19/06/2020
Thứ Sáu tuần 11
thường niên
THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
năm A.
Lễ trọng.
Ngày thế giới xin ơn
thánh hoá các linh mục.
BÀI ĐỌC I: Đnl 7, 6-11
“Chúa đã yêu thương và tuyển chọn các ngươi”.
Trích sách Đệ Nhị
Luật.
Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Các ngươi là một dân hiến thánh cho Chúa
là Thiên Chúa các ngươi. Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã chọn các ngươi để làm
dân riêng của Người giữa mọi dân tộc trên mặt đất. Không phải vì các ngươi đông
số hơn mọi dân tộc khác mà Thiên Chúa gắn bó với các ngươi và tuyển chọn các
ngươi, vì thực ra, các ngươi ít số hơn mọi dân tộc khác; nhưng vì Chúa đã yêu
thương các ngươi và giữ lời đã thề hứa với tổ phụ các ngươi rằng: Người dùng
tay mạnh mẽ mà dẫn đưa và cứu chuộc các ngươi khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pharaon
vua Ai-cập. Các ngươi sẽ biết rằng Chúa là Thiên Chúa các ngươi, chính Người là
Thiên Chúa hùng mạnh, trung thành giữ lời giao ước và lòng thương xót với những
kẻ yêu mến Người, và những kẻ tuân giữ lề luật Người cho đến muôn thế hệ. Người
báo oán ngay những kẻ thù ghét Người, bằng cách tiêu diệt chúng không trì hoãn,
trả báo tức khắc như chúng đã đáng tội. Vì vậy các ngươi hãy tuân giữ điều răn,
nghi lễ và lề luật mà ta truyền cho các ngươi hôm nay, để các ngươi thi
hành”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 102, 1-2.
3-4. 6-7. 8 và 10
Đáp:Lòng yêu thương
của Chúa vẫn tồn tại, từ thuở này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người (c.
17).
Xướng:
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa! Toàn thể con người
tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng
Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Đáp.
2) Người đã thứ tha cho (ngươi) mọi điều sai lỗi, và chữa
ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ
vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Đáp.
3) Chúa thi hành những việc công minh, và trả lại quyền lợi
cho những người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối,
tỏ công cuộc Người cho con cái Israel. - Đáp.
4) Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết
sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc
tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Ga 4,
7-16
“Thiên Chúa thương yêu chúng ta trước”.
Trích thư thứ nhất
của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên
Chúa mà ra. Vì lẽ hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa, và nhận biết
Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa
là Tình Yêu.
Điều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta: là Thiên Chúa
chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được
sống. Tình yêu ấy là thế này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng
chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh,
đền thay vì tội lỗi chúng ta.
Các con thân mến, nếu Thiên Chúa thương yêu chúng ta dường ấy, thì chúng
ta cũng phải thương yêu nhau. Chẳng ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chúng ta
thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi
chúng ta đã được tuyệt hảo. Do điều này mà chúng ta biết chúng ta ở trong Người
và Người ở trong chúng ta: là Người đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Và chúng ta
đã thấy và chứng nhận rằng Chúa Cha đã sai Con mình làm Đấng Cứu Thế.
Ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy,
và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin vào tình
yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa là Tình Yêu, và ai ở trong tình
yêu, thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người ấy.
Đó là lời Chúa.
Tin mừng: Mt 11, 25-30
"Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng".
Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng nói rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con
xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết
những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn
như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra
Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mạc khải cho.
“Tất cả hãy đến cùng Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ
bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền
lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì
ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”. Đó là lời Chúa.
Suy niệm : Lòng mến của Thiên Chúa muôn đời tín
nghĩa
Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Yêsu mà cả
trong ba bài đọc không có một lời nào trực tiếp nói đến Trái Tim Người! Ðiều đó
không làm chúng ta buồn, vì tuy không có lời nhưng lại đầy ý; không có danh từ
nhưng nội dung lại chan chứa. Và điều đó cho chúng ta hiểu lễ Thánh Tâm tuy rất
mới, vì chỉ buộc trong cả Giáo hội từ năm 1856 và gần 200 năm sau những cuộc thị
kiến và vận động của thánh Magarita Maria Alacoque, nhưng lại có nền tảng xa
xưa và xa xưa đến nỗi thoạt đầu Giáo hội không thấy cần phải lập ra lễ này vì ý
của nó vẫn được Giáo hội cử hành từ buổi đầu. Do đó việc lập ra lễ Thánh Tâm
Chúa Yêsu chỉ có ý làm nổi bật lên một mầu nhiệm hằng tiềm ẩn trong Phụng vụ.
Và chúng ta phải suy niệm về mầu nhiệm ấy trong ngày lễ hôm nay.
Ðó là mầu nhiệm về lòng Thiên
Chúa yêu thương loài người, biểu lộ nơi lòng Chúa Yêsu yêu thương chúng ta, để
chúng ta cũng có một trái tim giống như Người, tức là chia sẻ lòng Người yêu
thương hết thảy.
A. Lòng Chúa Yêu Thương Loài Người
Tác giả sách Thứ luật là người
thứ nhất có thể giúp đỡ chúng ta suy nghĩ về lòng Chúa yêu thương nhân loại nói
chung và cá nhân nói riêng. Ông thuộc thời Cựu Ước. Nhưng tư tưởng của ông rất
mới mẻ. Nhiều tác giả trước ông đã nói đến lòng Chúa thương dân. Ông đào sâu những
tư tưởng ấy và viết nên đoạn văn chúng ta đọc hôm nay một cách sâu sắc.
Ta nên nhớ đây là thời gian sau
Lưu đày. Lối nhìn của tác giả đã chịu ảnh hưởng của thời cuộc. Trước kia dân
Dothái nhiều khi cho mình là lớn. Vào thời hoàng đế Salomon chẳng hạn, nữ hoàng
phương Nam nghe tiếng đã phải đến thăm. Thành ra người ta tự phụ, coi mình là
dân đông đảo. Nhưng sau Lưu đày, ai còn có những tư tưởng như vậy? Assyria đã
đè bẹp dân cứng đầu cứng cổ như hòn đá đè trên trái trứng. Tuy nhiên chính lúc
nhục nhã ấy, tác giả sách Thứ luật mới thấy tình Chúa đối với dân thật là thắm
thiết.
Ông dùng những từ ngữ gợi lên những
tương giao phu phụ mà Kinh Thánh vẫn dùng để nói về tương quan giữa Chúa với
Dân Người. Ông viết: Người đã đem lòng quyến luyến các ngươi và đã chọn các
ngươi... Người yêu mến các ngươi và giữ lời thề... Người trung tín, tín nghĩa với
các ngươi... Những từ ngữ đó, đọc trong tương quan phu phụ, sẽ ý nghĩa biết bao
và làm chứng Thiên Chúa là người hôn phu lý tưởng, tha thiết gắn bó với người
mình thương.
Và như vậy, không phải Dothái là
dân tộc to lớn. Ngược lại là dân ít người hơn mọi dân, là dân không ai để ý đến,
giống như Ðavít khi còn là đứa trẻ nhỏ nhất, đang phải chăn cừu, không đáng cha
sai người đi gọi về khi trong nhà có khách quý là Samuel đến xức dầu cho người
Chúa chọn. Nhưng chính đứa bé tóc hoe đó mới là kẻ mà Chúa bảo Samuel: Hãy đứng
lên xức dầu cho nó. Chúng ta gợi lại câu chuyện này là vì khi nói Chúa "chọn"
Israel, tác giả sách Thứ luật hôm nay dùng chính từ ngữ trong câu chuyện Ðavít.
Ông muốn nói lên lòng bao dung quảng đại chiếu cố của Thiên Chúa đối với một
dân thật là bé nhỏ. Thế mà Người đã nâng lên bậc công nương và trở nên sản nghiệp
hay "kho tàng" của Người, như viết trong giao ước: các ngươi sẽ là
dân sở hữu của Ta.
Sách Xuất hành (20,5-6) cũng có
đoạn nói đến giao ước giữa Chúa và dân với những lời lẽ như sau: Ta là Thiên
Chúa hay ghen tương, phạt tội trên con cháu đến ba bốn đời đối với những ai
ghét Ta, và giữ nghĩa dư ngàn với những ai yêu mến Ta và giữ các lệnh truyền của
Ta.
Còn ở đây trong đoạn văn Thứ luật
này, sau khi nói Thiên Chúa đã gắn bó với dân bằng giao ước, mặc dầu nhỏ bé,
tác giả viết: Ta là Thần trung tín, tín nghĩa với những ai yêu mến cho đến ngàn
đời, Ðấng oán trả cho mỗi ai thù ghét Người nơi chính thân mình nó.
Thoạt nghe chúng ta không thấy
khác bao nhiêu. Nhưng đọc kỹ lại, chúng ta sẽ thấy tác giả sách Thứ luật như đã
biến đổi Dung Nhan của Thiên Chúa trong sách Xuất hành. Trước kia chúng ta thấy
ngay Người là Ðấng hay ghen tuông phạt tội trên con cháu đến ba bốn đời; còn
nơi sách Thứ luật trước hết Người là Thần trung tín, tín nghĩa đến ngàn đời và
chỉ phạt tội chính người lỗi phạm.
Như vậy bài sách Thứ luật đã đưa
chúng ta gần đến Tân Ước. Và nó cho chúng ta thấy lòng Chúa chan chứa tình
thương. Người quyến luyến chiếu cố đến thân phận yếu hèn của chúng ta. Nâng
chúng ta lên bậc nghĩa thiết. Trung tín thi thố tình thương cho đến ngàn đời và
bất đắc dĩ mới phải phạt tội những ai thù ghét Người. Lời khuyên của sách Thứ
luật dĩ nhiên là chúng ta hãy giữ lệnh truyền của Người để lưu lại mãi trong
tình Người thương mến. Nhưng điều mà tác giả chưa thấy được là Người vẫn thương
tội nhân nơi lòng Chúa Yêsu.
B. Tình Thương Biểu Lộ Nơi Lòng
Chúa Yêsu
Ðiều này theo lời Chúa Yêsu nói
trong bài Tin Mừng hôm nay, hạng khôn ngoan thông thái không hiểu được, vì Chúa
Cha chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn. Thời Tân Ước cũng như Cựu Ước, tình
thương của Chúa vẫn tìm đối tượng nơi những kẻ bé nhỏ. Hơn nữa, như Matthêô viết
hôm nay, đối tượng ưu việt lại là những người lao đao vác nặng. Chắc chắn,
Matthêô không nghĩ nguyên đến những người lam lũ vất vả về phần xác. Chữ
"vác nặng" trong Kinh Thánh thường gợi đến gánh nặng của Luật pháp
Dothái, của những sức mạnh gò bó con người. Ðó là hạng người được Chúa ưu đãi đến
nỗi Người đã sai Con Một của Người xuống thế, để hôm nay tiếng người Con gióng
lên: hết thảy hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức, tức là được cảm thấy
nhẹ nhàng, tự do.
Người làm thế nào? Matthêô đã viết:
Người mạc khải cho họ mọi sự đã được Chúa Cha trao phó cho Người, để họ biết
Cha như Con biết Cha. Những lời tuy trừu tượng nhưng rất thâm sâu. Chính chữ mạc
khải đã có nghĩa là vén màn, vén lòng mình ra cho người ta có thể thấy. Phải,
ai đến với Chúa Yêsu sẽ được Người mạc khải cho, tức là vén lòng, vén trái tim
Người ra cho người ấy được xem. Và xem gì? Người nói: xem tất cả mọi sự mà Chúa
Cha đã trao phó cho Người. Và thử hỏi có gì mà Chúa Cha đã không trao phó cho
Người? Với lại chúng ta đừng nghĩ ngay đến những sự tầm thường của thế giới
chúng ta. Những sự mà Chúa Cha đã trao phó cho Chúa Yêsu để Người vén lòng cho
chúng ta được thấy và được nhận lãnh, trước hết phải là những sự mà Phaolô nói:
mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng trí loài người chưa bao giờ mường
tượng được. Ðó chính là Trái tim của Chúa Cha, tình yêu của Người, sự sống và hạnh
phúc vô biên của Thượng Ðế, là chính bản tính của Thiên Chúa. Ðó là những sự mà
hạng khôn ngoan thông thái hết sức tìm mà chẳng bao giờ thấy. Và chỉ những ai
bé mọn mới được Cha trên trời mạc khải cho, để họ "biết" Cha, như Con
biết Cha, nghĩa là để họ mật thiết, thân cận, thắm thiết với Chúa Cha như Chúa
Con.
Chúng ta không thể nói thêm, vì
ai có thể nói được tình yêu mà chỉ một mình cảm thấy? Chúng ta có kinh nghiệm về
tình yêu loài người mà có viết bao nhiêu cuốn tiểu thuyết cũng hãy còn khách
quan, nhạt nhẽo. Huống nữa là khi các thánh viết về tình yêu Chúa! Chúng ta chỉ
biết rằng: Lời Chúa chân thật. Hôm nay chính Người nói: ai đến với Người, sẽ được
Người vén lòng Người lên để thấy tất cả tình yêu của Chúa Cha đã trao phó cho
Người, hầu "biết" Chúa Cha tức là hiểu và hiệp thông thắm thiết với Ðấng
đã lựa chọn mình vì mình bé nhỏ.
Những lời Phúc Âm ấy thật hợp để
suy nghĩ trong ngày lễ Thánh Tầm hôm nay. Và suy nghĩ phải dẫn đến hành động,
khi đó những lời thư Yoan sẽ rất quý hóa.
C. Chúng Ta Hãy Yêu Thương Anh Em
Yoan là nhà thần học thâm thúy.
Nghe đọc bài thư của ông hôm nay, không dễ hiểu tí nào. Phải đọc đi đọc lại, lượm
ra những tư tưởng chủ yếu rồi xếp đặt lại, khi ấy ta sẽ thấy sung sướng.
Tư tưởng của ông thế này: Nếu
Thiên Chúa yêu thương ta dường ấy, thì ta cũng phải yêu mến nhau (c.11). Lời
khuyên có vẻ quen thuộc. Nhưng xét theo luận lý, dường như không chỉnh; vì nếu
Thiên Chúa yêu ta dường ấy, thì ta phải đáp trả chứ sao lại phải yêu mến nhau?
Ðặt vấn đề như vậy bó buộc ta phải căn vặn Yoan. Và ông sẽ khai triển cho ta lý
luận của ông cũng là thần học về tình yêu.
Thiên Chúa là lòng mến (c.8). Ta
biết được như vậy là vì Người đã yêu thương ta. Và không phải đã yêu thương ta
bất cứ thế nào. Nhưng Người đã biểu lộ tình thương đặc biệt trong việc sai Con
Một Người đến trong thế gian để ta được sống nhờ Ngài. Có thể nói Thiên Chúa đã
gửi cả tấm lòng của Người xuống cho ta nơi Con Một Người nhập thể cứu đời. Hơn
nữa phải nói mạnh hơn, Người đã gửi cả sự sống và hạnh phúc của Người xuống thế
gian nơi Ðức Yêsu Kitô là Ðấng đã được Người "trao phó mọi sự" như
Phúc Âm đã nói. Vì yêu thương ta, Thiên Chúa đã đến lưu lại nơi con người Ðức
Yêsu Kitô.
Nhưng chưa hết, nơi Ðức Yêsu
Kitô, Thiên Chúa còn yêu thương ta đến nỗi đã phó nộp mình vì ta để đền thay tội
lỗi ta (c.10). Như vậy, tình yêu Thiên Chúa đã biểu lộ nơi thân hình tử nạn thập
giá của Ðức Yêsu Kitô.
Rồi từ nơi cạnh sườn của Ðấng chịu
đóng đinh, Nước Thánh Thần đã chảy đến thanh tẩy mọi tâm hồn khiến tình mến của
Thiên Chúa đã chuyển đến chúng ta. Chính nhờ được Ðức Yêsu Kitô thông ban Thần
Khí của Người cho ta (c.13) mà lòng mến của Thiên Chúa đã nên trọn ở nơi ta
(c.12). Lòng mến ấy đã từ Ngôi Cha dàn sang Ngôi Con, dàn sang lòng Ðức Yêsu
Kitô, dàn đến chúng ta khi Thần khí Ðức Kitô tràn ngập lòng ta qua cái chết vì
yêu thương của Ngài.
Bây giờ mang lòng mến Chúa ở
trong mình, chúng ta được ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa lưu lại ở nơi chúng
ta. Chúng ta có thể "biết" Người theo nghĩa vừa hiểu vừa mật thiết kết
hợp với Người, khiến Ðấng Thiên Chúa mà người thông thái khôn ngoan không thấy
được, những kẻ bé mọn như chúng ta lại biết được vì Thiên Chúa đang lưu lại ở
nơi chúng ta. Người là tình mến. Người hằng yêu mến. Ở trong ta Người cũng
thương yêu. Yêu ai nữa bây giờ? Yêu tha nhân, yêu mọi người. Thế nên kẻ không
yêu mến anh em, tất không có Thiên Chúa ở nơi mình, và không biết Người (c.8).
Thành ra, nếu Thiên Chúa yêu thương ta dường ấy thì ta cũng phải yêu mến nhau.
Như vậy bài thư Yoan đã đưa tư
tưởng của hai bài Kinh Thánh khác trong thánh lễ hôm nay đến chỗ thực hành. Bài
sách Thứ luật cho chúng ta thấy lòng mến của Thiên Chúa muôn đời tín nghĩa. Bài
Tin Mừng biểu lộ lòng mến đó nơi Ðức Yêsu Kitô hầu thế gian thấy Thiên Chúa yêu
thương loài người lao đao vác nặng qua Trái Tim nồng nàn của Chúa Cứu Thế.
Thánh Yoan như trỏ cho chúng ta thấy lòng mến chan chứa của Thiên Chúa đang
trào ra từ Thánh Tâm Chúa Yêsu Tử nạn Phục Sinh, để chúng ta đón nhận lấy hầu
biết Thiên Chúa và biết yêu mến anh em.
Ngày lễ Thánh Tâm do đó là ngày
chạy đến với Chúa Yêsu để được nhiều tình mến hầu chỉ còn sống bằng yêu mến. Cứ
dấu này làm chứng ta biết Thiên Chúa là chúng ta yêu mến anh em. Vậy, nếu chúng
ta chưa yêu mến anh em đủ, thì này thánh lễ đưa chúng ta vào mầu nhiệm Thánh
giá, nơi chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã sai Con của
Người đến làm hy sinh đền thay vì tội lỗi chúng ta. Chúng ta sẽ nhận được thêm
tình mến nếu dự lễ sốt sắng. Và đã dự lễ sốt sắng thì chúng ta cũng phải ra về
với nhiều tình mến hơn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Năm A
Bài đọc: Deut 7:6-11; 1 Jn 4:7-16;
Mt 11:25-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình yêu Thiên Chúa được diễn tả tuyệt vời qua Đức Kitô.
Tình yêu có lẽ là một đề tài được
nói đến nhiều nhất trong cuộc sống con người. Điều này không lạ vì tình yêu là
động lực chi phối mọi hoạt động của con người. Nhưng khi phải định nghĩa tình
yêu là gì, thì mọi người đều lúng túng. Thi sĩ Xuân Diệu định nghĩa “yêu là chết
trong lòng một ít.” Định nghĩa này chắc chắn bị nhiều người bác bỏ, nhất là những
người đau đớn vì bị tình phụ. Văn sĩ Antoine de Saint-Exupéry định nghĩa “yêu
không phải là ngồi nhìn nhau, nhưng là cùng nhìn về một hướng.” Định nghĩa này
cũng không ổn, vì làm sao kiếm được người nhìn cùng một hướng như mình trong hết
mọi sự. Thánh Gioan trong Thư thứ nhất có lẽ cho một định nghĩa sâu sắc và tuyệt
vời nhất: “Thiên Chúa là tình yêu.” Tuy nhiên, định nghĩa này có tính cách thần
học và cần được diễn giảng cách rõ ràng hơn.
Các bài đọc trong ngày Lễ Thánh
Tâm giúp chúng ta hiểu tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua những biểu
lộ rất cụ thể trong lịch sử, và nhất là qua Đức Kitô. Trong bài đọc I, tác giả
Sách Thứ Luật nhấn mạnh đến sự kiện Thiên Chúa đã yêu và chọn lựa dân tộc
Israel làm dân riêng của Ngài trước khi họ biết và đáp trả lại. Ngài đã làm
giao ước với các tổ phụ để bảo vệ họ và Ngài đã trung thành với giao ước đó suốt
đời. Trong bài đọc II, thánh Gioan cũng nhấn mạnh đến sự kiện Thiên Chúa đã yêu
thương con người trước vì Ngài là tình yêu. Thiên Chúa yêu con người đến độ
Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để đền tội cho con người; hy sinh Người Con
Một là hy sinh chính Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu biết mọi con người đều phải
vất vả và gồng gánh nặng nề, nên Ngài kêu gọi tất cả hãy đến với Ngài để được
Ngài dạy dỗ và cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người.
1.1/ Thiên Chúa đã chọn anh em từ
giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người. Để hiểu những lời này, chúng ta cần phải trở về với Sách Sáng
Thế, khi Thiên Chúa chọn Abraham và làm giao ước với ông (Gen 17:5-10). Theo
giao ước này, Ngài sẽ cho ông một dòng dõi và sẽ ban Đất Hứa là đất Canaan cho
dòng dõi của Abraham cư ngụ. Phần Abraham và dòng dõi của ông, họ phải cắt bì
và tuân giữ mọi điều Thiên Chúa truyền dạy. Tác giả Sách Thứ Luật xác quyết lý
do duy nhất Thiên Chúa làm những điều này là vì Ngài yêu thương anh em, chứ
không phải bất cứ một lý do nào khác: “Thật vậy, anh em là một dân thánh hiến
cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã chọn
anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người.
Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn
mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân.” Điều này hiển nhiên, vì
khi Thiên Chúa làm giao ước này, dân tộc Israel chưa có mặt trong cuộc đời, và
Abraham chưa có Isaac, người con sẽ sinh ra một dòng dõi.
Thế rồi theo thời gian, dòng dõi
Abraham được sinh ra và tăng trưởng qua Isaac và Israel cùng với các con của
ông. Vì Giuse, con của Israel, làm quan Tể Tướng bên Ai-cập, ông đã đem cha và
các anh em sang định cư bên Ai-cập. Họ đã gia tăng dân số rất nhanh, nhưng bị
người Ai-cập đối xử rất dã man và tìm đủ mọi cách để triệt sản. Họ kêu cầu lên
Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã dùng ông Moses và Aaron để đưa dân ra khỏi Ai-cập,
vào sa mạc để được thanh luyện và gần gũi Thiên Chúa, trước khi tiến vào Đất Hứa.
Tác giả Sách Thứ Luật vắn tắt tiến trình này như sau: “Chính là vì yêu thương
anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Đức Chúa đã ra tay uy quyền
đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pharao, vua Ai-cập.”
1.2/ Thiên Chúa của anh em là Thiên
Chúa trung thành: Giao ước được ký kết giữa Thiên
Chúa và dân tộc Israel. Theo truyền thống con người, nếu một bên vi phạm bất cứ
điều nào đã ký kết, giao ước sẽ trở nên vô hiệu. Đọc lại lịch sử của dân tộc Israel,
một người sẽ nhận thấy Thiên Chúa luôn trung thành giữ những gì Ngài đã hứa; phản
bội luôn đến từ phía dân tộc Israel. Tác giả Sách Thứ Luật cũng xác quyết điều
này: “Thiên Chúa của anh em, thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho
đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai
yêu mến Người và giữ các mệnh lệnh của Người.”
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa là tình yêu.
2.1/ Thiên Chúa yêu thương chúng ta
trước: Tác giả Thư Gioan thứ nhất dạy chúng ta nhiều điều quan trọng về
tình yêu:
(1) Tình yêu bắt nguồn từ Thiên
Chúa: Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ vì yêu thương con người, và nếu Ngài ghét
bỏ điều gì, điều đó sẽ không có mặt trong cuộc đời. Mọi tình yêu đều bắt nguồn
từ Thiên Chúa: tình yêu vợ chồng, tình yêu cha mẹ, anh em, bạn hữu...
(2) Ai yêu thương, người ấy được
Thiên Chúa sinh ra: Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh (selem)
và đức tính (demut) của Ngài (Gen 1:26; 5:1-3). Con người giống Thiên
Chúa nhất ở đức tính con người biết yêu thương. Thánh Gioan xác tín: “Phàm ai
yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai
không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.”
(3) Cách biểu lộ tình yêu của
Thiên Chúa: Ngài đã biểu lộ bằng nhiều cách trong vũ trụ và trong lịch sử;
nhưng theo thánh Gioan, cách biểu lộ tuyệt vời nhất là Ngài đã hy sinh cho
chúng ta Người Con Một: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một
của Người mà chúng ta được sống.”
(4) Thiên Chúa yêu thương chúng
ta trước: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Thiên
Chúa là Người đi bước trước. Ngài yêu thương con người khi họ chẳng có gì đáng
yêu cả, khi họ vẫn còn là các tội nhân: “Chính Người đã yêu thương chúng ta, và
sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.”
2.2/ Chúng ta cũng phải yêu thương
nhau: Như đã nói trên, điều làm cho con người giống Thiên Chúa nhất là
họ biết yêu thương: họ biết yêu thương đáp trả tình yêu Thiên Chúa và biết yêu
thương nhau. Thánh Gioan truyền cho các tín hữu của Ngài: “Anh em thân mến, nếu
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.”
Tính hỗ tương của tình yêu còn được nhấn mạnh hơn nữa trong Tin Mừng Gioan:
“Như Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở
lại trong tình yêu của Thầy” (Jn 15:9). “Như Thầy yêu mến anh em thế nào, anh
em cũng phải yêu mến nhau như vậy” (Jn 13:34).
Có nhiều loại tình yêu khác nhau
trong cuộc đời như tình yêu lãng mạn giữa trai gái, tình yêu chung thủy giữa vợ
chồng, tình yêu huynh đệ giữa anh em hay những người chung chí hướng, tình yêu
thương xót khi gặp người đau khổ... Đức Giáo Hoàng Benedict trong Thông Điệp Deus
Caritas Est, # 10-11, cho rằng tất cả tình yêu đều bắt nguồn từ Thiên Chúa,
nhưng tất cả tình yêu này đều bất toàn so với tình yêu của chính Thiên Chúa, vì
cách nào đó chúng vẫn còn tính vị kỷ. Tình yêu hoàn hảo nhất mà con người cần đạt
đến là tình yêu của Thiên Chúa, vì với tình yêu này, con người có thể yêu
thương tha nhân như chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Với tình yêu này,
con người có thể đáp ứng những đòi hỏi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthew,
chương 5, là yêu thương ngay cả kẻ thù, làm ơn và cầu nguyện cho những người
bách hại chúng ta...
3/ Phúc Âm: Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Chúa Giêsu so sánh giữa những
người khôn ngoan và thông thái (sophos, sunetos) với kẻ bé mọn (nêpios),
để nói với khán giả: họ cần có thái độ của trẻ thơ là tin tưởng, khiêm nhường,
ham học hỏi, để Ngài chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Một
thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản họ nhận ra những gì Ngài muốn mặc khải
cho họ.
3.1/ Kiến thức về Thiên Chúa: "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ
người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ
mà người Con muốn mặc khải cho."
(1) Chúa Giêsu là người biết về
Chúa Cha rõ ràng hơn ai hết: Động từ Hy-lạp dùng ở đây là "epiginôskô,"
biết như một con người hay sự vật là. Con người hiểu biết về Thiên Chúa với nhiều
cấp độ khác nhau; nhưng chỉ có Chúa Giêsu hiểu biết Thiên Chúa trong cấp độ
hoàn hảo nhất. Điều này không ngạc nhiên, vì Chúa Giêsu là chính Lời hay tư tưởng
của Thiên Chúa. Ngài và Cha Ngài là một.
(2) Con người biết Thiên Chúa
qua mặc khải của Chúa Giêsu: Nếu Thiên Chúa không chọn để mặc khải cho con người,
con người không bao giờ có thể biết Thiên Chúa. Đức Kitô chính là mặc khải của
Thiên Chúa; Ngài đến để mặc khải cho con người biết về Chúa Cha, như Ngài đã
tuyên bố với các môn đệ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha.” Hơn nữa, để con người có
thể hiểu những mặc khải này, họ cần được Thánh Thần do Chúa Cha sai tới để hướng
dẫn và thúc đẩy từ bên trong.
3.2/ Hai điều quan trọng chúng ta cần
học hỏi cùng Chúa Giêsu: Người môn đệ tuy vẫn phải mang
ách và mang gánh nặng; nhưng họ không mang chúng theo cách của thế gian, mà
mang chúng theo cách của Đức Kitô. Để biết mang ách và gánh đúng cách, họ cần
phải học với Đức Kitô. Hai nhân đức quan trọng họ cần học nơi Ngài:
(1) Hiền lành: Đây là mối thứ
hai trong Bài Giảng Trên Núi. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền tiêu diệt
những ai nói những lời xúc phạm, đánh đòn, và giết chết Ngài; nhưng Ngài đã
không làm những chuyện đó. Ngài chọn con đường tha thứ: “Lạy Cha! Xin tha cho
chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Ngài hòa giải con người với nhau và
với Thiên Chúa. Ngài dạy phải thương yêu, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù. Con
người cũng thường có khuynh hướng yêu thích những ai hiền lành, nhã nhặn, và
tha thứ.
(2) Khiêm nhường: là nhân đức diệt
trừ tính kiêu ngạo, tội đầu tiên trong bảy mối tội đầu. Không ai thích người
kiêu ngạo và tâm lý chung chẳng ai thích người hay “nổ.” Khiêm nhường là biết
mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người khiêm nhường biết
mọi sự mình có được là do Thiên Chúa ban, nên họ không huyênh hoang lên mặt với
người khác; nhưng biết dùng tài năng để mở mang Nước Chúa và phục vụ anh em.
Người kiêu ngạo đánh cắp công ơn Thiên Chúa và luôn bất an vì sợ người khác hơn
họ. Họ bất an khi không nhận được những gì họ muốn và khó chịu với mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cảm nghiệm được
tình yêu Thiên Chúa trước khi chúng ta có thể đáp trả lại tình yêu của Ngài.
- Tình yêu phải được diễn tả bằng
hành động. Chúa Cha biểu lộ tình yêu của Ngài bằng cách hy sinh Người Con Một
cho con người. Đức Kitô biểu lộ tình yêu bằng cách hy sinh chết trên trên Thập
Giá cho con người. Chúng ta cũng phải biểu lộ tình yêu bằng cách hy sinh cho
nhau.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
19/06/20 THỨ SÁU TUẦN
11 TN
Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su
Mt 11,25-30
Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su
Mt 11,25-30
PHƯƠNG DƯỢC CHỮA LÀNH
“Hãy
học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11,29)
Suy niệm: Sự
kiêu ngạo của nguyên tổ đã đem tội lỗi, đau khổ, sự chết vào trần gian, làm cho
con người mất ân sủng với Thiên Chúa. Đối lại, để cứu độ nhân loại, Con Thiên
Chúa hạ mình khiêm tốn: Ngài “hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự.” (Pl 2,8). Trong khi các môn đệ tranh nhau địa vị, muốn
làm lớn hơn, Chúa hạ mình xuống rửa chân cho các ông và dạy các ông cũng phải
‘rửa chân’ cho nhau. Ngài kêu mời: “Anh
em hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng” (Mt 11, 28).
“Hiền hậu và khiêm nhượng” là phương dựợc chữa lành nhân loại sa ngã vì kiêu
căng.
Mời Bạn: Đại dịch
Covid-19 đang làm cho hàng trăm ngàn người thiệt mạng, hàng triệu người lâm cảnh
thất nghiệp, nghèo đói. Cho dù con người tài năng, mưu lược, mạnh mẽ đến mấy, họ
đã gục ngã trước sức tấn công của loài vi-rút li ti. Đây là cơ hội để con người
biết rõ sự thật về mình, những giới hạn, lỗi lầm, yếu đuối của mình để biết sống
hiền lành và khiêm nhượng đối với Thiên Chúa và đối với nhau. Con người cần
nhìn nhận quyền năng của Thiên Chúa và phải đi theo con đường cứu độ mà Con
Chúa đã vạch ra cho họ.
Sống Lời Chúa: Tôi
vui lòng chấp nhận những đau khổ khi bị khinh bỉ, hiểu lầm. Tôi kết hiệp những
đau khổ tôi chịu với thập giá Chúa để cầu xin cho kẻ có tội được ăn năn trở lại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con nên giống Chúa, biết sống
đơn sơ hiền hậu, khiêm nhượng mỗi ngày một hơn. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Ách của tôi êm ái (19.6.2020 – Thứ sáu: Thánh
Tâm Chúa Giêsu)
Nếu ách của Ngài êm và gánh của
Ngài nhẹ, thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu. Tình yêu làm cho mọi sự
trở nên êm nhẹ.
Suy niệm:
Khi quy hoạch thành phố tương lai,
người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng
cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc.
Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh
giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress.
Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống.
người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng
cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc.
Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh
giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress.
Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống.
Ðức Giêsu mời chúng ta đến với Ngài,
tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi đau và vấp ngã trong quá khứ
Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại
Gánh nặng phải mang vì người khác...
Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu,
chán chường và mệt mỏi.
Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi.
Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi đau và vấp ngã trong quá khứ
Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại
Gánh nặng phải mang vì người khác...
Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu,
chán chường và mệt mỏi.
Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi.
Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
Hãy mang lấy ách của tôi.
Ðức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài
mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc,
về con đường hẹp mà ít người muốn đi,
về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban
đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Ðó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương,
vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Ðức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài
mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc,
về con đường hẹp mà ít người muốn đi,
về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban
đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Ðó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương,
vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ,
thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
“Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả;
mà giả như có vất vả đi nữa
thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh).
thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
“Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả;
mà giả như có vất vả đi nữa
thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh).
Hãy học với tôi.
Ðức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài.
Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài:
“Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu.”
Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu
thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời,
cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái,
cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải,
và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Ðức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài.
Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài:
“Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu.”
Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu
thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời,
cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái,
cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải,
và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc và được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc và được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG SÁU
Tình Yêu Hôn Nhân
Và Gia Đình Kitôhữu
Nơi người Kitôhữu, vai trò làm
cha làm mẹ trước hết là một thực tại luân lý và tâm linh. Người ta chỉ cần có mấy
tháng để đưa một em bé vào đời, nhưng trọn cả đời người cũng không đủ để hoàn
thành việc nuôi dạy đứa con. Thật vậy, có rất nhiều giá trị – cả nhân bản lẫn
siêu nhiên – mà cha mẹ phải truyền đạt cho con cái mình. Bởi vậy, hành vi trao
ban sự sống của cha mẹ có một chiều kích hoàn toàn nhân bản. Và điều này đòi hỏi
thời gian, lòng kiên nhẫn, trí phán đoán, sự khéo léo và tình yêu thương mấy
cũng không vừa. Đó là nẻo đường mà cả gia đình được mời gọi cùng nhau bước đi từ
ngày này sang ngày khác. Trong đó, mọi thành viên của gia đình – cả cha mẹ lẫn
con cái – sẽ trưởng thành ngày càng hơn. Quả vậy, các bậc cha mẹ sống tư cách
làm cha làm mẹ một cách đầy trách nhiệm sẽ khám phá thấy rằng trong tình yêu
hôn nhân của họ có những khía cạnh rất tuyệt vời mà họ vốn không ngờ.
Những khía cạnh thâm sâu ấy của
tình yêu hôn nhân cho phép chúng ta nhìn thoáng thấy chân trời rộng lớn ấy.
Chúng ta nhận ra rằng tình yêu giữa người nam và người nữ siêu vượt trên kinh
nghiệm về thời gian và nó tự mở ra tới viễn tượng sự phục sinh vinh quang của
thân xác, ở đó sự sinh sản thể lý sẽ không còn, nhưng mối kết hợp tâm linh của
hai tâm hồn sẽ vẫn tồn tại.
Trong ánh sáng này, hình ảnh của
Giu-se được nhận thấy có một ý nghĩa phi thường. Vì trong cuộc hôn nhân trinh
khiết giữa ngài với Đức Trinh Nữ Maria, một cách nào đó ngài báo trước kinh
nghiệm trọn vẹn về thiên đàng. Ngài cho chúng ta thấy sự phong phú của tình yêu
phu phụ được xây dựng trên những hòa điệu thâm sâu của linh hồn và được nuôi dưỡng
bằng nguồn mạch yêu thương không bao giờ cạn kiệt.
Đây là một bài học rất có ý
nghĩa cho thời đại chúng ta – một thời đại mà gia đình thường lâm vào khủng hoảng
chỉ vì tựa vào một thứ tình yêu thiếu hẳn chiều sâu và sự phong phú này. Đàng
khác, gia đình hôm nay in hằn những rối rắm, những nhấn mạnh thái quá đến bản
năng và những sự lôi cuốn bên ngoài. Đành rằng bản năng và những lôi cuốn bên
ngoài rất quan trọng, nhưng chúng không thể là nền tảng của tình yêu hôn nhân đối
với các đôi vợ chồng Kitôhữu. Chúng ta hãy học lấy gương mẫu của Thánh Giu-se.
“Này con, sao con nỡ làm thế?
Kìa cha con và mẹ đã lo lắng tìm con” (Lc 2,48). “Cha con” – đó là Thánh
Giu-se, chồng của Mẹ Thiên Chúa, và trước mặt người đời là cha của Giê-su
Na-da-rét, Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa. Câu nói trên là một lời khiển trách rất
bình dị, rất ‘người’. Nhưng, trên tất cả, câu nói ấy bày tỏ mối ưu tư. Nỗi ưu
tư này chính là đặc trưng của vai trò làm cha làm mẹ, từ khoảnh khắc thụ thai đứa
con trong cung lòng người mẹ, xuyên qua tuổi ấu thơ và cả cho đến tuổi trưởng
thành. Mối ưu tư ấy của cha và mẹ há không phải là phản ảnh của sự quan phòng
thần linh đó sao?
Và rồi, một câu nói khác nữa, lần
này là của Đức Giê-su: “Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà Cha con
sao?” (Lc 2,49). Câu nói của Giê-su, người con, nói với cha mẹ mình – là Giu-se
và Maria. Câu nói ấy vén mở cho thấy rằng ở giữa mối ưu tư nói trên của cha và
mẹ, vẫn có những khả năng cho đứa con lớn lên, vẫn luôn có khả năng cho tiếng gọiđến
từ Thiên Chúa: “Con phải ở trong nhà Cha con…”
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
19 Tháng Sáu
Thế Ư?
Hakuin là một
thiền sư nổi tiếng tại Nhật Bản, ông sống ẩn dật trên núi. Ngày kia, có một thiếu
nữ con nhà gia giáo bỗng thấy mình có thai. Cô nàng tuyên bố với mọi người rằng
chính thiền sư Hakuin là tác giả của bào thai. Vừa nghe tin này, cả dân làng,
do cha mẹ của cô thiếu nữ dẫn đầu, đã giận dữ kéo đến chòi của vị thiền sư. Họ
la hét, chửi rủa vị thiền sư đủ điều...
Nhưng vốn điềm
tĩnh, nhà sư chỉ biết mỉm cười thốt lên: "Thế ư?". Ai cũng nghĩ đó là
một cách chịu tội. Ai cũng nghĩ chính ông là tác giả của bào thai trong lòng
người thiếu nữ. Khi đứa bé chào đời, thiền sư Hakuin lặng lẽ đến nhận nó và đưa
về chiếc chòi nghèo nàn của mình. Ông bồng lấy nó, nang niu nó và chăm sóc nó
như chính đứa con ruột của mình.
Nhưng khoảng
18 năm sau, người thiếu nữ bông hối hận về hành vi của mình. Cô thú nhận rằng
người cha của đứa bé chính là chàng ngư phủ trẻ trong làng.
Nghe tin
này, ai ai trong làng cũng cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ xấu và nhục mạ một con
người đáng kính. Một lần nữa, dưới sự dẫn đầu của cha mẹ thiếu nữ, cả làng kéo
nhau đến chòi của vị thiền sư. Mọi người sụp lạy tỏ dấu sám hối vì đã xúc phạm
đến thanh danh của vị đạo sĩ thánh thiện. Giữa lúc mọi người đồng thanh tuyên bố
sự vô tội và cứu gỡ danh dự cho mình, vị thiền sư chỉ mỉm cười nói: "Thế
ư?".
Hai tiếng "Thế ư?" của thiền sư Hakuin trên
đây xem chừng như cũng cùng một âm điệu với hai tiếng "Xin vâng" của
Mẹ Maria.
Thái độ điềm nhiên và chấp nhận không chỉ là kết quả của
một sự rèn luyện ý chí, nhưng còn là một thể hiện của niềm tin. Thưa xin vâng
trước tiên có nghĩa là tuyên xưng Tình Yêu không hề lay chuyển của Thiên Chúa.
Thưa xin vâng là chấp nhận đi vào chương trình của Thiên Chúa, trong đó cho dù
phải trải qua tăm tối và thử thách, con người vẫn tin ở sự thành toàn.
Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin nơi
chính bản thân: dù có yếu hèn, vấp ngã, con người vẫn luôn là đối tượng của một
Tình Yêu chung thủy và là trọng tâm của một chương trình cao cả mà thiên Chúa
đang thực hiện.
Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin vào cuộc
đời. Cuộc đời này, dù có đen bạc đến đâu, vẫn luôn có một ý nghĩa và tha nhân,
dù có thấp hèn, xấu xa đến đâu, vẫn tiếp tục mang lấy hình ảnh cao vời của
Thiên Chúa.
Trích sách Lẽ Sống
Lectio Divina:
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu (A)
Friday 19 June, 2020
Lectio Divina | Lectio
Divina Năm A
1) Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa Thánh Thần,
chúng con thường hướng
lòng mình
vào những căn nhà của
ngạo mạn và tham lam
thay vì vào những ngôi
nhà yêu thương và nhân lành
nơi mà chúng con có thể
cảm thấy tự nhiên,
Xin Chúa hãy phá hủy đền
thờ tội lỗi trong chúng con,
xin hãy xua trừ mọi sự
dữ trong tâm khảm chúng con
và khiến cho chúng con
là những viên đá sống động của cộng đoàn
trong đó Đấng có thể sống
và ngự trị là
Đức Giêsu Kitô, Con
Chúa,
là Chúa hằng sống của
chúng con, đến muôn thuở muôn đời.
2. Bài đọc Tin Mừng
– Mátthêu 11:25-30
Vào lúc ấy, Đức Giêsu
cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì
Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại
mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
“Cha Ta đã giao phó mọi
sự cho Ta. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai
biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.
“Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Anh em hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và
khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Ta
êm ái, và gánh Ta nhẹ nhàng.”
3. Suy Niệm Lời
Chúa
* Hôm nay chúng ta cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Trong bài Tin Mừng, chúng ta sẽ lắng nghe lời mời gọi của Chúa
Giêsu: “Hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường.”
Phúc Âm cho thấy sự dịu dàng mà Chúa Giêsu chào đón, tiếp nhận những kẻ bé mọn.
Người muốn kẻ nghèo khó tìm được sự nghỉ ngơi và bình an nơi Người.
* Bối cảnh
của các chương 11 và 12 của Tin Mừng Mátthêu. Trong bối cảnh này nhấn
mạnh và cho thấy sự thực rằng chỉ có người nghèo mới là những người hiểu và chấp
nhận sự khôn ngoan của Nước Trời. Nhiều người đã không hiểu được sự ưu ái
của Chúa Giêsu dành cho người nghèo và kẻ bị loại trừ.
a) Ông Gioan Tẩy
Giả, người nhìn Chúa Giêsu với con mắt của quá khứ, đã nghi ngờ (Mt 11:1-15).
b) Dân chúng, những
kẻ nhìn Chúa Giêsu với mục đích lợi ích cho riêng họ, đã không thể hiểu được
Người (Mt 11:16-19).
c) Những phố thị
huy hoàng chung quanh biển hồ, đã lắng nghe lời giảng của Chúa Giêsu và thấy những
phép lạ, đã không muốn mở mang sứ điệp cùa Ngài (Mt 11:20-24).
d) Những bậc
khôn ngoan thông thái và các Luật Sĩ, những kẻ đã phán xét mọi việc theo ý nghĩ
riêng của mình, đã không thể hiểu được lời rao giảng của Chúa Giêsu (Mt 11:25).
e) Ngay cả thân
nhân của Người cũng không thể hiểu Người (Mt 12:46-50).
f) Chỉ có những
kẻ bé mọn đã hiểu Người và chấp nhận Tin Mừng Nước Trời (Mt 11:25-30).
g) Những kẻ khác
muốn hy lễ, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn lòng thương xót (Mt 12:1-8).
h) Phản ứng chống
lại Chúa Giêsu khiến cho người Biệt Phái tìm cách giết hại Người (Mt 12:9-14).
i) Họ nói Chúa
Giêsu thuộc về quỷ vương Bê-en-dê-bun (Mt 12:22-32).
j) Nhưng Chúa
Giêsu đã không chùn bước. Người tiếp tục lãnh nhận sứ vụ của Người Tôi Tớ,
như được mô tả trong lời các ngôn sứ. Đây là lý do Người bị bách hại và bị
lên án chết.
* Mátthêu
11:25-26: Chỉ có những kẻ bé mọn hiểu được và chấp nhận Tin Mừng
Nước Trời. Chúa Giêsu dâng lời cầu nguyện lên cùng với Chúa Cha:“Lạy
Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc
khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người
bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” Những bậc khôn
ngoan, các luật sĩ thời bấy giờ, đã tạo ra một loạt luật lệ rồi họ nhân danh
Thiên Chúa mà áp đặt lên người dân. Họ cho rằng Thiên Chúa đòi hỏi dân
chúng phải tuân giữ luật lệ này. Nhưng Lề Luật yêu thương, được Chúa
Giêsu mang đến, thì nói ngược lại. Điều quan trọng không phải là những gì
chúng ta làm cho Thiên Chúa, mà là những gì Thiên Chúa, trong tình yêu tuyệt vời
của Ngài, làm cho chúng ta! Dân chúng đã hiểu được những lời của Chúa
Giêsu và đã tràn đầy niềm vui. Những bậc khôn ngoan thông thái cho rằng
Chúa Giêsu đã sai. Họ không thể hiểu được lời giảng dạy này làm thay đổi
mối quan hệ của dân Chúa.
* Mátthêu
11:27: Nguồn gốc của Lề Luật Mới: Chúa Con biết Chúa Cha.
Đức Giêsu, là Chúa Con, biết Chúa Cha. Người biết rõ Chúa Cha muốn những
gì khi, hàng thế kỷ trước, Ngài đã trao ban Lề Luật cho ông Môisen. Những
gì Chúa Cha muốn nói với chúng ta, Ngài đã giao phó cho Chúa Giêsu, và Chúa
Giêsu mặc khải điều đó cho những kẻ bé mọn, bởi vì họ mở lòng mình ra với sứ điệp
của Người. Ngày nay cũng vậy, Chúa Giêsu tiếp tục giảng dạy nhiều điều
cho những người nghèo khó và cho những kẻ bé mọn. Những bậc thông thái và
khôn ngoan sẽ có ích nếu họ trở thành học trò của những kẻ bé mọn!
* Mátthêu
11:28-30: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến
cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” Chúa Giêsu mời gọi tất cả những
ai mệt nhọc hãy đến nghỉ ngơi trong Người. Đây là những người mệt mỏi dưới
gánh nặng của sự áp đặt và việc tuân thủ mà luật tinh khiết đòi hòi. Và
Người nói tiếp: “Hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm
nhường.” Nhiều lần câu nói này đã được vận dụng để đòi hỏi người ta
phải tự quy phục, phải khiêm nhu. Những gì mà Chúa Giêsu muốn nói thì ngược
lại. Người đòi hỏi người ta tránh những bậc thông thái tôn giáo thời đó,
nghỉ ngơi và bắt đầu học từ Người, từ Chúa Giêsu, Đấng “hiền hậu và khiêm nhường
trong lòng.” Chúa Giêsu khác với những Kinh Sư là những kẻ tự hào về kiến
thức của họ, nhưng Chúa lại giống như những kẻ sống mà bị chế giễu và lợi dụng.
Chúa Giêsu, vị thày dạy mới, biết từ kinh ngiệm của những gì xảy ra trong lòng
dân chúng và biết dân chúng đã phải chịu đựng ra sao.
* Lời mời
gọi về sự khôn khoan của Thiên Chúa đối với tất cả những ai tìm kiếm nó.
Chúa Giêsu mời gọi tất cả những ai bị áp bức dưới ách của sự tuân giữ lề luật
hãy tìm kiếm nghỉ ngơi trong Người, bởi vì Người hiền lành và khiên nhường
trong lòng, có khả năng xoa dịu và an ủi những người đau khổ, những người cảm
thấy mệt mỏi và chán nản (Mt 11:25-30). Trong lời mời gọi này, vang vọng
lại những lời lẽ ân sủng của ngôn sứ Isaia đã an ủi những người sống lưu đày
(Is 55:1-3). Lời mời gọi này liên quan đến sự khôn ngoan Thiên Chúa, mời
gọi mọi người tìm kiếm sự khôn ngoan ấy (Kn 24:19) nói rằng: “Đường
khôn ngoan là đường thú vị; nẻo khôn ngoan là nẻo bình an” (Cn 3:17).
Và Chúa nói thêm rằng: “Khôn ngoan làm cho con cái mình nên cao
trọng, và săn sóc những ai kiếm tìm mình. Ai yêu khôn ngoan là yêu sự sống,
ai sớm tìm kiếm khôn ngoan sẽ tràn trề hoan lạc.” (Hc 4:11-12).
Lời mời gọi này mặc khải một đặc điểm rất quan trọng của khuôn mặt nữ tính của
Thiên Chúa: sự dịu dàng và đón nhận an ủi, đem lại sự sống cho người ta
và giúp họ cảm thấy thoải mái. Chúa Giêsu là Đấng Bảo Vệ, sự bảo vệ và chốn
tựa nương mà Chúa Cha ban cho những kẻ mệt mỏi (xem Is 66:10-13).
4. Một vài câu hỏi
cá nhân
– Điều gì tạo ra sự căng thẳng trong bạn và điều gì
cho bạn sự bình an? Đối với bạn, sống trong cộng đoàn, đó là nguồn
gốc gây ra căng thẳng hay bình an?
– Làm thế nào mà những lời của Chúa Giêsu có thể giúp
cộng đoàn chúng ta trở thành nơi nghỉ ngơi cho cuộc đời chúng ta?
5. Lời Nguyện Kết
CHÚA là Đấng từ bi
nhân hậu,
Người chậm giận và
giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn
luôn,
không oán hờn mãi mãi.
(Tv 103:8-9)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét