Trang

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2012

04-11-2012 : CHÚA NHẬT XXXI MÙA THƯỜNG NIÊN năm B


Chúa Nhật 31 Quanh Năm Năm B


Bài Ðọc I: Ðnl 6, 2-6
"Hỡi Israel, hãy nghe đây: Ngươi hãy yêu mến Chúa hết lòng ngươi".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: "Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài.
"Hỡi Israel, hãy nghe đây mà tuân hành các điều Chúa truyền dạy cho ngươi, thì ngươi được phần phúc và sinh sản ra nhiều hơn, như lời Chúa là Thiên Chúa tổ phụ ngươi đã hứa ban cho ngươi phần đất chảy sữa và mật.
"Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47-51ab
Ðáp: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa; lạy Chúa là đá tảng, chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.
3) Vạn tuế Thiên Chúa, chúc tụng Ðá Tảng của con, ngợi khen Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho đức vua được đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Dt 7, 23-28
"Vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu".
Trích thư gởi cho tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, có nhiều người làm tư tế (của Giao Ước cũ), vì lẽ sự chết ngăn trở họ tồn tại lâu bền. Còn Ðức Kitô, vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu. Bởi đó, Người có thể cứu độ cách vĩnh viễn những ai nhờ Người mà đến với Thiên Chúa, vì Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta.
Phải, vì chúng ta cần một vị Thượng tế thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời. Người không cần phải như các tư tế hằng ngày dâng lên của lễ trước là đền tội lỗi mình, sau là đền tội lỗi dân chúng, vì Người làm việc ấy chỉ có một lần khi hiến dâng chính mình. Vì Lề luật thì đặt những người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau Lề luật thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng tế đến muôn đời.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.


Phúc Âm: Mc 12, 28b-34
"Ðó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?" Chúa Giêsu đáp:
"Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó".
Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh".
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Các câu hỏi của người kinh sư trong bài Tin Mừng là một vấn đề nan giải của người Do Thái bấy giờ. Họ phân luật thành 612 điều khác nhau: 248 điều phải thi hành và 365 điều cấm. Vì giới luật quá nhiều, nên họ không thể xác định được đâu là điều chính yếu và quan trọng nhất. Ðức Giêsu đã cho họ câu trả lời thật chính đáng và đồng thời chứng tỏ Ngài là Chúa của Lề Luật. Ngài tuyên bố: tất cả các giới luật đều qui về hai điều chính: mến Chúa - yêu người. Hai điều luật này không thể tách rời nhau.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay dạy chúng con quá rõ ràng: muốn được sự sống đời đời phải kính mến Chúa, yêu thương anh em. Ai trong chúng con cũng biết điều ấy, nhưng chưa thực hành hay chỉ làm một cách máy móc hình thức. Xin Chúa giúp chúng con hiểu sâu xa lời dạy của Chúa và đem thi hành một cách cụ thể trong đời sống. Amen.
 (Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Yêu Mến Ðồng Loại
(Sách Thứ luật 6,2-6; Hipri 7,23-28; Marcô 12,28-34)
Suy Niệm:
Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B
Sách Thứ luật 6,2-6; Hipri 7,23-28; Marcô 12,28-34
Ðức Yêsu đã đến kếp nạp một dân tín hữu là dân mới của Thiên Chúa. Việc này đã được các bài Thánh Kinh trong Chúa nhật trước gợi lại. Hôm nay hình như Phụng vụ muốn tiếp nối tư tưởng lần trước và nói lên quy chế, hay luật pháp của dân mới. Ðó là luật cũ được kiện toàn. Vì thế chúng ta sẽ thấy bài Tin Mừng bổ khuyết cho bài Thứ luật, luật yêu anh em được đính vào luật mến Chúa. Rồi cũng như trong dân cũ có hàng tư tế, thì vị Thượng tế của đạo mới sẽ vượt xa các Thượng tế xưa, để dân mới luôn luôn đẹp lòng Thiên Chúa.
Tất cả những tư tưởng này rất rõ ràng trong ba bài Kinh Thánh hôm nay mà chúng ta cầu xin ơn Chúa giúp để đọc lại.

1. Ngươi Sẽ Yêu Mến Yavê
Bài sách Thứ luật hôm nay ghi lại lời kinh hằng ngày của người Dothái. Họ đọc lên không phải để thưa với Thiên Chúa nhưng để nhắc nhở cho mình nhiệm vụ căn bản nhất của người dân trong Nước Người. Ðó là lời của Môsê, vị lập quốc và lập luật. Lời vô cùng quan trọng vì sẽ đem phúc đến cho dân khi họ nắm giữ và sẽ làm cho dân nên lớn trong đất chảy sữa và mật. Tương lai và số mệnh của dân tùy ở việc thi hành những lời Môsê truyền hôm nay.
Ông dạy rằng: Hãy nghe, hỡi Israel, Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lập lại cho con cái ngươi.
Phân tách những lời này, người ta sẽ phải kính phục con người nào đã biết diễn tả như thế. Chắc chắn nội dung là của Môsê rồi, nhưng hình thức của các câu văn có thể phải là kết quả của nhiều thế hệ trung thành với truyền thống của Môsê. Quả vậy, chúng ta biết: sách Thứ luật đã không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó càng không phải là tác phẩm của thời Môsê. Nó lấy lại luật Môsê, suy đi nghĩ lại và cộng với kinh nghiệm lịch sử của Dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của cuốn sách này. Họ suy niệm Luật Chúa đêm ngày rồi viết ra để khuyên nhủ đồng đạo. Thế nên nó được gọi là Thứ luật, tức là Luật đến sau Luật trước; luật bổ khuyết và diễn giải Luật pháp Sinai. Nó được công bố vào những năm có nguy hiểm nhất cho dân. Nước nhà phân đôi, miền Bắc đã bị xâm lấn, miền Nam đang ngấp nghé vực sâu. Ông vua yêu nước đã chạy đến truyền thống của dân tộc, đưa sách Thứ luật ra, mưu lập một cuộc canh tân cứu nước... nhưng đã không kịp về mặt chính trị, mà chỉ phục hồi được truyền thống Môsê.
Ðó là truyền thống độc thần, Israel chỉ được thờ một Chúa. Ngài là Yavê. Chính Ngài đã mạc khải danh xưng này cho Môsê trên núi Thánh. Có lẽ trong thời gian đầu Môsê tưởng Ngài chỉ là Chúa của Israel như những vị thần khác là Chúa của các lân bang và chỉ khác ở một điểm: trong khi các dân này thờ nhiều thần và vì thế gọi là đa thần; thì Israel chỉ thờ một mình Yavê và do đó được gọi là dân độc thần.
Sự khác biệt này nhiều khi thật khó giữ. Luôn luôn Israel bị cám dỗ thờ thêm thần khác, nhất là những thần của các sắc dân mạnh hơn, giàu hơn vì tưởng rằng chính các thần ban sự giàu sang sức mạnh cho dân của mình. Các tiên tri phải mạnh mẽ ngăn cản dân đi vào đường lối đó và nhắc đi nhắc lại dân phải trung thành với Yavê. Làm khác đi, thờ thêm thần khác, là "đánh đĩ" và ngoại tình.
Chúng ta không ngại nhắc đến những từ ngữ này. Chúng giúp chúng ta hiểu quan niệm tôn giáo của các tiên tri một cách sâu sắc. Người ta hay nói dân Israel chỉ có một lòng kính sợ Yavê, theo nghĩa họ khiếp sợ Ngài đến nỗi chẳng còn dám xưng danh của Ngài ra nữa. Họ dùng những kiểu nói vòng vo, gọi Ngài là Chúa, là Ðấng Tối Cao... chứ không dám xưng Ngài là Yavê nữa. Thật ra đó chỉ là một diện. Còn nhiều diện khác trong vấn đề này, đặc biệt còn có quan niệm sâu sắc của các tiên tri. Các ngài luôn luôn đề cao lòng yêu mến. Hôsê chẳng hạn đã táo bạo coi tôn giáo là hôn nhân giữa Yavê và Israel; một bên như "chồng" với một bên như "vợ", và tư cách căn bản của lòng đạo đức là nghĩa tín trung. Những tiên tri khác cũng đi vào chiều hướng đó; và trong ngữ vựng của các ngài mới có những từ ngữ như trên để nói đến thái độ thất tín đối với Yavê. Chúng ta phải hiểu quan niệm của các tiên tri như thế mới ý thức được hết sức mạnh của lời sách Thứ luật hôm nay, truyền cho Israel: hãy yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi; nghĩa là phải yêu Ngài với tất cả khả năng và như quên hết mọi sự khác, giống như khi đôi bạn khắng khít yêu thương nhau, mặc cho cuộc đời bể dâu và nước chảy đá mòn.
Cho được đi đến một lòng yêu mến như vậy, Israel đã được dần dần dạy cho biết: Yavê không phải chỉ là Chúa của dân, hoặc chỉ là Chúa trên các Chúa, nhưng Ngài còn là Chúa độc nhất và duy nhất trong tất cả hoàn vũ. Các thần của các lân quốc, chỉ là ngẫu tượng và Yavê phải thống trị địa cầu. Tôn giáo độc thần của Israel sẽ là tôn giáo độc thần của mọi dân nước. Thế nên câu sách Thứ luật hôm nay nói: Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Yavê độc nhất, câu ấy có một ý nghĩa sâu sắc trong lòng các tiên tri, Yavê không phải chỉ là Chúa duy nhất của Israel, mà còn phải là Chúa độc nhất của mọi dân tộc. Và những điều này Israel phải ghi nơi lòng và lặp lại nơi con cái. Chính nhờ sự ghi nhớ và lập lại này mà có truyền thống Môsê, truyền thống độc thần, truyền thống sách Thứ luật chúng ta đọc hôm nay.
Chúng ta cảm mến Thiên Chúa đã mạc khải chân lý độc thần này sớm sủa như vậy và nơi một dân nhỏ bé như thế. Nhiều lý luận loài người còn vấp phải sự kiện lịch sử này. Và chúng ta còn phải kiểm điểm về lòng tin của mình, xem mình có thờ ngẫu tượng naò ở bên cạnh Thiên Chúa hay không (như tiền, tình, quyền...)? Và biết đâu đã không có lúc chúng ta nao núng về niềm tin nơi Thiên Chúa chúng ta thờ? Như vậy chúng ta chưa "gần Nước Thiên Chúa" như người ký lục trong bài Tin Mừng hôm nay đâu.

2. Người Phải Yêu Mến Ðồng Loại
Thánh Marcô thuật câu chuyện này xảy ra trong khoảng thời gian giữa ngày Ðức Yêsu khải hoàn vào Yêrusalem và hôm Người bị nộp. Ðó là thời gian địch thủ tìm cơ hội bắt Người. Họ thay lượt nhau đến gài bẫy, hết các Thượng tế đến các Biệt phái, rồi phe cánh Hêrôđê và những người thuộc bè Sađóc. Hôm nay một ký lục đến hỏi Chúa Yêsu: "Giới răn thứ nhất trên hết là giới răn nào?". Ông không hỏi giới răn nào "trọng nhất", để chúng ta nghĩ đó là điều ông thắc mắc thật sự. Là vì ở thời đó luật Dothái có tới 613 khoản, và phân làm những khoản nặng và nhẹ, trọng và tùy; và sự sắp xếp nhiều khi có thể rõ ràng và dứt khoát. Ở đây, dường như người ký lục không muốn đi vào vấn đề chi tiết tỉ mỉ, ông chỉ muốn đánh giá quan điểm của Ðức Yêsu, xem Người có "chính thống", tức là có ở trong và tôn trọng truyền thống của đạo Môsê hay không? Và đó là điều mà các địch thủ với Người muốn biết.
Nhưng họ chỉ phải bẽ bàng; vì Ðức Yêsu đã có lần tuyên bố: Người không đến để hủy bỏ Luật pháp dù chỉ là một cái chấm hay một cái phẩy, nhưng là để kiện toàn và hoàn tất. Thế nên không có câu trả lời nào chính thống hơn câu của Người hôm nay: "Giới răn thứ nhất là: hãy nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Phải yêu mến Người hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi". Người đã đọc lại kinh Thứ luật. Người có thể dừng lại ở đó. Và người ký lục kia nhất định phải thỏa mãn với câu trả lời.
Nhưng Ðức Yêsu đã không dừng lại. Người không phải như một người học trò thuộc bài và chưa phải là người bị hạch hỏi. Người muốn đóng vai Thầy dạy muôn dân. Thế nên, Người đã thêm: Thứ đến là ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình. Người cũng chỉ nhắc lại một câu trong sách Lêvi. Không ai có thể bảo Người không chính thống. Nhưng Người đã nhắc lại cho người ta một điều rất quan trọng mà thường khi họ sống đạo mà vẫn quên. Họ tưởng đạo chỉ là nhà thờ, kinh kệ và dâng lễ. Không, đạo còn là yêu mến đồng loại như chính mình tức là yêu người khác như bản thân. Ðiều này, trong thực tế, nhiều người giữ đạo "rất chính thống" mà vẫn quên và có ý quên vì nó khó giữ. Ðức Yêsu không đến để nguyên dạy người ta yêu mến Thiên Chúa. Người còn luôn bảo họ phải thi hành ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ trần gian. Hơn nữa Người còn nói rõ không có giới răn nào khác lớn hơn hai việc mến Chúa yêu người này.
Người ký lục tỏ ra rất thông minh, chấp nhận ngay câu trả lời và bài học của Ðức Yêsu. Ông còn phụ họa thêm và nói rằng mến Chúa yêu người như vậy "ắt vượt quá các toàn thiêu và lễ tế thay thảy". Ðức Yêsu không thể không mừng khi gặp kẻ hiểu ý Người như vậy. Người tuyên bố: "Ông không xa Nước Thiên Chúa đâu!"
Lời khen này có thể trở thành một câu chất vấn lương tâm chúng ta. Chúng ta có thường coi các hành vi yêu người như toàn thiêu và lễ tế không? Chúng ta vẫn phải thi hành các nhiệm vụ mến Chúa, vì đó là lẽ sống của chúng ta như lời sách Thứ luật hôm nay nói: Ðó là giới răn thứ nhất, nhưng thứ đến còn phải yêu mến đồng loại như chính mình, điều mà Ðức Yêsu đã đính vào điều răn mến Chúa để làm nên như giới răn của Người. Chúng ta có thi hành không để chứng tỏ mình đang ở trong đạo mới? Ðể thâm tín thêm, chúng ta hãy đọc tiếp bài thư Hipri.

3. Người Là Vị Thượng Tế Thích Hợp
Tác giả so sánh các Thượng tế đạo cũ với vị Thượng tế đạo mới. Họ thì bị sự chết ngăn cấm lưu tồn mãi mãi; còn Ngài thì tồn tại đời đời nên giữ một tế vụ bất hủ. Ðó là sự khác biệt quan trọng. Càng quan trọng hơn nếu ta tìm hiểu sâu về ý nghĩa sự chết theo Thánh Kinh.
Ðối với các tác giả thánh, chết không phải chỉ là một hiện tượng thể lý, giết sức sống trong cơ thể, nhưng còn là hậu quả và hình phạt do tội lỗi. Sự chết không những hủy diệt thân xác, nhưng nhất là còn nói lên sự mâu thuẫn cùng cực với Thiên Chúa là sự sống. Chết và sống khác nhau hơn lửa với nước, nên ai đụng vào tử thi tức khắc đã trở nên ô uế, không được đến gần bàn thờ khi chưa chịu thanh tẩy. Chính điểm nay ngăn cấm các Thượng tế đạo cũ còn lưu tồn mãi mãi. Họ không tiếp tục làm tư tế được không những vì sự chết thể lý, nhưng nhất là vì đã trở thành tử thi, họ xa hẳn Thiên Chúa. Còn Ðức Kitô thì ngược lại. Chính sự chết đã đưa Người vượt qua về với Thiên Chúa và trở thành vị Thượng tế đời đời, sống luôn mãi để chuyển cầu cho nhân loại.
Tư tưởng trên đây dẫn sang một kết luận khác: tế vụ của các Thượng tế đạo cũ khi họ còn sống cũng không hoàn toàn. Vì muốn hoàn toàn, vị Thượng tế phải có khả năng ở gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng sinh, tức là phải vô tội. Thế mà có ai trong loài người được điều kiện này? Ngược lại Ðức Yêsu là Ðấng vô tội và vô tì, Người cao siêu vượt các tầng trời, nên Người ở gần Thiên Chúa và có khả năng chuyển cầu cho chúng ta...
Có lẽ đối với chúng ta không cần phải nói thêm về sự khác biệt giữa các Thượng tế đạo cũ và vị Thượng tế đạo mới. Nhưng điều quan trọng hơn cho chúng ta là hãy ghi nhớ bản chất của tế vụ mà Ðức Kitô đang thi hành. Người đang ở nơi Thiên Chúa và đứng gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng ta. Người đang nối trời với đất, Thiên Chúa với loài người. Lễ tế của Người vừa để tôn thờ Thiên Chúa vừa để cứu độ chúng ta. Chúng ta giữ đạo của Người, chúng ta vẫn đến nhà thờ dâng lễ và cầu nguyện trong chức tư tế của Người. Lẽ nào chúng ta không nhận ra rằng: một người đạo đức thật như có hai vai phải mang hai nhiệm vụ: mến Chúa và yêu người; phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân?
Vậy nếu chúng ta đã sốt sắng ở nhà thờ đối với Chúa, thì chúng ta hãy nhiệt tình với tha nhân ngoài xã hội. Khẩu hiệu kính Chúa và yêu nước, tốt đời và đẹp đạo có thể được sáng thêm trong phụng vụ hôm nay. Chúng ta hãy tận tâm thi hành trong niềm tin.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Chúa Nhật tuần 31 thường niên, năm B
Suy niệm: Các câu hỏi của người kinh sư trong bài Tin Mừng là một vấn đề nan giải của người Do Thái bấy giờ. Họ phân luật thành 612 điều khác nhau: 248 điều phải thi hành và 365 điều cấm. Vì giới luật quá nhiều, nên họ không thể xác định được đâu là điều chính yếu và quan trọng nhất. Ðức Giêsu đã cho họ câu trả lời thật chính đáng và đồng thời chứng tỏ Ngài là Chúa của Lề Luật. Ngài tuyên bố: tất cả các giới luật đều qui về hai điều chính: mến Chúa - yêu người. Hai điều luật này không thể tách rời nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay dạy chúng con quá rõ ràng: muốn được sự sống đời đời phải kính mến Chúa, yêu thương anh em. Ai trong chúng con cũng biết điều ấy, nhưng chưa thực hành hay chỉ làm một cách máy móc hình thức. Xin Chúa giúp chúng con hiểu sâu xa lời dạy của Chúa và đem thi hành một cách cụ thể trong đời sống. Amen.
Ghi nhớ : "Ðó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất"
www.phatdiem.org

04/11/2012 CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN năm B
Mc 12,28b-34 


Đạo Chúa là đạo yêu nhau
“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” (Mc 12,33)
Suy niệm: Trong cuốn “Tản Mạn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam” (nxb Tôn Giáo, 2008), cha Đỗ Quang Chính ghi lại bức thư của linh mục thừa sai Gaspar d’Amaral viết ngày 31/12/1632, trong đó cho biết “lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau” (tr. 61). Thật tuyệt vời! Đạo Chúa dạy đúng là đạo yêu nhau. Chúa Giêsu cho biết mọi giới răn của Ngài được tóm lại trong giới răn “mến Chúa, yêu người.” Gần 400 năm trước đây, các Kitô hữu cha ông chúng ta, đã sống trọn vẹn giới răn yêu thương của Chúa và trở thành chứng nhân mạnh mẽ đầy thuyết phục trước anh em lương dân.
Mời Bạn: Tiếc thay, 400 năm sau, không còn nghe thấy “lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau nữa. Vì sao và từ bao giờ danh xưng ấy bị mai một vậy? Phải chăng vì các “bổn đạo” không còn thực thi giới răn mến Chúa yêu người nữa? Là hậu duệ của các bậc tiền nhân đáng kính đó, chúng ta phải thành tâm kiểm điểm mình đã sống đạo yêu nhau như thế nào: Gia đình, cộng đoàn chúng ta đã loại bỏ hết mọi ghen ghét, tỵ hiềm, xúc phạm lẫn nhau… để chân thành cảm thông và quan tâm phục vụ nhau chưa? Chúng ta đã biết nhận ra và đón nhận những người bé nhỏ nghèo hèn quanh ta đang cần sự cảm thông chia sẻ chưa?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày một quyết tâm làm một việc phục vụ, dù âm thầm nhỏ bé, cho một người anh em bé mọn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con biết nhận ra Chúa nơi những anh chị em mà con gặp gỡ mỗi ngày, và cho con biết yêu thương họ như yêu mến Chúa.
www.5phutloichua.net



Luật Tối Thượng

Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là:
Thiên Chúa là độc nhất vô song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.
Yêu tha nhân như chính mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1)      Yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Bạn có thấy điều này là hợp tình hợp lý không?
2)      Tại sao ta phải yêu mến tha nhân?
3)      Bạn hãy tưởng tượng ra một thế giới trong đó mọi người giữ luật yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Bạn thấy thế giới đó thế nào?

+TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Điều răn đứng đầu

Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh em. Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao.

Suy nim:
Ðối với một số bạn trẻ, yêu chẳng có gì khó.
Yêu là gặp nhau, quen nhau, nhớ nhau.
Yêu là hẹn hò, viết thư, tặng quà sinh nhật.
Nhưng dần dần quan niệm về tình yêu trở nên sâu xa hơn.
Các bạn nhận ra yêu là trao hiến bản thân,
là hy sinh chính mình để sống cho người khác.
Tình yêu đích thực không dễ như nhiều người lầm tưởng.
Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
Một vị kinh sư tốt lành hỏi Ðức Giêsu
về điều răn đứng đầu trong số 613 khoản luật.
Ngài trích Ngũ Thư để tóm lại trong hai điều răn chính:
yêu Thiên Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình.
Tất cả lề luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến.
Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.
Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu.
“Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Thánh Augustinô phàn nàn là mình đã yêu Chúa quá muộn.
Còn chúng ta lại thấy mình yêu Chúa quá ít và hời hợt.
Khi nghe Ðức Giêsu nhắc lại lời kinh của người Do Thái:
“Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với trọn cả trái tim ngươi, với trọn cả linh hồn ngươi,
với trọn cả trí khôn ngươi, với trọn cả sức lực ngươi...”,
ta mới thấy đòi hỏi quyết liệt của Thiên Chúa.
Ngài muốn ta yêu Ngài bằng tất cả con người mình.
Cụm từ “với trọn cả” được lặp lại nhiều lần
như nhắc ta chẳng nên giữ điều gì lại.
Sống điều răn thứ nhất là đặt Chúa lên trên hết,
là dành ưu tiên một cho Chúa giữa những ưu tiên.
Coi Chúa là tất cả, mãn nguyện vì có Chúa.
Dành cho Chúa tất cả, để Chúa chiếm trọn mình.
Ðiều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất:
yêu người thân cận như chính mình.
Người thân cận là mọi người chẳng trừ ai.
Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô cùng.
Trong Chúa, tôi nhận ra tha nhân là anh em, con một Cha,
là hình ảnh của Ðức Kitô đang cần tôi giúp đỡ.
Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của một người,
dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí.
Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh em.
Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa
để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao.
Ðó là nhịp đập bình thường của trái tim người Kitô hữu,
cứ đong đưa giữa hai tình yêu.
Hay đúng hơn chỉ có một tình yêu:
tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân.
Ðức Giêsu đã sống đến cùng hai điều răn Ngài dạy.
Ngài sống để yêu và chết vì yêu.
Tình yêu của Ngài là lễ toàn thiêu và hy tế.
Mỗi tối tôi lại xét mình về tình yêu
để thấy mình còn yêu quá ít.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con.
Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con.
Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con.
Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con.

Trước khi con thuộc về Chúa,
Chúa đã thuộc về con.
Trước khi con phụng sự Chúa,
Chúa đã phục vụ con.
Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa,
Chúa đã nộp mình vì con.
Trước khi con sống và chết cho Chúa,
Chúa đã sống và chết cho con.
Trước khi con đặt Chúa lên trên hết,
Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con,
Chúa luôn đi trước con.
Chúa làm trước khi Chúa dạy.
Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con
đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi.

Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa
với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Ngày 04
 CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN
Thánh Carôlô Bôrômêô, giám mục



Tình yêu Thiên Chúa ràng buộc trọn con người chúng ta. Một tình yêu thông minh và hoạt động, mà nguồn gốc là ở nơi Thiên Chúa, Đấng là tình yêu. Thật vậy, chúng ta đã được tạo dựng giống hình ảnh Người, nhưng khả năng yêu thương của chúng ta bị xúc phạm.Vì thế "giới luật" yêu mến Thiên Chúa hướng dẫn cảm tính sâu kín của chúng ta và khuyến khích chúng ta xin ơn trợ giúp của Thần Khí. Còn cần cụ thể hoá mệnh lệnh này của Đức Giêsu trong cuộc sống chúng ta! Làm sao yêu mến Thiên Chúa mà chúng ta không thấy! Sách Đệ nhị Luật, chương 6, mời gọi chứng ta, trước hết, chọn mệnh lệnh khi nhận biết Thiên Chúa là “Đức Chúa duy nhất", nghĩa là yêu mến Người hơn các thần tượng, là "cái tôi", là tiền bạc, là thú vui...
 
Nhưng yêu mến Thiên Chúa, cũng là học yêu mến Thiên Chúa vì chính Người, chứ không phải chỉ vì những ơn Người ban. Và điều đó trong thời gian, trong những giai đoạn th thách như: những tang tóc, những thất thế của cuộc sống... Đây thực sự là một cuộc chiến đu, để không nguyền rủa hoặc chi bỏ Thiên Chúa, như các Thánh Vịnh đã làm chứng. Như thế, chúng ta chuẩn bị dần dn sự dâng hiến trọn vẹn chính mình vì yêu thương. Việc làm chứng cao nhất, hay sự tử vì đạo, có thể đẫm máu hoặc không đẫm máu, là như vậy. Nhưng, nếu chúng ta có thể tiến được tới đó, phải chăng bởi vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước?
Nữ tu Emmanuelle Billoteau

 Hạnh Các Thánh
Ngày 04 tháng 11
THÁNH CARÔLÔ BÔRÔMÊÔ, TỔNG GIÁM MỤC MILANÔ

Bôrômêô chào đời ngày mồng 02 tháng 10 năm 1538, thân sinh là ông Bôrômêô Arôma, con thứ năm hầu tước Gibert; thân mẫu Magarita Médici, chị ruột Đức Giáo Hoàng Piô IV. Khi vừa lên năm tuổi, Bôrômêô đã được gửi đi học. Ngày tháng trôi qua, mặc dầu trí khôn không vào hàng xuất chúng, nhưng do sự siêng năng cần mẫn, Bôrômêô chẳng mấy chốc đã qua hết bậc trung học, rồi lên đại học Pavia. Cuối năm 1559, khi vừa 21 tuổi, Bôrômêô được vinh dự lãnh cấp bằng tiến sĩ lưỡng luật, qua sự khảo hạch của giáo sư Phanxicô Alciat, một đại luật gia đương thời.
Theo tục lệ thời bấy giờ, người ta có thể xin gia nhập hàng giáo sĩ từ hồi còn nhỏ. Chính vì thế nên vừa mới được 12 tuổi, Bôrômêô đã được nhận vào hàng giáo sĩ. Năm 1560, tức một năm sau ngày trúng tuyển tiến sĩ lưỡng luật, Bôrômêô được Đức Giáo Hoàng triệu về Rôma, ngài liền được phong tước vị Hồng y kiêm chức Giám quản địa phận Milan. Làm Giám quản Milanô, nhưng ngài vẫn cư ngụ tại Rôma và kiêm nhiệm chức Quốc vụ khanh trong Giáo triều.
Năm 1515, Đức Thánh Cha Phaolô III triệu tập Công đồng chung Tridentinô, nhưng phải mãi đến triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IV công đồng này mới bế mạc một cách mỹ mãn. Được như vậy phần lớn là nhờ sự tận tâm tận lực của Hồng y Bôrômêô trong việc thu thập tài liệu và liên lạc giải quyết với các nhân viên trong Giáo triều Rôma và với các sứ thần cũng như các nghị phụ trong Công đồng. Ca ngợi lòng nhiệt thành của đức Hồng y Bôrômêô, một nghị phụ người Vênitia nói: “Ngài làm việc có khi suốt đêm, soạn lại các báo cáo và tin tức khắp nơi gửi về, lãnh ý và liệu thi hành chỉ thị của Đức Thánh Cha… Đúng ra, ngài là người chấp hành sứ vụ hơn là đứng địa vị một cố vấn”.
Mặc dầu làm Tổng Giám mục Milanô, nhưng Hồng y Bôrômêô vẫn cư ngụ tại Rôma để giúp Đức Giáo Hoàng điều hành công việc trong Công đồng Triđentinô. Trong thời gian vắng nhà, ngài trao quyền quản trị Giáo khu cho Nicôla Ormanetô, một vị phụ tá rất lỗi lạc. Tuy nhiên, dù phụ tá lỗi lạc mấy đi nữa cũng không thể ích lợi bằng sự hiện diện của chính chủ chăn, nhất là vào thời kỳ các lạc giáo đang tác hại khắp miền. Bởi vậy, sau thời gian công tác tại hai miền Trung và Bắc Ý với tư cách là một đặc sứ, Hồng y Bôrômêô đã long trọng về nhận địa phận ngày 23 tháng 9 năm 1565. Nhưng chỉ một ít tháng sau, ngài lại phải tới Rôma để dự đám tang người cậu yêu quí là Đức Giáo Hoàng Piô IV và dự cuộc bầu cử Đức Tân Giáo Hoàng. Công việc hoàn tất, ngài lại trở về Milanô. Lần này ngài mới thực hiện sự điều khiển địa phận. Là một Hồng y Tổng Giám mục mới 28 xuân xanh mà phải gánh vác trọng trách của một tổng giáo khu rộng lớn như Milanô, phải chăng sự kiện ấy lại không cho ta thấy ngài là một nhà lãnh đạo lỗi lạc? Thật vậy, 18 năm trời cai quản giáo khu Milanô, đối với ngài là 18 năm làm việc vất vả nhất, song lại kết quả nhất trong cuộc đời. Mềm dẻo nhưng cương quyết, yêu thương nhưng không thiên vị… với những đức tính ấy, ngài đã dần cải tổ được cả hàng giáo phẩm lẫn giáo sĩ dưới quyền. Các Giám mục hồi đó thường hay sống xa địa phận, không mấy quan tâm đến việc chăn dắt con chiên. Trước tình trạng ấy, Hồng y Tổng Giám mục đã cương quyết khuyến cáo các vị về việc thi hành khoản luật trú sở mà Công đồng Tridentinô mới ban bố, và lời khuyến cáo đó đã có kết quả tốt đẹp. Các giáo sĩ cũng vậy, do sự tuyển dụng thiếu chắc chắn, nên có nhiều vị sống không đúng phẩm chức của mình. Trước cảnh sa sút ấy, Hồng y Bôrômêô quả thực là người đã làm sống lại lý tưởng cao cả của bậc tu trì.
Tuy nhiên, sự “sốt sắng việc nhà Chúa” của Đức Hồng y không phải là không gặp phản ứng mãnh liệt. Tháng 8 năm 1569, các kinh sĩ thánh đường Maria della Seala tại Milanô, do Thống đốc Alburquerque xúi giục, đã xua đuổi không cho ngài vào thánh đường của họ. Nhưng cuối cùng ngài đã chế phục được các kinh sĩ này. Với các tu sĩ dòng “Khiêm nhường”, ngài còn phải đối phó gắt gao hơn nhiều. Dòng “Khiêm nhường” là một hội dòng có tính cách địa phương thuộc miền Milanô, nơi này rất giàu có nhờ việc buôn bán tơ lụa, và sự giàu có ấy đã làm cho họ mất hết lòng đạo đức sốt sắng. Tổng Giám mục Bôrômêô muốn tái lập trật tự cho họ. Nhưng một hôm đang khi đọc kinh với gia nhân ở nhà nguyện, ngài đã bị tu sĩ Donatô bắn lén. May mà súng thô sơ và tầm bắn hơi xa nên các viên đạn chỉ xuyên thủng áo mà không gây thương tích trầm trọng.
Ngoài các việc tái lập trật tự trong các dòng tu sẵn có, ngài còn thiết lập một hội dòng riêng cho địa phận, đó là dòng thánh Ambrôsiô (1578). Chính ngài nghiên cứu và soạn thảo qui luật cho hội. Hội dòng này đã làm ích cho địa phận không ít. Năm 1611, sau khi ngài được phong thánh, hội dòng đã lấy một tên khác là “Dòng hai thánh Ambrôsiô và Carôlô”.
Việc đào luyện cán bộ truyền giáo cũng làm ngài bận tâm không ít. Bởi vậy, theo như quyết định của Công đồng Tridentinô, ngài đã xây dựng nhiều chủng viện để đào tạo giáo sĩ, đồng thời xây cất các trung tâm giáo dục và các trung tâm tĩnh niệm cho hối nhân. Riêng việc học hỏi giáo lý, ngài đã gây được một phong trào rất sôi động trong toàn địa phận. Chính ngài đã quảng diễn Phúc âm, tuy đơn sơ nhưng súc tích, ngài dùng hình ảnh và áp dụng thực tế nên thính giả rất hâm mộ.
Hằng năm ngài dành rất nhiều thời giờ để kinh lý địa phận riêng và các địa phận thuộc giáo tỉnh của ngài, kể cả những địa phận xa xôi hẻo lánh nhất. Đến đâu ngài cũng được giáo dân tiếp đón nồng nhiệt. Nhờ những cuộc kinh lý này, ngài hiểu thêm được đời sống thiêng liêng và vật chất của tín hữu, đặc biệt hơn hết là ngài điều tra tại chỗ được khả năng làm việc và nếp sống của các cha xứ, nhờ đó ngài đã đề ra nhiều biện pháp thích nghi để thăng tiến hàng giáo sĩ.
Lòng nhiệt thành của Đức Hồng y đối với công việc tông đồ thật vô cùng cao cả, mà đức bác ái của ngài đối với đồng bào đau khổ cũng không kém phần chói sáng. Người ta vẫn không quên đại họa dịch tả và nạn đói kém đã xảy ra tại Milanô vào hai năm 1576 và 1577. Làng Cocarno với nhân số 4.800 đã bị thần dịch cướp đi mất chỉ còn 700 người. Trước cảnh đau thương ấy, Đức Tổng Giám mục không hề từ nan mọi sự giúp đỡ nào mỗi khi có thể. Ngài đã bán tất cả đồ dùng trong nhà để lấy tiền cứu trợ. Ngài đã quên ăn, bỏ ngủ để thăm viếng và giúp các bệnh nhân dọn mình chết. Chính vì sự tận tụy hy sinh ấy thêm vào sự lao nhọc tông đồ trong suốt hai mươi năm trường, ngài đã phải kiệt sức rồi nhuốm bệnh nặng. Đến chiều ngày thứ bảy, mồng 03 tháng 11 năm 1484. Ngài đã lìa cõi trần gian tục lụy, về hưởng hạnh phúc bất diệt nơi Chúa dành để cho các bề tôi trung tín.
Hằng năm, cứ đến ngày ngài tạ thế, giáo dân Milanô lại tổ chức những buổi lễ cầu nguyện cho linh hồn Đức Tổng Giám mục thân yêu. Nhưng ngày 03 tháng 11 năm 1604, thay vì cầu nguyện cho ngài như mọi khi, người ta lại tổ chức một cuộc sùng kính công cộng hết sức long trọng. Thế rồi sang năm sau và năm sau nữa, thói quen đó cứ lan rộng dần ra khắp trời Âu. Tới năm 1640, Giáo hội chính thức tôn phong ngài lên bậc hiển thánh. Sự kiện này càng làm cho giáo hữu thêm lòng sùng mộ thánh nhân hơn nữa. Đời sống thánh thiện cũng như tài cai trị và đức bác ái nhiệt thành của ngài đã trở thành một tấm gương sáng trong, chẳng những cho toàn giáo dân mà còn cho cả các bậc vị vọng trong Giáo hội, chẳng hạn như cha Olier, đấng sáng lập hội Xuân Bích, Hồng y Bréuelle, và bao nhiêu Giám mục khác noi theo.
Xin thánh Bôrômêô cầu cho chúng con, nhất là cho hàng giáo phẩm và giáo sĩ, được một tinh thần hăng say phụng sự Thiên Chúa và phục vụ nhân loại, như ngài đã hăng say phụng vụ xưa. Amen.
www.tinmung.net
4-11

Thánh Charles Borromeo

(1538-1584)

T
ên của Thánh Charles Borromeo đi liền với chữ cải cách. Ngài sống trong thời kỳ Cải Cách Tin Lành, và đã tiếp tay trong công cuộc cải cách toàn thể Giáo Hội trong những năm cuối của Công Ðồng Triđentinô.
Mặc dù ngài thuộc về một gia đình quý tộc ở Milan và có bà con với dòng họ Medici rất uy thế, nhưng ngài lại muốn tận hiến cho Giáo Hội. Khi người bác của ngài là Ðức Hồng Y de Medici được chọn làm giáo hoàng năm 1559 với tước hiệu là Piô IV, đức giáo hoàng đã chọn ngài làm trưởng phó tế và là quản lý của Tổng Giáo Phận Milan trong khi ngài chỉ là một sinh viên giáo dân. Vì sự thông minh xuất chúng nên ngài được giao cho nhiều chức vụ quan trọng có liên hệ đến Tòa Thánh, và sau này được bổ nhiệm làm bộ trưởng chịu trách nhiệm toàn thể ban hành chánh của tòa thánh. Cái chết đau đớn của người anh đã đưa ngài đến quyết định đi tu làm linh mục, mặc dù bao người thân nhân ngăn cản. Ngài được thụ phong linh mục năm 25 tuổi, và sau đó không lâu được tấn phong làm giám mục của Milan.
Chính thánh nhân là người đã thúc giục đức giáo hoàng phục hồi Công Ðồng Triđentinô vào năm 1562 sau 10 năm bị ngưng trệ. Ðứng ở đằng sau và âm thầm làm việc, thánh nhân là người có công trong việc duy trì sự liên tục của các khóa họp Công Ðồng mà nhiều khi tưởng đã đổ vỡ. Trong giai đoạn cuối của Công Ðồng, ngài là người chủ yếu trong việc hướng dẫn và thành hình các sắc lệnh của công đồng. Hiển nhiên ngài cũng được phép dành thời giờ để làm việc cho Tổng Giáo Phận Milan, là nơi mà tôn giáo và luân lý thật sáng tỏ.
Sự cải tổ cần phải thi hành trong mọi tầng lớp Công Giáo, dù là giáo sĩ hay giáo dân, và được khởi sự từ các công đồng địa phương với các giám mục phụ tá. Những quy luật rõ ràng được đặt ra cho các giám mục và tu sĩ: Nếu người ta thay đổi đời sống để trở nên tốt lành hơn, thì giáo sĩ phải là những người làm gương và phải canh tân tinh thần tông đồ của mình trước hết.
Chính Thánh Charles tiên phong trong việc làm gương. Ngài chia sẻ hầu hết phần lương của ngài cho công việc bác ái, tự ý từ bỏ đời sống sang trọng của một tổng giám mục, và ăn chay đền tội. Ngài hy sinh giầu sang, danh vọng, sự mến mộ và ảnh hưởng để trở nên nghèo hèn. Trong thời kỳ dịch tễ và đói kém năm 1576, ngài cố tìm cách để nuôi ăn 60,000 đến 70,000 người mỗi ngày. Ðể thực hiện điều này, ngài phải mượn một số tiền rất lớn mà nhiều năm sau mới trả hết. Khi nạn dịch hoành hành đến mức tối đa, các giới chức hành chánh dân sự bỏ trốn thì ngài vẫn ở lại thành phố để thi hành công việc mục vụ cho những người đau yếu, người hấp hối và những ai cần sự giúp đỡ.
Vào năm 1578, ngài thành lập một tổ chức cho các linh mục triều, Tu Sĩ của Thánh Ambrôsiô (bây giờ là Tu Sĩ của Thánh Charles), tích cực rao giảng, chống với sự xâm nhập của các tà thuyết, và đưa những người Công Giáo lầm lạc trở về với Giáo Hội.
Công việc và gánh nặng của chức vụ đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ngài. Ngài từ trần khi mới 46 tuổi và được phong thánh năm 1610.
Lời Bàn
Thánh Charles đã sống theo lời Ðức Kitô: "... Khi ta đói con đã cho ta ăn, ta khát con đã cho ta uống, ta lạc lõng con đã tiếp đón, ta trần truồng con đã cho áo mặc, ta đau ốm con đã chăm sóc, ta tù đầy con đã thăm viếng" (Mt. 25:35-36). Thánh Charles đã nhận ra Ðức Kitô trong tha nhân, và ngài biết rằng công việc bác ái được thi hành cho những người bé mọn là được thi hành cho Ðức Kitô.
Lời Trích
"Trong cuộc lữ hành trần thế, Ðức Kitô luôn mời gọi Giáo Hội hãy cải tổ liên tục và đó là điều rất cần thiết, vì giáo hội là một tổ chức của con người. Do đó, nếu ảnh hưởng của các biến cố hay thời cuộc đã đưa đến những khiếm khuyết trong hành động, trong kỷ luật của Giáo Hội, hay ngay cả trong việc hình thành tín lý (cần thận trọng phân biệt với kho tàng đức tin), thì những khiếm khuyết ấy phải được chấn chỉnh một cách thích hợp và đúng lúc" (Sắc Lệnh về Ðại Kết, 6).
www.nguoitinhuu.com

Lectio: Chúa Nht XXXI Thường Niên (B)

Chúa Nht, 4 Tháng 11, 2012
Khi th din b ngoài tr thù yêu thương… 
Điu răn trng nht: tình yêu Thiên Chúa và tha nhân
Mc 12:28-34

1.  Li nguyn m đu
Ly Chúa Giêsu, xin hãy sai Thn Khí Chúa đến giúp chúng con đc Kinh Thánh vi tâm tình mà Chúa đã đc cho các môn đ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng ca Li Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đ khám phá ra được s hin din ca Thiên Chúa trong ni đau bun v bn án và cái chết ca Chúa.  Vì thế, cây thp giá tưởng như là s kết thúc ca mi nim hy vng, đã tr nên ngun gc ca s sng và s sng li.
Xin hãy to s thinh lng trong chúng con đ chúng con có th lng nghe tiếng Chúa trong s To Dng và trong Kinh Thánh, trong các s kin ca đi sng hng ngày và trong nhng người chung quanh, nht là nhng người nghèo khó và đau kh.  Nguyn xin Li Chúa hướng dn chúng con đ, ging như hai môn đ t Emmau, chúng con cũng s được hưởng sc mnh s phc sinh ca Chúa và làm chng cho nhng người khác rng Chúa đang sng hin hu gia chúng con như ngun gc ca tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cu xin vì danh Chúa Giêsu, con ca Đc Maria, Đng đã mc khi cho chúng con v Chúa Cha và đã gi Chúa Thánh Thn đến vi chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đc 

a)  Chìa khóa dn đến bài đc:
Bài Tin Mng ca Chúa Nht tun này nói v các Lut Sĩ, nhng người có trách nhim ging dy giáo lý, mun biết t Chúa Giêsu, gii răn nào trng nht.  Ngày nay cũng vy, có nhiu người mun biết điu gì quan trng nht trong tôn giáo.  Mt s người nói rng đó là phép ra ti, người khác nói là tham d Thánh L hay mt nghi thc Phng V Chúa Nht khác, có người cho là tình yêu tha nhân!  Có mt s người ch lo lng v b ngoài hoc các đa v trong Giáo Hi.  Trước khi đc câu tr li ca Chúa Giêsu, bn hãy c gng nhìn vào bn thân và t hi:  “Đi vi tôi, điu gì quan trng nht trong tôn giáo và trong cuc sng?
Văn bn cho chúng ta cuc đi thoi gia Chúa Giêsu và v Lut Sĩ.  Đang khi đc, bn hãy c gng tp trung vào nhng điu sau đây:  “Chúa Giêsu khen v Lut Sĩ v đim nào và ch trích h v điu gì?”  
b)  Phn phân đon văn bn đ tr giúp cho bài đc:
Mc 12:28:  Câu hi ca v Lut Sĩ liên quan đến gii răn trng nht  
Mc 12:29-31:  Câu tr li ca Chúa Giêsu   
Mc 12:32-33:  V Lut Sĩ tán thành câu tr li ca Chúa Giêsu
Mc 12:34:  Chúa Giêsu xác đnh vi v Lut Sĩ

c) Tin Mng:

28 Khi y, có người trong nhóm lut sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hi Người rng: "Trong các gii răn điu nào trng nht?" 29 Chúa Giêsu đáp:  "Gii răn trng nht chính là: Hi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nht, 30 và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hn, hết trí khôn và hết sc ngươi. 31 Còn đây là gii răn th hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có gii răn nào trng hơn hai gii răn đó". 32 Lut sĩ thưa Ngài: "Thưa Thy, đúng lm! Thy dy phi l khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nht và ngoài Người chng có Chúa nào khác na. 33 Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sc mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mi l vt toàn thiêu và mi l vt hy sinh". 34 Thy người y t ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hi Người thêm điu gì na. 
3.  Giây phút thinh lng cu nguyn:
Đ Li Chúa có th thm nhp và soi sáng đi sng chúng ta.

4.  Mt vài câu hi gi ý:

Đ giúp chúng ta trong phn suy gm cá nhân.

a)  Đim nào trong bài Tin Mng này làm bn chú ý nht?  Ti sao?
b)  Chúa Giêsu ch trích v Lut sĩ điu gì và khen Lut Sĩ v điu gì?           
c)  Theo như các câu 29 và 30, tình yêu ca chúng ta dành cho Thiên Chúa phi như thế nào?  Nhng ch sau đây trong các câu Tin Mng có ý nghĩa gì: tâm hn, trí khôn, sc lc?  Tt c nhng ch này có hướng v cùng mt điu không?
d)  Mi quan h gia điu răn th nht và điu răn th hai là gì?  Ti sao?
e)  Ngày nay chúng ta gn hơn hay là xa hơn vi Vương quc Thiên Chúa so vi v lut sĩ mà Chúa Giêsu khen ngi?  Bn nghĩ gì?

5.  Dành cho nhng ai mun đào sâu vào trong ch đ 

a)  Bi cnh:

i)  Khi Chúa Giêsu bt đu hot đng công vic truyn giáo ca Người, các lut sĩ Giêrusalem thm chí đã đến min Galilêa đ quan sát Người (Mc 3:22; 7:1).  H lúng túng vì li rao ging ca Chúa Giêsu và đã xuôi theo li vu khng nói rng Chúa đã b qu ám (Mc 3:22).  Gi đây, ti Giêrusalem, mt ln na h bt đu tranh cãi vi Chúa Giêsu.
ii)  Vào thp niên 70, khi Máccô biên son sách Tin Mng ca ông, đã có nhiu s thay đi và bách hi, và vì vy, đi sng ca các cng đoàn Kitô hu tht bp bênh.  Vào thi đim ca nhng đi thay và bt trc luôn có nguy cơ hoc s cám d đ tìm kiếm s an lành, không tin tưởng vào s tt lành ca Thiên Chúa đi vi chúng ta, nhưng trong vic chp hành nghiêm ngt Lut Môisen.  Đi din vi kiu suy nghĩ này, Chúa Giêsu khng đnh vic thc hành lut yêu thương đ làm du đi vic tuân gi Lut Môisen và cho nó ý nghĩa thc s.       

b)  Li bình lun v văn bn:

Mc 12:28:  Câu hi ca v Lut Sĩ
Ngay trước khi v Lut Sĩ đt câu hi vi Đc Giêsu, Chúa đã có mt cuc tho lun vi nhóm người Sađc v vn đ nim tin vào s sng li (Mc 12:18-27).  V Lut Sĩ, người đã có mt trong cuc tho lun, hài lòng vi câu tr li ca Chúa Giêsu, và nhn ra rng đây là mt người rt thông minh, cho nên ông ta to cơ hi và đưa ra câu hi ca mình đ làm sáng t:  “Trong các gii răn, điu nào trng nht?”  Vào thi y, người Do Thái đã có rt nhiu lut l đ quy đnh vic tuân gi Mười Điu Răn v L Lut ca Thiên Chúa.  Có người nói:  “Tt c nhng lut l này đu quan trng như nhau, vì chúng được Thiên Chúa ban ra.  Chúng ta không có quyn phân bit v nhng vic ca Thiên Chúa”.  Người khác đáp li:  “Không!  Mt s l lut thì quan trng hơn nhng lut khác và do đó có nhiu ràng buc hơn!”  V lut sĩ mun biết quan đim ca Chúa Giêsu:  “Gii răn nào trng nht trong tt c các gii răn?”  Vn đ này đã được tho lun sôi ni vào thi by gi.

Mc 12:29-31:  Câu tr li ca Chúa Giêsu
Chúa Giêsu tr li bng cách trích dn Kinh Thánh, nói rng điu răn th nht là “ngươi phi yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hn, hết trí khôn và hết sc ngươi!” (Đnl 6:4-5).  Nhng li này là mt phn ca li cu nguyn được gi là Shemá (Hãy nghe).  Vào thi Chúa Giêsu, người Do Thái đc li cu nguyn này hai ln mi ngày:  vào bui sáng và bui ti.  Li cu nguyn này cũng ph quát như Kinh Ly Cha đi vi chúng ta ngày nay.  Sau đó, Chúa Giêsu thêm vào, vn còn trích dn li Kinh Thánh:  “Còn đây là gii răn th hai:  ‘Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi’ (Lv 19:18).  Không có gii răn nào trng hơn hai gii răn đó”.  Mt câu tr li ngn gn và rt sâu sc!  Đó là bn tóm tt tt c nhng gì Chúa Giêsu đã giáo hun v Thiên Chúa và đi sng (Mt 7:12) 

Mc 12:32-33:  Câu tr li ca v Lut sĩ
V lut sĩ đng ý vi Chúa Giêsu và đưa ra kết lun:  "Thưa Thy, đúng lm!  Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sc mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mi l vt toàn thiêu và mi l vt hy sinh". Nói cách khác, gii răn yêu thương thì quan trng hơn tt c các gii răn phi gi v th phượng hoc các hy tế trong Đn Th.  Li tuyên b này phát xut t các tiên tri trong Cu Ước (Hs 6:6; Tv 40:6-8; Tv 51:16-17).  Ngày nay chúng ta s nói rng:  thc hành gii răn yêu thương thì quan trng hơn là các tun cu nht, li khn ha, Thánh L, cu nguyn và rước kiu.  Hay nói đúng hơn, các tun cu nht, li khn ha, Thánh L, li cu nguyn và cuc rước kiu phi là kết qu ca vic thc hành gii răn yêu thương và phi dn đến s yêu thương.      

Mc 12:34:  Bài tóm tt v Nước Tri
Chúa Giêsu xác đnh câu kết lun đưa ra bi v lut sĩ và nói:  “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu!”  Tht vy, Nước Thiên Chúa bao gm trong vic nhn ra rng tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là điu quan trng nht.  Và nếu Thiên Chúa là Cha, thì tt c chúng ta đu là anh ch em và chúng ta phi bày t điu này trong thc hành bng cách sng trong cng đoàn.  “Tt c Lut Môisen và các sách ngôn s đu tùy thuc vào hai điu răn y!” (Mt 22:40)  Môn đ ca Chúa Giêsu phi ghi khc điu lut tuyt vi này vào trong trí nh ca h, trí tu và tâm hn ca h: ch có như vy chúng ta mi có th đt được Thiên Chúa trong món quà tn hiến chính mình cho tha nhân!

Mc 12:35-37:  Chúa Giêsu ch trích l li ging dy ca các lut sĩ v L Lut Đng Mêssia
Li tuyên truyn chính thc ca nhà cm quyn và các lut sĩ nói rng Đng Cu Thế s đến như Con vua Đavít.  Điu này có ý đ ging dy rng Đng Cu Thế s là mt vì vua thng tr, dũng mãnh và vinh hin. Đây là nhng gì đám đông dân chúng reo hò vang dy vào ngày L Lá:  “Chúc tng triu đi đang ti, triu đi vua Đavít, t ph chúng ta!” (Mc 11:10).  Người mù thành Giêricô cũng kêu lên rng:  “Ly ông Giêsu, Con vua Đavít, xin d lòng thương tôi!” (Mc 10:47).  Thế đây Chúa Giêsu li đt vn đ v li ging dy này ca các lut sĩ.  Người trích dn bài Thánh Vnh ca vua Đavít:  “Đc Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: ‘Bên hu Cha đây, Con lên ng tr, đ ri bao đch thù, Cha s đt làm b dưới chân con!’” (Tv 110:1)  Sau đó Chúa Giêsu tiếp tc:  “Nếu vua Đavít gi Đng Cu Thế là Chúa Thượng, thì Đng Cu Thế li là con vua y thế nào được?”  Điu này có nghĩa là Chúa Giêsu đã không đng ý vi ý tưởng v mt Đng Mêssia vua vinh hin, Đng s đến đ thng tr và áp đt triu đi ca Người trên tt c đch thù.  Chúa Giêsu ưa thích là Đng Mêssia tôi t được công b bi tiên tri Isaia (Is 42:1-9).  Người nói:  “Con Người đến không phi đ được người ta phc v, nhưng là đ phc v, và hiến mng sng làm giá chuc muôn người” (Mc 10:45).

Mc 12:38-40:  Chúa Giêsu lên án các lut sĩ
Sau đó Chúa Giêsu to s chú ý ca các môn đ v thái đ thiên v và đo đc gi ca mt s các lut sĩ. Nhng người này ưa đi do quanh qung trường, xúng xính trong b áo thng, thích được người ta chào hi nhng nơi công cng.  H ưa chiếm ghế danh d trong hi đường, thích ngi c nht trong đám tic.  H nut hết tài sn ca các bà góa, li còn làm b đc kinh cu nguyn lâu gi đ ly tin!  Và ri Chúa Giêsu kết thúc bng câu nói:  “Nhng người y s b kết án nghiêm khc hơn nhng gì h nhn được!”  Chúng ta cũng nên da vào văn bn này làm mt vic t vn lương tâm đ liu xem chúng ta có th thy chính mình phn chiếu trong đó không!

c)  Phn ph chú:

Gii răn trng nht

Gii răn trng nht và trước nht là và mãi mãi s là “ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hn, hết trí khôn và vi hết sc lc ngươi” (Mc 12:30).  Qua hng thế k, vào nhng lúc dân riêng ca Thiên Chúa đã đào sâu hơn s hiu biết ca h và đt tm quan trng cho lòng yêu mến Thiên Chúa, ri thì h đã nhn thc được rng tình yêu Thiên Chúa ch thc s khi nó tr thành c th trong tình yêu tha nhân.  Đó là lý do ti sao điu răn th hai yêu thương tha nhân, cũng tương t như điu răn th nht yêu mến Thiên Chúa (Mt 22:39; Mc 12:31).  “Nếu ai nói:  ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà li ghét anh em mình, người y là k nói di” (1 Ga 4:20).  “Tt c Lut Môisen và các sách Ngôn S đu tùy thuc vào hai điu răn y” (Mt 22:40).  Thot đu, nhng chi tiết v tình yêu tha nhân thì không được rõ ràng cho lm.  Liên quan đến đim này, đã có mt s tiến hóa trong ba giai đon lch s ca dân riêng Thiên Chúa:

Giai đon th nht:  “Người lân cn” là quan h thân thích đng chng tc
Cu Ước đã dy v nhim v “phi yêu thương người đng loi như chính mình!” (Lv 19:18).  Vào thi xa xưa, ch người lân cn thì đng nghĩa vi bà con thân thích.  H cm thy có nhim v phi yêu thương tt c nhng người thân thuc trong cùng mt gia đình, b lc, chi tc và cùng dân tc.  Đi vi người ngoi chng, đó là, nhng người không phi là dân Do Thái, sách Đ Nh Lut nói rng:  “Người nước ngoài, anh em có th thúc n; nhưng cái gì ca anh em mà trong nhà người bà con ca anh em, thì phi tha không đòi (bà con, người lân cn)!” (Đnl 15:3).

Giai đon th hai:  “Người lân cn” là bt c ai tôi tiếp cn hoc h tiếp cn tôi
Dn dà, khái nim v người lân cn phát trin.  Do đó, trong thi Chúa Giêsu đã có mt cuc tranh cãi sôi ni v “ai là người lân cn ca tôi?”  Mt s lut sĩ nói rng khái nim v người lân cn đã được trin khai vượt khi gii hn ca chng tc.  Tuy nhiên, nhng k khác s không đng ý vi điu này.  Đó là lý do ti sao mt người lut sĩ tìm đến Chúa Giêsu vi câu hi đy tranh cãi:  “Ai là người lân cn ca tôi?”  Chúa Giêsu đã tr li bng d ngôn người Samaritanô Nhân Lành (Lc 10:29-37), khi người lân cn chng phi là mt thân nhân, cũng chng là mt người bn, hay mt nhà quý tc, mà là mt người tiếp cn vi bn, không phân bit tôn giáo, màu da, chng tc, gii tính hoc ngôn ng.  Bn phi yêu mến người y!

Giai đon th ba:  S đo lường tình yêu thương ca chúng ta đi vi “người lân cn” là yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương chúng ta
Chúa Giêsu đã nói vi v lut sĩ:  “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu!” (Mc 12:34).  V lut sĩ đã gn k vi Nước Tri bi vì tht ra Nước Tri bao gm trong s hip nht tình yêu Thiên Chúa vi lòng yêu mến tha nhân, như v lut sĩ đã dõng dc tuyên b trước s hin din ca Chúa Giêsu (Mc 12:33). Nhưng đ vào được Nước Tri, ông ta vn còn cn thêm bước na.  Chun mc đ yêu thương tha nhân được dy trong Cu Ước là “yêu như chính thân mình”.  Chúa Giêsu ni rng tiêu chun này và nói rng: “Đây là điu răn ca Thy:  anh em hãy yêu thương nhau như Thy đã yêu thương anh em!  Không có tình thương nào cao c hơn tình thương ca người đã hy sinh tính mng vì bn hu ca mình!” (Ga 15:12-13). Chun mc trong Tân Ước sau đó là:  “Hãy yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta!”  Chúa Giêsu đã ban cho li gii thích thc s Li ca Chúa và cho thy cách chc chn đ đt được mt li sng huynh đ và công chính hơn.

6.  Cu Nguyn vi Thánh Vnh 46 (45)
Thiên Chúa, được mc khi trong Đc Giêsu, là sc mnh ca ta! 

Thiên Chúa là nơi ta n náu, là sc mnh ca ta.
Ng
ười luôn luôn sn sàng giúp đ khi ta phi ngt nghèo.
Nên d
u cho đa cu chuyn đng,
núi đ
i có sp xung bin sâu,
d
u cho sóng bin m m sôi sc,
núi đ
i có lo đo khi thy triu dâng,
ta cũng ch
ng s gì.

M
t dòng sông chy ra bao nhánh
đem ni
m vui cho thành ca Chúa Tri:
đây chính là đ
n thánh Đng Ti Cao.
Thiên Chúa ng
gia thành, thành không lay chuyn;
ngay t
rng đông, Thiên Chúa thương tr giúp.
Muôn dân náo đ
ng, muôn nước chuyn lay,
ti
ếng Người vang lên là trái đt rã ri.
Chính Chúa T càn khôn cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Giacóp là thành b
o v ta.
Đ
ến mà xem công trình ca CHÚA,
Đ
ng gieo kinh hãi trên mt đa cu.
Ng
ười chm dt chiến tranh trên toàn cõi thế,
cung tên b
gy, gươm giáo đp tan,
còn khiên thu
n thì quăng vào la.
D
ng tay li: Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa!
Ta th
ng tr muôn dân, thng tr đa cu.

Chính Chúa T
càn khôn cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Giacóp là thành b
o v ta.

7.  Li Nguyn Kết

Ly Chúa Giêsu, chúng con xin cm t Chúa v Li Chúa đã giúp chúng con hiu rõ hơn ý mun ca Chúa Cha.  Nguyn xin Thn Khí Chúa soi sáng các vic làm ca chúng con và ban cho chúng con sc mnh đ thc thi Li Chúa đã mc khi cho chúng con.  Nguyn xin chúng con, tr nên ging như Đc Maria, thân mu Chúa, không nhng ch lng nghe mà còn thc hành Li Chúa.  Chúa là Đng hng sng hng tr cùng vi Đc Chúa Cha trong s hip nht vi Chúa Thánh Thn đến muôn thu muôn đi.  Amen.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét