn
trung tín trong mọi việc, những gì người ấy nói ra đủ cho người khác tin tưởng
mà không cần phải thề thốt chi cả; nhưng nếu một người bất trung, bao nhiêu lời
thề hứa của họ cũng chẳng có giá trị chi cả. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh cho các
môn đệ: họ cần biết tập luyện để có nhân đức trung thành, hơn là những lời hứa
hẹn suông ngoài miệng.
Một điều người tín hữu
hay khinh thường là tật nói xấu hay nói hành làm mất danh thơm của người khác.
Đây là một tội không nhỏ và là thói quen xấu phải chừa ngay. Chúng ta không bao
giờ ước lượng được những thiệt hại chúng ta gây ra cho tha nhân, nhiều khi tiêu
diệt cả cuộc đời của họ. Thường thường, những người hay nói hành hay thêm thắt
nhiều điều cho thêm phần hấp dẫn mà không để ý đến những thiệt hại đổ trên tha
nhân. Chúa Giêsu cảnh cáo: “Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Chúng ta phải cẩn thận
suy nghĩ trước khi hứa hẹn với Thiên Chúa hay với tha nhân điều gì. Nếu đã hứa,
phải trung thành theo đến cùng.
– Chúng ta là những
môn đệ của Đức Kitô, chúng ta phải tập luyện làm sao để luôn biết nói, sống, và
làm chứng cho sự thật. Nếu chúng ta luôn làm như thế, thề thốt là điều dư thừa.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
13/06/20 – THỨ BẢY TUẦN 10 TN
Th. An-tôn Pa-đô-va, linh mục, tiến sĩ HT
Mt 5,33-37
CÓ NÓI CÓ, KHÔNG NÓI KHÔNG
“Đừng thề chi cả… Nhưng hễ có thì phải nói có, không thì phải
nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỉ.” (Mt 5,34.37)
Suy niệm: Trong cuộc sống thường ngày, lời nói là phương tiện
giao tiếp, lời nói là nhịp cầu cảm thông giữa các cá nhân với nhau, là khế ước
giao dịch đời sống xã hội. Lời nói để diễn tả ý tưởng cho nhau hiểu nhau, nên tự
bản chất, lời nói phải mang tính trung thực. Nhưng đáng tiếc thay, trong thực tế,
sự trung thực hầu như bị chà đạp. Con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng
đổi dạ. Xã hội hôm nay có nhiều thứ khủng hoảng, trong đó có khủng hoảng lòng
trung thực: hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị
phản bội, ngay cả người Ki-tô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ với lối sống phô trương
quảng cáo mà không hay biết… Hãy nhìn ngắm Đức Ki-tô: Ngài chính là Đường, là Sự
Thật để học sống trung thực như Chúa dạy: “Có nói có, không nói không, thêm thắt
là do ác quỉ.”
Mời Bạn: Bạn hãy kiểm điểm lại sự trung thực trong lời nói của
bạn. Bạn hãy can đảm sống trung thực theo giáo huấn của Chúa Giê-su để đem lại
bình an cho gia đình và cho thế giới.
Chia sẻ: Bạn có những trải nghiệm gì về những hậu quả của
thói xấu gian dối này trong đời sống gia đình, trong đời sống xã hội trong đời
sống đạo?
Sống Lời Chúa: Tránh lời nói làm tổn thương người anh em, thói ngồi
lê đôi mách, nói xấu, khoe khoang.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết can đảm để sống
bác ái và trung thực trong lời nói, để chúng con trở thành con cái của Chúa là
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Có thì
nói có
Suy niệm:
Việc thề vẫn có
trong các nền văn hóa nhân loại.
Người ta thề để người
khác tin lời của mình hơn,
vì nếu không giữ lời
thề sẽ bị các thần minh nguyền rủa.
Người Do thái từ xa
xưa cũng đã có thói quen thề.
Thề là nại đến
Thiên Chúa để làm chứng cho điều mình nói.
Hêrôđê Antipas đã thề
hứa với cô bé con bà Hêrôđia (Mt 14, 7).
Lời thề của một người
lãnh đạo như ông đã khiến ông bị kẹt.
Phêrô đã chối Thầy kèm
theo những lời thề thốt (Mt 26, 72. 74),
vì ông sợ người ta
không tin lời ông nói.
Đức Giêsu biết chuyện
Luật Môsê cấm bội thề,
và phải giữ trọn điều
đã hứa với Đức Chúa (c. 33).
Nhưng quan điểm của
Ngài trong Bài Giảng trên núi là không thề gì cả.
Không cần thề để xin Đức
Chúa làm chứng cho lời ta nói,
vì mọi lời ta nói,
Ngài đều biết và làm chứng.
Vì những sơ xuất trong
việc giữ lời thề
có thể làm Thánh Danh
Đức Chúa bị xúc phạm, nên khi thề,
người Do thái thường
thay Danh Chúa bằng một vật gì đó (Mt 23, 16-22).
Tương tự như ở Việt
Nam, họ dùng trời hay đất để thề.
Họ cũng thề nhân danh
Đền thờ Giêrusalem hay chính đầu của mình
Đối với Đức Giêsu, điều
đó cũng chẳng làm nhẹ tội chút nào,
vì trời, đất, Đền Thờ,
hay đầu của chúng ta cũng đều thuộc về Chúa.
Trời quan trọng vì là
ngai của Thiên Chúa.
Đất quan trọng vì là bệ
dưới chân Người.
Đền thờ quan trọng vì
là thành của Đức Vua cao cả.
Đầu cũng chẳng thuộc
quyền con người,
vì màu trắng hay đen của
sợi tóc nằm ngoài tầm chi phối của họ (cc. 34-36).
Khi kêu gọi chúng ta đừng
thề chi cả,
Đức Giêsu muốn lời nói
của ta tự nó phải mang sức mạnh của sự thật,
tự nó chắc chắn, đáng
được mọi người tin cậy.
Thánh Giacôbê đã nhắc
lại giáo huấn của Đức Giêsu khi viết:
“Hễ có thì phải nói
có, không thì phải nói không,
như thế anh em sẽ
không bị xét xử” (Gc 5, 12).
Mọi thêm thắt đều do
ác thần (c. 37).
Giáo hội sơ khai đã giữ
lệnh truyền này một cách nghiêm túc.
Nhưng từ đầu thời
Trung cổ, Giáo hội đã dùng các hình thức tuyên thệ.
Giáo sư trong các chủng
viện vào đầu năm học, phải tuyên thệ
trung thành giảng dạy
giáo lý chính thống của Giáo hội.
Các lời khấn của tu sĩ
cũng là những lời thề hứa sống như Giêsu.
Dù sao chúng ta cũng
là những con người mong manh, hay thay đổi.
Thề, hứa, khấn, tuyên
thệ trọn đời, đều là những việc vượt sức con người.
Trung tín với điều
mình đoan nguyện là bắt đầu đi vào vĩnh cửu.
Chỉ xin sự trung tín của
Thiên Chúa nâng đỡ sự trung tín của chúng ta.
Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa, đây lời
tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt
trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh
thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn
vui.
Xin cho tôi sức mạnh
hiên ngang
để đem tình yêu gánh
vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh
ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh
rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục
trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo
dai
để nâng tâm hồn vươn
lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh
tràn trề
để âu yếm dâng mình
theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh
Hoan dịch)
Lm. Ant. Nguyễn Cao
Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG SÁU
Hơn Hết Mọi Loài Thụ
Tạo
Chúng ta vừa nới mô tả
khuôn mặt độc đáo của con người trong tư cách là kẻ có thể hiểu biết và suy lý
để đạt đến sự thật trong tận bản chất mọi sự. Con người có thể tự do chọn lựa
làm điều đúng và tốt. Như vậy, con người được mời gọi nhận định những nhu cầu
đích thực của đồng loại mình và thiết lập công lý. Và, thông thường, con người
được mời gọi đảm nhận đời sống hôn nhân, trong đó người này tự nguyện trao hiến
chính mình cho người kia và xây dựng một cộng đồng hiệp thông nhân vị. Chính mối
hiệp nhất này là nền móng của gia đình và xã hội.
Nhưng tất cả không chỉ
có vậy. con người còn được mời gọi đi vào trong một giao ước với Thiên Chúa. Quả
thật, con người không chỉ là một tạo vật của Đấng Tạo Hóa mà còn là hình ảnh của
Thiên Chúa. Mối quan hệ đặc biệt này giữa Thiên Chúa và con người làm cho việc
thiết lập giao ước trở thành có thể. Chúng ta nhận ra giao ước này trong trình
thuật về cuộc sáng tạo ở ba chương đầu Sách Sáng Thế. Chính sáng kiến đi trước
của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, lập nên giao ước này. Và giao ước này vẫn không
thay đổi xuyên qua lịch sử cứu độ cho đến khi Thiên Chúa thiết lập giao ước
vĩnh cửu với con người trong Đức Giêsu Kitô.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 13/6
Thánh Antôn Pađôva,
linh mục tiến sĩ Hộ Thánh
1V 19, 19-2; Mt 5,
33-37.
Lời Suy Niệm: “Nhưng hễ
“có” thì nói “có”, “không” thì nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”
Trong đời sống xã hội, con người sống với nhau thiếu niềm tin vào nhau, Nên khi
một người muốn nói một điều gì đó, mà người đối diện chưa rõ thì thường đặt lời
thề, để gây thêm niềm tin cho họ. Do đó trong mọi lời thề đều có sự che đậy một
sự thật nào đó có lợi cho mình, hay làm gia tăng giá trị lời nói hay câu chuyện
của mình kể. Điều này ít nhiều đều có sự lừa dối hay che đậy sự gian ác trong
đó. Như trong việc xử án Chúa Giêsu; Vị thượng tế nói với Người: “Nhân danh
Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải
là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?”
Lạy Chúa Giêsu. Lời của
Chúa khi trả lời với quan tổng trấn Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian
nhằm mục đích này: Làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng
tôi” (Ga 18,37). Xin cho chúng con luôn ý thức trách nhiệm trong lời nói và việc
làm của mình đối với những người chung quang chúng con, cũng như trước mặt
Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 13-06: Thánh
ANTÔN PADUA
Linh mục và tiến sĩ
Hội Thánh (1195 – 1231)
Lòng tôn sùng rộng rãi
và mạnh mẽ đối với thánh Antôn Padua thật lạ lùng so với những sự kiện đời
Ngài. Ngài sinh năm 1195 có lẽ gần Lisbonne, với tên gọi là Fernandô. Cha Ngài
là hiệp sĩ và viên chức tại triều đình hoàng đế Alphongsô thứ II, vua nước Bồ
Đào Nha. Fernadô được gởi đi học trường nhà thờ chánh tòa tại Lisbonne. Nhưng
vào tuổi 15, Ngài gia nhập dòng thánh Augustinô.
Sau hai năm tại nhà
dòng, Ngài xin được chuyển về Coimbra vì bạn bè đến thăm quá đông. Tu viện
Coimbra có một trường dạy Thánh kinh rất danh tiếng. Tám năm trời Fernadô nỗ lực
học hỏi và đã trở thành học giả sâu sắc về thần học và kinh thánh.
1.
Biến cố thay đổi
Ngày kia với nhiệm vụ
tiếp khách, Ngài săn sóc cho 5 tu sĩ Phanxicô đang trên đường tới Morocco. Về
sau họ bị tàn sát dã man và thi hài họ được đưa về Coimbra để tổ chức quốc
táng. Fernadô mong ước hiến đời mình cho cánh đồng truyền giáo xa xăm.
Nôn nóng với ước vọng
mới, Fernadô phải tiến một bước bất thường đầy đau khổ là rời bỏ dòng Augustinô
để nhập dòng Phanxicô. Nhà dòng đặt tên Ngài là Antôn và chấp thuận cho Ngài tới
Moroccô. Nhưng vinh dự tử đạo không được dành riêng cho Ngài. Ngài ngã bệnh và
phải trở về nhà, Trên đường về, con tàu bị bão thổi bạt tới Messina ở Sicyly.
Thế là An tôn nhập đoàn với anh em Phanxicô nước Ý. Có lẽ thánh nhân có mặt
trong cuộc họp ở Assisi. Năm 1221, và gặp thánh Phanxicô ở đây. Ít lâu sau Ngài
được gởi tới viện tế bần ở Forli gần Emilia để làm những công việc hèn hạ.
2.
Biến cố hai.
Dầu vậy một biến cố bất
ngờ khiến người ta khám phá ra khả năng đặc biệt của thánh nhân. Trong một lễ
nghi phong chức ở Forli nhà giảng thuyết đặc biệt vắng mặt. Không ai dám thay
thế. Cha giám tỉnh truyền cho An tôn lên tòa giảng. Antôn làm cho khán giả kinh
ngạc. Người ta thấy ngay trước được rằng: Ngài là một nhà giảng thuyết bậc nhất.
Hậu quả tức thời không Ngài được chỉ định làm nhà giảng thuyết trong cả Italia.
Đây là một thời mà Giáo hội cần đến những nhà giảng thuyết hơn bao giờ hết để
chống lại các lạc thuyết.
Kể từ đó nhà tế bần
Forli không còn gặp lại Antôn nữa. Ngài du hành không ngừng bước từ miền nam nước
Ý tới miên Bắc nước Pháp, hiến trọn thời gian và năng cực cho việc giảng dạy. Sự
đáp ứng của dân chúng đã khích lệ Ngài nhiều, các nhà thờ không đủ chỗ cho người
đến nghe. Người ta phải làm bục cho Ngài đứng ngòai cửa. Nhưng rồi đường phố và
quảng trường đã lại chật hẹp quá và người ta lại phải mang bục ra khỏi thành phố
tới những cánh đồng hay sườn đồi, nơi có thể dung nạp những 20, 30, 40 ngàn người
đến nghe Ngài. Nghe tin Ngài đến đâu, thì nơi đó tiệm buôn đóng cửa, chợ hoãn
phiên họp, tòa ngưng xử án. Suốt đêm dân chúng từ khắp hướng đốt đuốc tụ về. Dường
như bất cứ ai một lần chịu ảnh hưởng của thánh Antôn thì không có gì chống lại
được sự lôi cuốn bởi các bài giảng của Ngài.
3.
Chủ trương.
Ngài thường mạnh mẽ chống
lại sự yếu đuối của hàng tu sĩ qua những tội nổi bật trong xã hội đường thời
như: tính tham lam, nếp sống xa hoa, sự độc đoán của họ. Đây là một giai thoại
điển hình: khi Ngài được mời để giảng ở hội đồng họp tại Bourges, dưới sự chủ tọa
của tổng giám mục Simon de Sully. Với những lời mở đầu “Tibi loquor cornute”
(Tôi xin thưa cùng Ngài đang mang mũ giám mục trên đầu), thánh nhân tố giác vị
giám mục mới Ngài tới, làm mọi thính giả phải kinh ngạc.
Cũng tại Bourges, nên
ghi lại một phép lạ lừng danh về một con lừa thờ lạy bí tích cực trọng. Với một
người Do thái không tin phép Bí tích Mình Thánh.
Thánh nhân nói: – Nếu
con lừa ông cưỡi mà quỳ xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình bánh thì ông có
tin không ?
Người Do thái nhận lời
thách thức. Hai ngày ông ta không cho lừa ăn rồi dẫn tới chỗ họp chợ, giữa một
bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua, con vật
quên đói quay sang thờ lạy Chúa.
Mùa chay cuối cùng
thánh Antôn giảng ở Padua. Và người ta còn nhớ mãi về sau nhiệt tình mà thánh
nhân đã khơi dậy. Dân địa phương đã không thể nào tìm ra thức ăn lẫn chỗ ở cho
đoàn người đông đảo kéo tới. Nhưng sau mùa chay này, thánh nhân đã kiệt sức.
Ngài xin các bạn đồng hành đưa về nhà thờ Đức Maria ở Padua để khỏi làm phiền
cho chủ nhà trọ. Không nói được nữa. Ngài dừng chân ở nhà dòng Đức Mẹ người
nghèo ở Arcella.
Tại đây, người ta đặt
Ngài ngồi dậy và giúp Ngài thở. Ngài bắt đầu hát thánh thi Tạ ơn và qua đời giữa
tiếng ca ngày 13 tháng 6 năm 1231.
(daminhvn.net)
13 Tháng Sáu
Hãy Mai Táng Chính Mình
Một vị linh mục nọ
đã có một sáng kiến rất ngộ nghĩnh để đánh động giáo dân trong giáo xứ. Một buổi
sáng Chúa Nhật nọ, dân chúng bỗng nghe một lời rao báo như sau: “Một nhân vật
trong giáo xứ vừa qua đời. Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng thứ Tư tới”. Nghe lời
loan báo ấy, cả giáo xứ nhốn nháo lên. Người nào cũng muốn biết con người quan
trọng ấy là ai.
Ðúng ngày tang lễ,
mọi người trong giáo xứ nườm nượp kéo nhau đến nhà thờ. Từ cung thánh cho đến
cuối nhà thờ, không còn một chỗ trống. Người ta đến không phải để cầu nguyện
cho người quá cố cho bằng để nhìn mặt lần cuối cùng con người mà ai cũng muốn biết.
Sau thánh lễ, vị
linh mục đến mở nắp quan tài để cho mọi người đến chào từ biệt lần cuối cùng
người quá cố. Ai ai cũng sắp hàng để nhìn cho kỳ được người chết. Nhưng ai cũng
đều ngạc nhiên, bởi vì thay cho thi hài của người chết, mỗi người chỉ nhìn thấy
trong quan tài một tấm gương và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài, mỗi người
chỉ nhìn thấy dung nhan của mình mà thôi.
Chờ cho mọi người
làm xong nghi thức từ biệt ấy, vị linh mục mới giải thích: “Như anh chị em đã
có thể nhận thấy, tôi đã cho đặt vào trong quan tài một tấm kính. Con người mà
anh chị em nhìn thấy trong quan tài không ai khác hơn là chính mỗi người trong
chúng ta. Vâng, đúng thế, thưa anh chị em, mỗi người chúng ta cần phải mai táng
chính mình… Thánh lễ vừa rồi đã được cử hành cho tất cả chúng ta”.
Bắt đầu sứ mệnh công
khai của Ngài bằng cử chỉ dìm mình xuống dòng nước sông Giodan, Chúa Giêsu muốn
loan báo cho mọi người thấy rằng Ngài đã vâng phục Ý Chúa Cha để đi vào Cái Chết
và nhờ đó cứu rỗi nhân loại. Một cách nào đó, mầu nhiệm của Sự Chết và Sống lại
đã được diễn tả qua việc Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước.
Thiết lập Phép Rửa như
cửa ngõ để đưa chúng ta vào cuộc sống trường sinh, Chúa Giêsu cung muốn chúng
ta tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài. Dìm mình trong nước của
Phép Rửa, chúng ta khởi đầu cuộc sống Kitô hữu bằng chính cái chết. Sống đối với
chung ta có nghĩa là chết: chết cho những khuynh hướng xấu, chết cho những đam
mê xấu, chết cho tội lỗi, chết cho ích kỷ, chết cho hận thù. Cuộc sống do đó đối
với chúng ta cũng là một cuộc mai táng liên lỉ. Cũng như hạt lúa rơi xuống đất
phải thối đi, cũng thế chúng ta phải chấp nhận chôn vùi con người cũ tội lỗi của
chúng ta.
(Lẽ Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét