Trang

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

01-11-2012 : LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ


LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ ( Lễ Trọng)

BÀI ĐỌC I: Kh 7, 2-4, 9-14
"Tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần khác từ phía mặt trời mọc đi lên, tay cầm ấn Thiên Chúa hằng sống, và lớn tiếng kêu gọi bốn thiên thần được lệnh tàn phá đất và biển mà rằng: "Chớ có tàn phá đất, biển và cây cối trước khi ta đóng ấn trên trán những tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta". Và tôi đã nghe biết số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel.
Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: "Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên".
Rồi tất cả các thiên thần đến đứng chung quanh ngai vàng, và các trưởng lão cùng bốn con vật sấp mình xuống trước ngai mà thờ lạy Thiên Chúa rằng: "Amen! Chúc tụng, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ, vinh dự, uy quyền và dũng lực cho Thiên Chúa chúng tôi muôn đời. Amen". Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: "Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?" Tôi đáp lại rằng: "Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ". Và người bảo tôi rằng: "Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên". Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Đáp: Lạy Chúa, này là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa (c. 6a).
Xướng: 1) Trái đất và muôn loài trên mặt đất là của Chúa, hoàn cầu và muôn vật trên địa cầu. Vì chưng Chúa đã xây dựng nền móng trái đất trên biển cả, và Người đã tạo dựng nó trên các sông ngòi. - Đáp.
2) Ai sẽ được trèo lên núi Chúa? Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện? Đó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá. - Đáp.
3) Người đó sẽ hưởng phúc lành của Chúa và lượng từ bi của Chúa, Đấng giải thoát họ. Đấy là dòng dõi của những kẻ tìm Người, những kẻ tìm tôn nhan Thiên Chúa của Giacóp. - Đáp.

BÀI ĐỌC II: 1 Ga 3, 1-3
"Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, các con hãy coi: Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và thực sự là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy. Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi Người, thì tự thánh hoá mình cũng như Người là Đấng Thánh. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Mc 11, 28
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các con". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 5, 1-12a
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời". Đó là lời Chúa.


 Giặt áo mình trong Máu Chiên Con
Suy Niệm:
Ngày 1 Tháng 11
Lễ Các Thánh Nam Nữ
(Kh 7,2-4.9-14; 1Yn 3,1-3; Mt 5,1-12a)
Việc dùng một ngày để kính nhớ chung mọi thánh đã khởi sự từ thế kỷ IV. Dĩ nhiên thời đó người ta mới chỉ nói đến các thánh tử đạo. Thoạt đầu người ta mừng vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, coi đó là kết quả của việc các Tông đồ được sai đi giảng đạo. Ở Rôma ngày lễ ấy lúc đầu được cử hành vào ngày 13/5 - ngày cung hiến điện Pantheon, tức là điện chư thần của dân ngoại, thành một vương cung thánh đường - Thay vào chỗ các tượng thần của các dân tộc mà đoàn quân chiến thắng Lamã đã đem về Rôma, người ta kiệu xương các Tử đạo về đó để tôn kính. Ðiện Pantheon, trở thành nhà thờ các Tử đạo và ngày thay đổi ấy trở thành ngày lễ các Tử đạo. Về sau vì lý do hành hương muốn tạo điều kiện dễ dàng cho các khách ở xa, Rôma đã dời lễ đó vào ngày 1 tháng 11. Và thay vì kính riêng các Tử đạo, người ta mừng chung tất cả các thánh nam nữ.
Dù sao, ngày nay mừng lễ này vào khoảng cuối năm Phụng vụ cũng là điều hợp lý: các thánh không phải là kết quả của Lịch sử ơn cứu độ sao? Kế hoạch của Thiên Chúa khởi sự từ mùa Vọng phải đưa chúng ta tới thiên cung đầy các thánh, để chúng ta tham dự Tiệc cưới của Chiên Con... Và như vậy, việc chọn sách Khải huyền làm bài đọc I hôm nay cũng là điều dễ hiểu.

A. Thế Giới Của Các Thánh
Yoan được thị kiến. Ông thấy trời mở ra. Và này ông thấy bốn thần sứ đang ở tứ phương giữa bốn luồng gió lại; chờ lệnh thả ra quét sạch mặt đất. Nhưng rồi lại có một thần sứ khác hiện ra ở phương Ðông, tay cầm ấn ngọc của Thiên Chúa, bảo bốn thần sứ kia rằng: không được thả gió ra cho tới khi người đóng ấn xong vào trán các kẻ được chọn.
Bằng những lời mạc khải trên, Yoan ngụ ý muốn nói rằng: mặt đất này có ngày sẽ bị quét sạch. Nhưng trước khi ngày ấy xảy đến, thần sứ của Chúa sẽ làm việc để chọn những người được cứu độ. Người sẽ ghi ấn tích của Thiên Chúa trên trán họ như ngày xưa người ta quen đóng ấn trên trán những người nô lệ. Và như thế, những người được chọn chính là những người tôi tớ của Thiên Chúa. Còn ấn tín kia, chúng ta có thể hiểu là ấn tín của phép Rửa làm cho người ta thuộc về Thiên Chúa và trở nên Dân Thánh của Người. Thế nên, cho đến ngày chung thẩm, lịch sử loài người chỉ có một nhiệm vụ: đào tạo những tôi tớ Thiên Chúa, tập họp những kẻ được chọn hoàn thành số các thánh nam nữ ở trên trời.
Theo Yoan, con số này lớn lắm, nên phải là con số "tròn", con số lý tưởng. Ông tựa vào số 12 chi tộc Israel ngày mới thành lập nơi sa mạc. Ông nhân con số đó với 1,000 để bảo mỗi chi tộc kia phải lớn thêm mãi hầu phủ đầy mặt đất. 12 chi tộc phát triển như vậy để làm thành Dân Chúa, đến nỗi vào ngày chung thẩm, ngày có Tiệc cưới Chiên Con, không ai còn có sức đếm được nữa. Khi ấy sẽ đủ mọi dân tộc, đủ mọi tiếng nói, đủ mọi nền văn minh. Thế giới các thánh thật đông đúc, thật phong phú, thật ngoạn mục! Tất cả đều mặc áo trắng dài, áo của thầy tư tế, chứng tỏ toàn Dân Thánh của Chúa là dân tư tế, dân linh mục. Tay họ cầm cành vạn tuế. Có lẽ không phải là cành lá chiến thắng và tử đạo đâu; nhưng là cành lá của dân Do Thái khi dự lễ "Trại".
Chúng ta biết dân Israel vẫn cử hành lễ "Trại" vào mùa thu, khi gặt hái xong. Thoạt đầu đó là một lễ nông nghiệp. Người ta đóng trại bằng những cành cây ở ngoài đồng nho khi nho chín để canh giữ và làm việc. Ðời sống bất thường ấy, ở giữa một khung cảnh thiên nhiên và trong niềm hân hoan hái trái nho chính, làm cho người ta sung sướng như trong ngày lễ. Về sau, gán cho ngày ấy một ý nghĩa tôn giáo và cử hành trong đền thờ, người ta nhớ tới thời Dân Chúa đã "cắm trại" nơi sa mạc... Và thế là lễ ấy trở thành "lễ tập họp Dân"; Dân cầm lá đến, tung hô hát xướng khi kiệu nước từ suối Siloam lên đổ trên tế vật đặt trên bàn thờ. Chính Ðức Yêsu đã tham dự lễ này. Và Người tuyên bố mình có nước hằng sống của Thánh Thần để ban cho kẻ tin Người. Và câu chúc tụng trong bài Khải huyền hôm nay cũng lấy lại lời tung hô trong lễ Trại. Như vậy rõ ràng thánh Yoan muốn dùng hình ảnh lễ này để gợi lên cộng đoàn phụng vụ các thánh ở trên trời.
Các người là Dân đông đảo của Thiên Chúa. Là dân toàn thiện, phát xuất từ 12 chi tộc Israel nhưng sẽ bao trùm toàn thể mọi dân tộc. Ðó là Dân đã được đóng ấn bằng phép Rửa, và là Dân tư tế. Cộng đồng Dân thánh ấy được triệu tập đến trước tòa Chúa có Chiên Con đứng đàng trước, để cử hành phụng vụ tạ ơn, tung hô các công cuộc kỳ diệu của Thiên Chúa và của Chiên Con.
Lập tức các thiên thần, các trưởng lão và bốn con vật đã đứng sẵn ở chung quanh ngai tòa Thiên Chúa, liền sấp mình thờ lạy. Thánh Yoan không muốn nói dài về các chi tiết này. Người ta có thể đưa ra những ý kiến khác nhau về các nhân vật kia. Nhưng tất cả đều đồng ý rằng ở đây thánh Yoan chỉ muốn nói đến thụ tạo, tức là thế giới tạo vật có thiên thần, loài người và động vật. Và ý của người là: tuy tạo vật vẫn thờ phượng Chúa, nhưng phải chờ đến khi có phụng vụ của các thánh và của Dân thánh Chúa, thì những lời tung hô thờ lạy của tạo vật mới được hoàn toàn. Tạo vật đang chờ đợi ngày xuất hiện của con cái Thiên Chúa để niềm hân hoan của chúng được trọn vẹn. "Phụng vụ tự nhiên" phải chờ đợi phụng vụ của các thánh để được phong phú. Thế giới các thánh sẽ hoàn thành thế giới tạo vật vậy.
Nhưng làm thế nào để có thế giới các thánh đó? Các thánh đó được đào tạo từ đâu? Các người từ đâu đến? Thưa họ đều đến từ đau khổ lớn lao, từ mặt đất nhiều thử thách. Họ đã giặt áo cho trắng ở trong Máu Chiên, tức là đã phải đi qua mầu nhiệm thập giá Ðức Kitô để có áo ân sủng và tư tế. Chính cuộc sống kết hợp với Ðức Kitô đã tôi luyện họ thành những tâm hồn trong trắng thánh thiện. Và như vậy họ thật là các Tử đạo và là các thánh mà chúng ta mừng lễ hôm nay. Phụng vụ không thể dùng đoạn Thánh Kinh nào thích hợp hơn để giúp chúng ta hiểu về thế giới các thánh. Nhưng khi dừng lại ở điểm nói về nguồn gốc của các ngài, phụng vụ lại muốn đưa chúng ta trở về thế giới ở mặt đất này, để xem chúng ta phải làm gì hầu mai ngày đạt tới quê hương các thánh.

B. Tin Mừng Cho Những Người Muốn Vào Nước Trời
Chúng ta không gặp khó khăn nào khi muốn biết con đường dẫn đến thế giới các thánh. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Ðức Yêsu đang dạy dỗ những ai muốn vào Nước Trời. Người trèo lên núi để có thể đứng trên nơi cao nói với tất cả các dân tộc và các thời đại. Các môn đồ ngồi ở gần Người để cho mọi người thấy phải trở thành môn đệ. Người lên tiếng một cách trịnh trọng khi dùng lối văn khôn ngoan của thời bấy giờ, bắt đầu bằng hai chữ "phúc thay" hay "phúc cho", để nói rằng ai muốn được hạnh phúc trường cửu phải nghe theo lời Người.
Rồi theo thánh Matthêô, Người kể ra tám hạng người hạnh phúc, vì câu hạnh phúc thứ chín cũng chỉ nói về hạng người bị bắt bớ như câu thứ tám, nhưng ở thể văn cụ thể và trực tiếp hơn. Ðứng đầu tám hạng người được phúc là những người nghèo khó, mà Matthêô gọi là những người có lòng nghèo khó hoặc nghèo khó thật ở trong lòng hoặc có tinh thần nghèo khó. Người muốn chúng ta hiểu rằng: đây không phải là vấn đề nghèo khó về của cải, nhưng là nghèo khó tại lòng mình và nơi tâm hồn, thấy mình cô thế cô phương, không biết cậy dựa vào đâu trong cuộc đời đầy những thiếu thốn bất lực và hiểm nguy về mọi mặt, đến nỗi chỉ còn biết trông cậy vào ơn Chúa cứu độ. Chính họ là những người khao khát Thiên Chúa hơn hết, vì họ thấy mình nghèo nàn, hèn mọn hoàn toàn. Họ không có gì để tựa hoặc không thấy gì đáng tựa trong cuộc đời đầy phấn đấu nên đặt tất cả tin tưởng vào Chúa. Họ là những người nghèo khó ở trước mặt Chúa. Họ là "dân nghèo của Yavê" như từ ngữ Kinh Thánh thường nói.
Tổ phụ của họ là Abraham, một người đã từ bỏ tất cả những sự đáng cậy dựa ở đời này để trở thành con người vô gia cư, vô địa táng, lang thang hết nơi này qua nơi khác, gặp rất nhiều khó khăn phấn đấu, nhưng đặt tất cả niềm tin vào Lời Chúa và sống từng ngày, từng phút tựa vào sự quan phòng của Chúa. Chính ông đã được hứa ban có đất làm gia nghiệp, có xứ sở làm quê hương, thì những người nghèo khó của Yavê cũng sẽ được Nước Trời làm sản nghiệp.
Chúng ta tưởng danh từ Nước Trời không cụ thể như hứa địa đã được dành cho Abraham. Nhưng nếu chúng ta biết rằng quan niệm Nước Trời đã bắt nguồn từ quan niệm Hứa địa và đã được các thế hệ tiên tri làm thêm phong phú, thì chúng ta phải hiểu rằng trong quan niệm Nước Trời có tất cả mọi lời hứa dành cho Abraham và cho tất cả Dân Chúa trải qua mọi thời đại. Nước Trời là danh từ tổng quát gồm hết thảy mọi sự lành mà Thiên Chúa có thể ban cho loài người và cuối cùng là chính sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa. Nếu thế thì phúc thật thứ I này đã bao hàm 7 mối phúc thật sau, khiến chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản như thế này:
* Con người hiền lành ở phúc thứ II là con người khó nghèo bình tĩnh trước lối sống phù vân của người khác vì vẫn tin tưởng vào Chúa. Họ nghèo nhưng vẫn êm ái đang khi kẻ giàu lại hay nổi nóng. Họ được hứa sẽ có đất làm cơ nghiệp. Như vậy họ thật là người nghèo khó.
* Con người ưu phiền khóc lóc cũng vậy. Họ được hứa sẽ được an ủi, khiến chúng ta phải khẳng định họ là thành phần những người đang chờ đợi sự "an ủi của Israel". Ðó là những người nghèo bị bóc lột trong dân, những người thấp cổ bé họng bị oan ức, là toàn Dân Chúa trong cảnh lưu đày, là những người đang trông chờ ơn cứu độ. Nói tắt họ cũng là những người nghèo của Ðức Yavê.
* Con người đói khát mà Ðức Yêsu bảo sẽ được no đầy, thoạt tiên là con người thiếu ăn thiếu mặc. Họ sẽ được no đầy ở trong bàn tiệc Nước Trời. Và như vậy họ cũng là những con người nghèo khó. Nhưng khi thánh Matthêô viết bản Phúc Âm này, người thấy Chúa Yêsu đã mở tiệc trong Hội Thánh rồi. Kẻ muốn được no đầy trong bàn tiệc của Chúa phải có sự thánh thiện, công chính. Do đó thánh Matthêô đã thêm hai chữ "công chính" vào sau chữ "đói khát" để hàm ý rằng người nghèo của Ðức Yavê là người phải lấy việc đói khát sự công chính thánh thiện làm cơ sở. Nhưng dù đói khát thứ gì người ta cũng là thành phần nghèo khó.
* Và khi có kinh nghiệm về nếp sống khó nghèo, người ta mới dễ có lòng thương xót; và có xót thương kẻ khác người ta mới được Chúa xót thương. Phúc thật thứ V vì thế cũng chỉ dành cho người có căn bản nghèo khó.
* Chúng ta biết Do thái giáo ngày xưa chú trọng nhiều đến vấn đề sạch và không sạch. Nhưng ai chú trọng đến vấn đề ấy, nếu không phải là hạng giàu sang, trưởng giả; như tục ngữ viết: phú quý sinh lễ nghĩa. Các tiên tri cực lực phản đối thứ lễ nghĩa này và hô hào phải có sự trong sạch đạo đức trong lòng mới được xem thấy Chúa, tức là được vào Ðền thờ để xem thấy Người, tức là được vào Nước Chúa vậy. Do đó câu phúc thật thứ VI cũng phản đối kẻ giàu sang, và đề cao kẻ khó nghèo.
* Người nghèo khó lại là người hay bị bóc lội, bắt bớ; nên phúc thật thứ VIII cũng dành cho họ. Thánh Matthêô trong cả bài Tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh đến tính cách tinh thần đạo đức của người nghèo khó, nên ở đây người cũng nói đến kẻ bị bắt bớ vì sự công chính, tức là vì Chúa, vì Ðức Kitô và giáo lý của Người. Nhưng ai bị bóc lột một cách bất công mà không phải là nạn nhân của sức mạnh thù địch với Thiên Chúa là Ðấng công chính? Họ trở nên nghèo khó; và như vậy họ được hứa ban Nước Trời.

C. Nối Liền Ðất Với Trời
Chúng ta hết thảy đều là những thành phần nghèo khó. Chúa Yêsu đã rao giảng Tin Mừng của Người cho chúng ta. Người hứa ban các phúc thật cho chúng ta. Chúng ta cứ ngồi yên như thế này rồi sẽ được hạnh phúc sao?
Chắc chắn không thể như vậy! Thế nên thánh Matthêô đã muốn giúp đỡ các tín hữu là những thành phần khó nghèo biết sống thân phận của mình thế nào cho được phúc. Người thêm chữ "tinh thần" vào câu "phúc cho người nghèo khó" và viết: "phúc cho người có tinh thần (hay có lòng) nghèo khó" để nhấn mạnh rằng người ta phải có tinh thần những người nghèo của Ðức Yavê. Ðó là tinh thần của những người thiếu thốn, đau khổ, bị bắt bớ mà vẫn không mất niềm tin, không trở nên gây hấn, không bớt tình người. Ngược lại, vì tin tưởng ở Chúa và tuân giữ Lời Người, họ luôn hòa dịu, xót thương và gieo rắc bình an. Thái độ nhân đạo hoàn toàn của họ tựa vào niềm tin đạo đức sâu xa. Nó đòi hỏi một nhân cách mạnh mẽ. Và vì thế nó cũng chỉ có thể gặp được ở nơi những tâm hồn cương nghị, không bao giờ chịu khuất phục trước bất công bóc lột.
Cứ xem các tiên tri của Chúa thì rõ. Các ngài thuộc thành phần những người nghèo của Ðức Yavê hơn ai hết. Nhưng ai mạnh mẽ chống bất công bóc lột bằng các ngài. Ngay lúc chết, và chính cái chết của các ngài cũng còn nói lên tinh thần ấy. Và đó là tinh thần của những người nghèo của Ðức Yavê, tinh thần của những người đã thấm đầy Thần trí của Thiên Chúa. Cương quyết tiêu diệt sự dữ cho đến cùng, mặc dầu biết mình yếu đuối nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, đó là tinh thần nghèo khó Phúc Âm. Ði vào con đường ấy là giặt áo mình trong Máu Chiên Con, tức là phó sự sống mình trong mầu nhiệm phấn đấu của Chúa Kitô, và như vậy sẽ đạt tới thế giới các thánh mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Sống cuộc đời như chúng ta vừa nói có thể không xuất sắc. Nhưng lời thư Yoan hôm nay viết khi nào đến lúc tỏ hiện thì bấy giờ mới rõ được hết nếp sống của con cái Chúa. Bấy giờ mới thấy hàng ngũ những người nghèo của Ðức Yavê như là hàng ngũ những chiến sĩ vô danh. Hôm nay Hội Thánh tưởng niệm họ và kêu gọi chúng ta hãy nối liền đất với trời bằng nếp sống theo tinh thần nghèo khó Phúc Âm.
Chúng ta hãy tham dự thánh lễ này như được vây quanh bởi hàng ngũ đông đảo các thánh. Các ngài không những hiện diện với chúng ta hôm nay ở nơi bàn thờ này, nhưng còn muốn ở bên chúng ta hầu thôi thúc chúng ta hãy cùng với các ngài tham dự vào Tiệc của Chiên Con. Các ngài đã giặt áo mình trong Máu Chiên Con, tức là đã đi vào đường lối của Ðức Kitô tử nạn - phục sinh, thể hiện hình ảnh người tôi tớ khó nghèo của Thiên Chúa. Các ngài khuyến khích chúng ta luôn giữ tinh thần nghèo khó nhưng phải phấn đấu không ngừng chống sự dữ nơi đời sống của mình. Có như vậy áo của chúng ta mới được giặt trong Máu Chiên Con và trở nên trắng sạch hầu được nhập đoàn cùng các thánh nam nữ trong Nước Trời vinh phúc.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Các Thánh

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
 Bát Phúc là con đường nên thánh.
             - Có một chú sư tử con, vì mẹ mất sớm, nên ở chung với một đàn dê. Chú thích nghi với hòan cảnh và sinh sống như một con dê. Cho tới một hôm, Chúa Sơn Lâm đi ngang qua cánh đồng; bầy dê bỏ chạy tán lọan, chú sư tử con cũng cắm đầu chạy theo chúng. Chúa Sơn Lâm lấy làm lạ về hành động của chú sư tử con, nên vội chạy theo bắt lấy. Khi bắt kịp chú, Chúa Sơn Lâm đưa chú sư tử con ra bờ suối và bảo nó: Hãy nhìn xuống suối coi, mày cũng là con của Chúa Sơn Lâm, tại sao mày hốt hỏang bỏ chạy như những con dê nhút nhát đó?
            - Chúng ta đã được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, và là người nhà của tất cả các thánh chúng ta mừng hôm nay. Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta xét mình soi gương xem chúng ta đã nên giống hình ảnh Thiên Chúa và các thánh chưa. Các Bài đọc hôm nay giúp chúng ta xét mình.
            - Bài đọc I nhắc nhở chúng ta: Các thánh là những người trung thành với Thiên Chúa sau khi đã trải qua những cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Bài đọc II nhắc nhở chúng ta ơn gọi làm con Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận trong Ngày Rửa Tội. Chúng ta đã làm vinh danh Cha thế nào trong cuộc sống? Phúc Âm dạy chúng ta con đường chắc chắn để nên thánh: sống theo Bát Phúc. 

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao.
            1.1/ Thị kiến thứ nhất: Những người được đóng ấn. Trước khi các thiên thần tàn phá thế giới, các tôi tớ của Thiên Chúa còn sống được đóng ấn. Thị kiến tường thuật một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Israel. Đây chỉ là con số biểu tượng, không phải chỉ có bấy nhiêu người được cứu thóat.

            1.2/ Thị kiến thứ hai: Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Họ thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Hai điều những người này tuyên xưng:
            (1) Thiên Chúa Cha: "Chính Thiên Chúa chúng ta là Đấng ngự trên ngai.”
            (2) Con Chiên là Đức Giêsu Kitô: “Chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta.”
            Tất cả các thiên thần đều đứng chung quanh ngai, chung quanh các Kỳ-mục và bốn Con Vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng: "A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! A-men!"
            1.3/ Các Thánh là đòan người áo trắng: Một trong các Kỳ-mục lên tiếng hỏi tôi: "Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu đến?" Tôi trả lời: "Thưa Ngài, Ngài biết đó." Vị ấy bảo tôi: "Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.” Các thánh là những người đã sống một cuộc đời như Chúa dạy. Họ đã từ bỏ lối sống ích kỷ của bản thân, hy sinh chấp nhận mọi gian khổ ngay cả cái chết để làm chứng cho Thiên Chúa.

2/ Bài đọc II:
            2.1/  Ơn gọi làm con Thiên Chúa: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Người Con Một của mình, để những ai tin vào Người Con thì được làm con Thiên Chúa (Jn 1:13), và được ơn Cứu Độ (Jn 3:16). Chúng ta không phải là con của thế gian: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người.”
            2.2/ Phần thưởng của những người con Chúa: Đã là con thì cũng là những người thừa kế gia tài. Phần thưởng cho những người con Chúa là cuộc sống đời đời mai sau và mọi vinh quang mà Đức Kitô được thưởng từ Thiên Chúa Cha. “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.”
            2.3/ Bổn phận của những người con Chúa: Nếu đã có quyền thì cũng phải chu tòan bổn phận. Thánh Gioan tuyên bố: “Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch.”

 3/ Phúc Âm: Bát Phúc là con đường nên thánh.
             Chúng ta sẽ dùng Bát Phúc như tiêu chuẩn để so sánh 3 lối sống: (1) của Chúa Giêsu, của các thánh, và của theo thế gian.
              (1) “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” Khi được các môn đệ hỏi: “Thưa Thầy! Thầy ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Cáo có hang, chim có tổ, Con Người không có chỗ dựa đầu.” Thánh Phanxicô Khó Khăn, mặc dù là con một thương gia giàu có ở Assissi, noi gương Chúa Giêsu, tuột quần áo trả lại cho cha để đi theo Đức Kitô sống cuộc đời khó nghèo. Trước mắt thế gian đó là điều dại dột, vì ai cũng muốn sống sung túc giấu có.
             (2) “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.” Người xưa dạy: “Mắt đền mắt, răng đền răng; còn Ta, Ta dạy: Ai tát má bên này thì đưa cả má bên kia nữa.” Trong Cuộc Thương Khó, Chúa đã trở nên như con chiên hiền lành bị đem đi giết. Thánh Phanxicô Salêsiô, mặc dù mang bản tính nóng như lửa trong người, đã noi gương Đức Kitô trở thành người hiền lành và khiêm nhường. Trước mắt thế gian, hiền lành đồng nghĩa với khù khờ để người khác lợi dụng.
             (3) “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” Trong Vườn Cây Dầu, Đức Kitô đau buồn kêu lên: “Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết; anh em hãy tỉnh thức cầu nguyện với Thầy.” Mẹ Thánh Augustin, Monica, cả cuộc đời đổ bao nhiêu nước mắt khóc thương chồng và con. Sau cùng, Chúa đã cho chồng trở lại đạo trên giường bệnh, Chúa đã cho Augustin ăn năn trở lại và làm thánh. Người đời cho những ai muốn chịu đau khổ là điên, vì ai cũng tìm các trốn tránh các đau khổ cả.
             (4) “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.” Chúa Giêsu thẳng thắn tuyên bố: “Ta đến từ Trời, không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta.” Cả cuộc đời của Ngài là cuộc đời làm theo ý Thiên Chúa. Thánh Thomas More, khi bị bắt phải nói dối đã khẳng khái tuyên bố: “Chết thì chết chứ không nói sai thành đúng.” Người đời cho sống công chính là “sĩ diện hão,” vì ai cũng phải sống luồn lách quanh co để đạt những gì mình muốn.
             (5) “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.” Chúa Giêsu xót xa khi nhìn các bệnh nhân, và Ngài chữa lành họ. Ngài thương dân thành Giêrusalem, muốn che chở họ như gà mẹ che chở đàn con dưới cánh, nhưng họ đã khước từ tình yêu của Ngài. Thánh Martinô đã thương bệnh nhân đến độ đem về phòng cho nằm trên giường mình mà chăm sóc. Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã dành cả cuộc đời để săn sóc người nghèo. Thế gian cổ võ việc phải lo cho bản thân mình trước hết với câu chữa mình: “Tôi thương xót người rồi ai thương tôi?”
             (6) “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.” Chúa Giêsu đã thách thức các đối phương trong Cuộc Thương Khó: “Ai trong các ngươi có thể buộc Ta về tội gì?” Thánh Maria Goretti đã thề chết chứ không để người anh họ hãm hiếp. Giới trẻ hôm nay cho truyện ăn ở trước hôn nhân là chuyện bình thường, và chế nhạo những trẻ nào giữ mình trinh khiết là “homeboy, homegirl.” Mấy người mẹ hôm nay dám khuyên con: “Mẹ chẳng thà thấy con chết trước mặt mẹ hơn là phạm tội trọng mất lòng Thiên Chúa!” 
            (7) “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.” Chúa Giêsu đã dùng cái chết của Ngài trên Thập Giá để hòa giải người Do-Thái và Dân Ngọai nên một; đồng thời hòa giải con người với Thiên Chúa. Thánh Bernadino thành Sienna cũng noi gương Chúa làm cho con người hòa giải với nhau. Thế gian cho thái độ tha thứ thuận hòa là ngu dốt vì để người khác lợi dụng mình; được đàng chân họ sẽ leo lên cả đầu! Hậu quả là nạn ly thân, ly dị, và chiến tranh dưới mọi hình thức lan tràn.
            (8) “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” Chúa đi trước vác Thập Giá lên đồi Canvê để chết thay cho con người. Biết bao các thánh tử đạo thuộc mọi thời đại cũng anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu; trong số đó có 118 vị tử đạo của quê hương Việt-Nam chúng ta. Thánh Anrê Phú Yên, trước khi chết, đã khuyên giáo dân: “Chúng ta phải lấy tình yêu đáp trả lại tình yêu và lấy mạng sống đáp trả lại mạng sống.” Trong khi đó, cũng có biết bao người phản bội và không dám đổ máu đào để làm chứng cho Chúa. Họ vịn cớ: chỉ cần tin Chúa trong lòng là đủ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
            - Đau khổ trong cuộc đời không thể thiếu để thanh luyện chúng ta như lửa thử vàng. Chỉ khi nào biết chấp nhận gian khổ để làm chứng cho Thiên Chúa, chúng ta mới chứng tỏ đức tin và tình yêu của chúng ta dành cho Ngài.
            - Trở lại câu truyện chú sư tử con, chúng ta là thiên tử, là con cái Chúa. Hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình; đừng chốn chui chốn nhủi như những con của bóng tối, của thế gian và ma quỉ. Chúng ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, và cuộc sống thánh thiện làm chúng ta càng ngày càng trở nên giống Chúa hơn.
            - Ơn gọi nên thánh là của tất cả mọi người. Bát Phúc là con đường nên thánh tuyệt hảo. Mọi người phải cố gắng sống cả Bát Phúc; tuy nhiên, sống một phúc cũng đủ để chúng ta nên thánh rồi.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************

Các Thánh Nam Nữ (1/11)
Sứ điệp: Những ai sống đời chứng nhân cho Nước Trời theo tinh thần của Chúa Giêsu, sẽ được hạnh phúc thực.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã trình bày cho con nẻo đường đi đến cõi phúc muôn đời. Chúa đã đi trước để con buớc theo Chúa. Chúa đã sống khó nghèo, khiêm nhu, hiền hòa, nhân hậu… Chúa đã hiến trọn cuộc đời cho Nước Trời. Cuộc đời của Chúa vẫn sáng ngời thuần khiết trước mặt con.
Bước chân Chúa đi đã có biết bao người theo. Lời kêu gọi của  Chúa đã được bao người đáp lại. Cuộc sống của những người theo Chúa bị người đời cho là càn dở, là ngu dại, nhưng đó lại là con đường sống đời đời và dẫn đến hạnh phúc chân thực.
Con tin vào Lời Chúa, con muốn sống theo tiếng Chúa gọi mời. Xin cho con biết chọn lựa, chọn lựa dứt khoát cho suốt cả đời con. Xin cho con biết chấp nhận những thua thiệt trước mắt người đời để sống cho Chúa và vì Chúa. Xin cho con can đảm bước theo Chúa trên con đường gồ ghề chông gai của ơn cứu độ với thập giá trên vai, với những khuyết điểm và giới hạn trong cuộc sống.
Xin cho con biết nhận ra khuôn mặt cứu độ của Chúa trong cuộc sống con, biết lắng nghe tiếng gọi yêu thương của Chúa và can đảm bước theo tiếng Chúa.
Khi con hiện diện giữa đời và bước đi trên con đường của Chúa, lúc đó con đã là chứng nhân cho Chúa, con đã làm cho Chúa hiện diện trong con, và làm cho Nước Trời hiện diện trên thế giới này. Con ao ước trở nên một điểm hiện diện nhỏ bé của Nước Chúa. Xin Chúa chúc lành cho con. Amen.
Ghi nhớ :"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

01/11/12 THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 30 TN
Các Thánh Nam Nữ
Mt 5,1-12a 


CON ĐƯỜNG CÁC MỐI PHÚC
“Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời thuộc về họ.” (Mt 5,3)
Suy niệm: Hôm nay Hội Thánh mừng tất cả các thánh, nam và nữ, xưa và nay, nổi tiếng và vô danh. Các thánh nổi tiếng có rất nhiều. Các thánh âm thầm, không tên tuổi, còn nhiều hơn. Tất cả các ngài đang ở trong hạnh phúc và vinh quang vĩnh cửu với Thiên Chúa. Các ngài đã đi trên con đường mang tên các mối phúc và nay Nước Trời đã hoàn toàn thuộc về các ngài. Nước Trời ấy vốn đã có mặt và đang được xây dựng ngay trong cuộc sống này. Ta có thể gặp các “thánh” đang cắp sách đến trường hay đang gập lưng trên mặt ruộng, đang chạy xe ôm hay đang bán hàng rong, đang làm phụ hồ ở công trường hay đang bốc xếp ngoài bến cảng. Ở những chỗ ta không ngờ nhất thì rất nhiều “thánh” đang có mặt.
Mời Bạn: Con đường mà các thánh thuộc Hội Thánh khải hoàn đã đi và đã tới, đó là con đường Tám Mối Phúc, con đường của thập giá, con đường của yêu thương đến cùng mà chính Chúa Giêsu là người tiên phong. Mời bạn nhìn lại xem con đường mình đang đi là con đường nào, có phải là con đường của Tám Mối Phúc đó không? Con đường của bạn có thập giá và yêu thương không? Ta chỉ mừng các thánh thực sự khi ta nhận con đường của các thánh làm con đường của mình.
Sống Lời Chúa: Nếu bạn nghĩ “nhiều mối phúc quá, làm sao ‘ôm’ hết!” thì bạn chỉ cần chọn một mối phúc thôi. Bạn thử đi, điều tuyệt vời sẽ xảy ra đấy!
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đường mà Chúa đề nghị các môn đệ Chúa bước đi là con đường đầy thách đố. Nhưng với ơn Chúa đỡ nâng, con sẽ đủ sức. Con chọn con đường này. Xin Chúa ban ơn giúp sức con. Amen.
www.5phutloichua.net

NƯỚC TRỜI LÀ CỦA HỌ
Khi chiêm ngắm các thánh, ta có thể hiểu nên thánh là gì. Nên thánh là để cho tình yêu chi phối toàn bộ cuộc sống, là ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình để sống hết tình cho Thiên Chúa và tha nhân.

uy nim:
Nếu chúng ta được lên trời để thăm các thánh,
hẳn chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước sự đa dạng.
Các thánh không phải chỉ là những vị được tôn phong,
mà là tất cả những ai đang hưởng hạnh phúc trên trời.
Các thánh thật khác nhau về nhiều mặt:
giới tính, tuổi tác, màu da, tiếng nói, nghề nghiệp,
hoàn cảnh, thời đại, bậc sống, khả năng, tính tình...
Có người không biết viết như thánh nữ Catarina Siêna.
Có người đậu tiến sĩ triết hạng tối ưu như thánh Edith Stein.
Có người làm bao phép lạ phi thường như ngôn sứ Êlia.
Có người sống âm thầm như chị Têrêsa nhỏ.
Nói chung chẳng gì có thể ngăn cản chúng ta nên thánh,
vì Thiên Chúa muốn mọi người nên thánh chẳng trừ ai.
Các mối phúc là con đường nên thánh.
Con đường này chính Ðức Kitô đã đi và mời ta cùng đi.
Ngài mời ta có tâm hồn nghèo khó, hiền lành,
nghĩa là hoàn toàn tín thác vào một mình Thiên Chúa,
có lòng khát khao sự công chính, chỉ mong làm trọn ý Ngài.
Trong tương quan với tha nhân, Ðức Kitô mời ta
có lòng thương xót, biết đau nỗi đau của người khác,
có tâm hồn trong sạch, nghĩa là sống ngay thẳng, chân thành,
có tinh thần xây dựng hòa bình và công bằng xã hội,
nghĩa là chăm lo phát triển toàn diện từng người và mọi người.
Sống các mối phúc trên là chấp nhận mối phúc bị bách hại.
Mỗi vị thánh đều sống nổi bật trong một số mối phúc.
Họ đã nếm phần nào hạnh phúc từ đời này
trước khi hưởng hạnh phúc trọn vẹn bền vững trên trời.
Chúng ta thường nghĩ nên thánh là chuyện cao siêu
dành cho một thiểu số hết sức đặc biệt.
Thật ra mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh.
“Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời.”
Chỉ Thiên Chúa mới là nguồn mọi sự thánh thiện.
Ngài mời chúng ta chia sẻ sự thánh thiện của Ngài.
Nên thánh là đáp trả lời mời đó.
Khi chiêm ngắm các thánh, ta có thể hiểu nên thánh là gì.
Nên thánh là để cho tình yêu chi phối toàn bộ cuộc sống,
là ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình
để sống hết tình cho Thiên Chúa và tha nhân.
Nên thánh là luôn lắng nghe tiếng Chúa
và trung thành đáp lại trong giây phút hiện tại.
Nên thánh là yêu mến cuộc sống mà Chúa tặng trao,
là để cho Chúa yêu mình, nắm tay mình,
dắt mình vào thế giới riêng tư của Chúa.
Nên thánh là thuộc trọn về Chúa và về anh em,
là để Chúa dần dần chiếm lấy mọi chỗ của đời mình.
Chúa mời tôi nên thánh với con người và hoàn cảnh riêng.
với sa ngã của quá khứ và mỏng giòn của hiện tại,
với cái dằm vẫn thường xuyên làm tôi nhức nhối.
Chúa muốn tôi nên thánh với mặt mạnh, mặt yếu của tôi.
Ước gì đời tôi vén mở một nét nào đó của Chúa.
Cầu nguyn:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Chân phước Charles de Foucauld)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".


Con đường nên thánh
Có một cô bé, muốn được cảm thấy thế nào là câm, nên đã quyết định không nói một lời nào trong vòng 7 ngày. Ngày đầu tiên cô bé đi mua hàng với mẹ. Những người bán hàng đã mỉm cười khi thấy cô bé cố gắng làm hiệu cho biết món hàng cô bé cần. Có người cố tình đụng vào cô bé làm cô bé ngã lăn ra đất. Cô bé thầm nghĩ: đây là cách mình bị xúc phạm, mình bị tổn thương. Cuối cùng thì một tuần lễ cũng trôi qua và cô bé hớn hở bảo: Tôi thật hạnh phúc và biết ơn vì có thể nói được.
Hằng ngày trên thế giới có biết bao nhiêu người bị xúc phạm, bị tổn thương, hay gặp phải những điều bất hạnh và khổ đau. Thế nhưng Chúa Giêsu luôn đứng về phía họ khi Ngài phán với chúng ta: Phúc cho những người khó nghèo, những người khổ đau, những người hay thương xót, những người bị bách hại, những người yêu chuộng hoà bình, những người có lòng trong sạch... vì Nước Trời là của họ.
Với những lời chúc phúc trên đây, chúng ta hãy nghĩ tới những người đau yếu bệnh tật, những người mù loà, què quặt, những người già cả cô đơn, những người dốt nát, ít học và thất nghiệp. Tâm hồn họ dường như lúc nào cũng lo âu, tuyệt vọng. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến những người không nhà ở, thiếu cơm ăn áo mặc, những người khác màu da, khác tiếng nói bị xã hội khinh bỉ và kỳ thị. Tất cả những người này, nhiều lúc đã lâm vào một cảnh buồn sầu chán nản, thiếu can đảm và nghị lực. Họ luôn lo âu và sợ hãi bởi vì họ bị hành hạ, bị đối xử một cách bất công. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy, Chúa Giêsu luôn đứng về phía họ, Người yêu thương và chúc phúc cho họ: Hỡi những ai mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi.
Nếu như hôm nay chúng ta đang gặp phải những thử thách trên đây, thì hãy tin tưởng vào tình thương của Chúa, bởi vì chúng ta đang được Ngài yêu thương và chúc phúc. Đồng thời, hôm nay cũng là một dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về vấn đề này khi chúng ta tôn vinh các thánh, bởi vì các ngài đều đã trải qua những khổ đau và bất hạnh trong cuộc đời, thế nhưng các ngài đã biết lợi dụng chính những khổ đau và bất hạnh ấy để thăng tiến trên đường thánh thiện, cũng như giành lấy tình thương và phúc lành của Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã làm được gì để tiến bước trên con đường thánh thiện giữa lòng cuộc đời chúng ta?

Thánh ý Thiên Chúa chính là mong muốn chúng ta hạnh phúc.
Thánh ý Thiên Chúa chính là ước mong chúng ta nên Thánh.
Khi Đức Giêsu giảng khai mạc nước trời, Người mở miệng nói về hạnh phúc để cho chúng ta biết bí quyết hạnh phúc: Phúc thay, Phúc thay... Đồng thời mời gọi chúng ta nên Thánh. Tất cả tóm lại một điều: Hãy nên toàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng toàn thiện.
Con Thiên Chúa
Điều làn Đức Giêsu đầy hoan lạc chính là sự liên kết sống động vời Thiên Chúa. Người gọi Thiên Chúa là: Cha Tôi và Cha anh em. Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa là Chân Lý, Thiên Chúa là ánh sáng và là Thiện Mỹ, Thiên Chúa là Sự Sống. Cho nên chiếm hữu Thiên Chúa chính là chiếm hữu tất cả, chúng ta được mãn nguyện. Chính vì thế, thiếu vắng Thiên Chúa, cắt đứt những cầu nối giữa Thiên Chúa, chính là mất tất cả.
Do đó, “Được lời lãi cả thế gian, mất linh hồn nào được ích gì?”. Không có Chúa Cha, Đấng ban cho ta tất cả, chúng ta không có gì hết, vì chúng ta không còn gì nữa. Chúng ta không còn liên hệ sống động thân tình con với cha rất đáng mến của chúng ta, chúng ta không còn sinh tồn nữa.
Nếu không muốn khốn nạn.
Nếu chúng ta chất đầy giầu sang, âu yếm và mọi danh vọng quyền thế của thế gian sẽ phương hại đến sự liên đới của chúng ta với Thiên Chúa. Lúc đó thật “Vô phúc cho chúng ta”, Đức Giêsu không chúc dữ chúng ta, nhưng Người tuyên bố cho biết những khốn khổ, “Không có Ta, các ngươi không thể làm chi được”, các ngươi không thể làm gì hết. Trái lại, nếu Thiên Chúa ở với chúng ta, lúc đó trong chúng ta đầy vẻ đẹp nghèo khó, bị bắt bớ, đầy vẻ đẹp xót thương, chịu đựng đói khát, và tự đáy con tim chúng ta tràn đầy hạnh phúc. Đó là cấu trúc của tất cả hạnh phúc.
Vậy ngay từ bây giờ chúng ta muốn được sống lại lúc giờ chết của chúng ta, chúng ta còn thời giờ để lên Thánh theo lời Chúa dạy chúng ta ở đời này. Cần thiết phải trở về với Chúa ngay. Đây là dịp may cuối cùng cho những ai biết lắng nghe lời Chúa.
J.M

Những bậc thang của giá trị
Hôm nay lễ Các Thánh Nam Nữ, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô củng cố lại định hướng căn bản và xác định lại bậc thang giá trị trong cuộc sống. Trong một Thánh Lễ kết thúc một hội nghị liên tôn tại Rôma vào năm 1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói đến những căn bệnh xã hội hiện đại. Ngài nói rằng cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỷ XX đã không mang lại được những tiến bộ về mặt tinh thần và luân lý. Trước đám đông tụ họp tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã đặt câu hỏi như sau:
"Nhìn vào hiện trạng của nhân loại có quá đáng lắm không khi chúng ta nói đến một cơn khủng hoảng về văn minh?"
Ngài giải thích như sau:
"Chúng ta chứng kiến những tiến bộ vĩ đại về kỹ thuật, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đi đôi với sự tiến bộ về tinh thần và luân lý, chúng ta cũng thấy khoảng cách ngày càng gia tăng giữa người giàu và người nghèo trên bình diện cá nhân cũng như quốc gia".
Cơn khủng hoảng về văn minh mà Đức Thánh Cha nói đến hẳn cũng được biểu hiện trong bậc thang giá trị mà con người thời đại chọn lựa. Ở chóp đỉnh của bậc thang này chắc chắn không phải là những giá trị tinh thần, luân lý và đạo đức mà là của cải vật chất, quyền bính, danh vọng và lạc thú. Con người không được đánh giá dựa trên những giá trị tinh thần và luân lý mà chỉ trên cơ sở của tài năng, tiền của, quyền bính và danh vọng.
Lễ Các Thánh hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô chúng ta xác định lại bậc thang các giá trị trong cuộc sống của chúng ta. Là những người lữ hành trong trần thế, chúng ta không ngừng được mời gọi để ngước nhìn lên thiên đàng. Hưởng dùng của cải vật chất nhưng chúng ta lại được mời gọi để tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Sống trong xã hội trần thế nhưng chúng ta phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị của Nước Trời. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta không tiến bước trong đơn độc vì đã có biết bao người đi trước và chỉ cho chúng ta con đường để bước tới.
Hôm nay, chúng ta được nhắc nhở để nhìn lên những con người ấy, họ - tức các thánh không phải là những con người phi thường. Các ngài cũng chỉ là những con người bình thường như mọi người bình thường khác, nhưng đã sống đời thường một cách phi thường. Chính vì thế mà các ngài mới có thể là mẫu mực để chúng ta noi theo, chúng ta ngước mắt nhìn lên các thánh trên trời đã đành, mà cũng được mời gọi để nhìn vào cuộc sống tại thế này. Ở đây, hàng ngày chúng ta tiếp cận với không biết bao nhiêu vị thánh sống. Họ không cần phải là những người có hào quang chiếu sáng bằng những kỳ công hay nhân đức phi thường. Họ là tất cả những ai trong cố gắng mỗi ngày phấn đấu không ngừng để luôn đặt những giá trị tinh thần và luân lý vào chỗ cao nhất trong bậc thang giá trị. Chúng ta đồng hành với những vị thánh âm thầm vô danh kia và chúng ta cũng được mời gọi để không ngừng thể hiện sự thánh thiện đời thường ấy, bởi vì thánh thiện như Công Đồng Vatican II đã khẳng định là ơn gọi chung của mọi người tín hữu.
Nguyện xin các thánh cầu thay nguyện giúp để chúng ta luôn ý thức được ơn gọi nên thánh ấy.
Lạy Chúa,
Chúng con phải lao đao vất vả vì cuộc sống mỗi ngày. Xin cho chúng con luôn biết hướng về trời cao, để biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu, ngõ hầu sau cuộc đời tạm bợ này chúng con được về hưởng nhan Chúa cùng với các thánh của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
1 THÁNG MƯỜI MỘT
Các Thánh Của Chiên Con
“Tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn” (Kh 7,14). Những lời này trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ được trích đọc trong phụng vụ hôm nay. Ngày Lễ Các Thánh, Giáo Hội trên khắp hoàn cầu tôn vinh tất cả những ai đã được hưởng trọn vẹn ơn cứu độ. Họ là những người – theo cách nói của Sách Khải Huyền – ’đã tung hô lớn tiếng: “Chính Thiên Chúa chúng ta… và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta” (Kh 7,10).
Quả vậy, những người này đã được đóng ấn bằng Máu Con Chiên. Họ mang trong mình dấu ấn ơn cứu chuộc, là nguồn sự sống và sự thánh thiện: “Phàm ai đặt hy vọng nơi Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch” (1Ga 3,3).
Thiên Chúa là Đấng thánh, Đấng cực thánh, và Ngài mời gọi con người nên thánh. Hôm nay, Giáo Hội chan hòa niềm hân hoan nơi tất cả những ai đã đáp trả trọn vẹn tiếng gọi này, những ai đã thông dự vĩnh viễn vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Vì thế, một lần nữa, lời cầu nguyện vang lên từ đáy tâm hồn chúng ta, vang lên tới tận thiên đình trong ngày lễ trọng đại này:
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho Hội Thánh được mừng công phúc và vinh quang của toàn thể chư thánh. Xin ban cho dân Chúa, nhờ lời chuyển cầu của các thánh trên trời, được hưởng dồi dào lòng Chúa xót thương …”
Với Kinh Truyền Tin, chúng ta đặc biệt nói với Đấng mà Giáo Hội tôn dương là Nữ Vương Các Thánh: “Bà được chúc phúc giữa các phụ nữ”, "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1, 35).
Lạy Mẹ Maria,
nơi Mẹ, chúng con khát khao tôn thờ Thiên Chúa,
vì món quà thánh thiện được trao ban cho nhân loại
là Đức Giêsu Kitô.
Chúng con xin Mẹ thương
chuyển cầu cho các tín hữu đã qua đời,
nhờ đó Giáo Hội được trọn vẹn niềm vui
trong ngày đại lễ mừng kính Chư Thánh hôm nay.
+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 01-11
Các Thánh Nam Nữ;
Kh 7, 2-4.9-14; 1Ga 3, 1-3; Mt 5, 1-12a.
LỜI SUY NIỆM: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.: (Mt 5,6).
          Khi Chúa Giêsu nhìn thấy đám đông đi theo Ngài để nghe Ngài giảng dạy, Ngài đã cho họ biết những gì là phúc thật, cho cả đời này lẫn đời sau. Đời sống tại thế gian này là một chiến trường, mà tất cả mọi con người muốn chiếm được hạnh phúc cần phải chiến đấu và phải chiến thắng với tất cả nghịch cảnh của nó. Nhất là đối với những Ki-tô hữu luôn phải lội ngược dòng của thế gian. Nếu chúng ta không tỉnh táo và gắng hết sức thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi theo dòng chảy của nó. Các Thánh Nam Nữ là những người đã đi trước chúng ta và các ngài đã chiến thắng, đã chạy đến cùng đích. Mỗi một người chúng ta phải ao ước, để được trở nên người công chính trước mặt Thiên Chúa và con người. Chúa sẽ ban đủ ơn để chúng ta được toại nguyện.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 01-11
CÁC THÁNH NAM NỮ
Trước hết đây là lễ các Thánh tử đạo. Vào đầu thế kỷ V, Đức giáo hoàng Bonifaciô IV đã nhận từ tay hoàng đế một đền thờ ngoại giáo, đền Panthéon. Được dựng để tôn vinh các thần. Ngài đã biến thành đền thờ dâng kính Đức Trinh Nữ Maria và các thánh tử đạo. Xác các thánh an nghỉ trong các hang toại đạo được chuyển về nhà thờ trong một cuộc lễ huy hoàng. Mỗi năm các tu viện đều nhắc lại kỷ niệm này.
400 năm sau, Đức Giáo hoàng Grêgôriô IV quyết định rằng việc tôn kính long trọng này phải hướng về các thánh nam nữ đã được tôn phong hay chưa được biết đến vì không có sự đặc biệt nào của các Ngài chói sáng trên trần thế, nhưng ý chí và việc làm lành thánh của các Ngài được Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng biết đến.
Trong thánh lễ hôm nay, Phúc âm kể ra những người chiếm hữu được hạnh phúc chân thật, những người có tinh thần nghèo khó hiền lành biết thương xót, có lòng trong sạch ăn ở thuận hòa, sẵn sàng bách hại vì sự công chính. Tất cả đều vui sướng vì phần thưởng bội hậu chời đón họ trên trời. Lễ các thánh là lễ của người muốn nên lành thánh.
* LỊCH SỬ
Lễ các thánh nam nữ đã có từ thế kỷ thứ IV. Thánh Ephraim người Syrie và thánh Gioan Kim Khẩu đều biết đến một ngày lễ mừng các thánh tử đạo vào ngày 13.5 hằng năm. hay rõ hơn là Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lễ này vẫn còn trong lịch sử phụng vụ của Giáo Hội Hy Lạp và được gọi là Chúa nhật chư thánh.
Trong Giáo Hội Tây Phương cũng có một thánh lễ từ thế kỷ thứ VII, lễ toàn thể các thánh tử đạo mừng vào ngày 13.5. Đó là ngày lễ thánh hiến đền Panthéon của Rôma, để Kính Đức Trinh Nữ Maria và toàn thể các thánh tử đạo vào ngày 13.5.609.
Lễ chư thánh (toàn thể các thánh, chứ không dành riêng cho các thánh tử đạo) được mừng vào ngày 1.11 hằng năm, chỉ xuất hiện từ thế kỷ thứ VIII do các thầy Dòng Irland, và Anh Quốc, khi sang truyền giáo ở Âu Châu đã đem theo và trong thời gian ngắn đã phổ biến rộng khắp Âu Châu. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
01 Tháng Mười Một
Giòng Giống Vĩ Nhân

Cách đây mười năm, một người Pháp tên là Alfred de Pierrecourt để lại gia tài của ông là 2 triệu Mỹ kim với lời di chúc là phải sử dụng số tiền ấy để gây giống cho những người khổng lồ. Người thi hành di chúc của ông đã trích ra 1/4 số tiền để tìm và mang những người cao lớn vượt tầm mức về sống ở gần thành phố Rouen, khuyến khích họ lập gia đình với nhau. Nhưng chương trình gây giống những người khổng lồ này bị thất bại vài năm sau đó.
Cách đây non hai ngàn năm có một người cũng để lại một di chúc, một chương trình, nhưng không phải để gây giống cho những người khổng lồ về phương diện hình vóc mà là về phương diện tinh thần. Chương trình quen được gọi là "8 mối phúc thật" do Chúa Giêsu biên thảo. Trải qua bao thế hệ mãi cho đến thời đại chúng ta, vô số những tín hữu Kitô nhờ áp dụng chương trình này mà trở thành vĩ nhân.
Mừng kính những vĩ nhân ấy trong ngày lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta hãy noi gương các ngài đem ra thực hành mỗi mối phúc thật trong cuộc sống, để càng sống chúng ta càng phát triển, tiến bộ trên con đường thánh thiện mà Chúa Giêsu đã vạch ra cho mỗi người chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Thứ Năm 1-11

Lễ Các Thánh


N
gày lễ đầu tiên trong lịch sử để vinh danh các thánh là ngày tưởng niệm "các vị tử đạo" được cử hành vào đầu thế kỷ thứ tư. Vào đầu thế kỷ thứ bảy, sau làn sóng trộm cắp đột nhập các hang toại đạo, Ðức Giáo Hoàng Boniface IV đã cho thu lượm khoảng 28 toa đầy những hài cốt và chôn cất lại bên trong đền Pantheon, là đền thờ các thần của người La Mã, và ngài thánh hiến đền thờ này như một đền thờ Kitô Giáo. Theo sử gia của Giáo Hội là Bede Ðáng Kính, đức giáo hoàng có ý định rằng "việc tưởng nhớ các thánh trong tương lai có thể thay cho việc thờ phượng mà trước đây không được dành cho thần thánh nhưng thờ ma quỷ" (Về Việc Tính Toán Thời Giờ)
Nhưng việc thánh hiến đền Pantheon, cũng như ngày kính nhớ đầu tiên các vị tử đạo xảy ra vào tháng Năm. Nhiều Giáo Hội Ðông Phương vẫn kính nhớ các thánh vào mùa xuân, hoặc trong mùa Phục Sinh hoặc ngay sau lễ Hiện Xuống.
Tại sao Giáo Hội Tây Phương cử hành lễ này vào tháng Mười Một thì không ai hiểu. Người ta chỉ biết vào năm 800, thần học gia Alcuin người Anglo-Saxon cử hành lễ này vào ngày 1 tháng Mười Một, và người bạn của ông là Arno, Giám Mục của Salzburg cũng theo như vậy. Sau cùng, trong thế kỷ chứ chín, Giáo Hội La Mã đã chấp thuận ngày lễ này.

Lời Bàn

Ðầu tiên lễ này để kính nhớ các vị tử đạo. Sau này, khi Kitô Hữu được tự do tín ngưỡng, Giáo Hội đã dùng ngày lễ này để tỏ lòng kính trọng những người thánh thiện. Vào các thế kỷ đầu tiên, được coi là thánh thì chỉ cần một tiêu chuẩn là được nhiều người công nhận, ngay cả việc chấp thuận của vị giám mục cũng được coi là bước sau cùng để đưa vào niên lịch Giáo Hội. Việc phong thánh bởi đức giáo hoàng lần đầu tiên xảy ra vào năm 973; ngày nay việc phong thánh đòi hỏi cả một tiến trình lâu dài để chứng minh các đức tính thánh thiện. Bây giờ, lễ các thánh để kính nhớ các vị thánh vô danh cũng như nổi danh.

Lời Trích

"Sau đó, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế... 
[Một trong các kỳ mục] bảo tôi: "Họ là những người sống sót sau thời gian thử thách lớn lao; họ đã giặt sạch và tẩy áo mình tinh nguyên trong máu Con Chiên.'" (Khải Huyền 7:9, 14).
www.nguoitinhuu.com
 Các Thánh Nam Nữ
St
 Chúng ta đặc biệt suy tư về sự thánh thiện mà mọi người đều có thể đạt được trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Và để đạt được mục tiêu ấy, chúng ta phải thực hành giáo lý Hiệp Thông Các Thánh. Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về hàng ngũ đông đảo các thánh nam nữ thuộc mọi thành phần đã theo sát Chúa Kitô trên trần gian và hiện nay đang hoan hưởng thánh nhan Người trên thiên quốc. Ngày lễ này đã được thiết lập từ thế kỷ VIII.
Nên thánh trong đời sống thường ngày.
Chúng ta hãy vui mừng trong Chúa và mừng lễ để tôn vinh tất cả các thánh. Chúng ta hãy hợp với các thiên thần trong lời chúc tụng hân hoan dâng lên Con Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta nhớ lại lời Đức Gioan Phaolô II đã nói về kho tàng chân lý phong phú của Kitô Giáo trong phụng vụ, đặc biệt là trong ngày lễ Các Thánh. Theo đó, nguồn mạch mọi thánh thiện là chính Thiên Chúa. Theo đó, chúng ta sống mầu nhiệm Hiệp Thông Các Thánh qua Chúa Kitô một cách đặc biệt. Mục tiêu của ơn cứu độ phổ quát được biểu thị trong Thánh lễ. Đó là nguồn mạch sự thánh thiện cho tất cả những ai cố gắng sống Tám Mối Phúc Chúa Giêsu đã rao giảng. Trong thánh lễ, chúng ta tìm được niềm cậy trông bền vững vào tương lai vinh quang và cả chìa khóa để tìm ra tương quan giữa đau khổ và ơn cứu độ. Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh: Khi chúng ta cầu nguyện trong kinh Nhập Lễ, chiều kích căn bản của ngày lễ chúng ta mừng kính hôm nay là niềm vui: ‘Chúng ta hãy vui mừng trong Chúa và mừng lễ để tôn vinh các thánh.’ Kinh nghiệm ấy tương tự như những điều chúng ta cảm hưởng được trong một gia đình đông đúc, nơi chúng ta cảm thấy thân thương như ở nhà. Trong đại gia đình này, gồm có các thánh trên thiên đàng và những người còn sống đang nỗ lực tiến đến sự thánh thiện.
Hôm nay, Mẹ Giáo Hội mời gọi chúng ta đặc biệt nhớ đến những vị đã trải qua các gian truân và cám dỗ tương tự như chúng ta trên đường dương thế, nhưng hiện nay đang hưởng phúc trên trời. Có một đoàn rất đông, không ai có thể đếm nổi, từ mọi quốc gia, mọi chi họ, và mọi ngôn ngữ. Trong bài đọc Một hôm nay, chúng ta đọc như thế, Họ được đóng dấu trên trán như những tôi trung của Thiên Chúa. Giáo Hội tôn nhận nhiều vị thánh thuộc đủ mọi lứa tuổi và điều kiện sống. Hằng năm, chúng ta nhớ đến các ngài và nhờ các ngài cầu bầu cho nhiều nhu cầu khác nhau của chúng ta. Dấu ấn các ngài lãnh nhận và áo trắng các ngài rửa trong máu Con Chiên là biểu hiện của phép Rửa Tội. Bí tích khai tâm này làm cho chúng ta được tháp nhập vào Chúa Kitô, cuộc sống ân sủng này sau đó còn được đổi mới và thăng tiến nhờ các bí tích khác, nhất là bí tích Xá Giải và Thánh Thể. Việc lành cũng góp phần làm tăng triển kết quả việc được thông phần vào bản tính thần linh Chúa trong cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Hôm nay, chúng ta vui mừng và nài xin các thánh nam nữ, những người đã đến thiên đàng sau khi vượt qua cuộc đời này phù trợ cho chúng ta. Có lẽ trong khi còn sống, các ngài đã làm những công việc giống như chúng ta. Các ngài có thể là thợ thủ công, nhân viên văn phòng, giáo sư đại học, thương gia, thư ký, v.v…. Chắc hẳn các ngài cũng phải đương đầu với những khó khăn tương tự như chúng ta và đã phải bắt đầu đi bắt đầu lại nhiều lần, giống như chúng ta phải nỗ lực hằng ngày.
Giáo Hội không đề cập đầy đủ danh tính các thánh trong lễ qui. Nhưng nhờ ánh sáng đức tin, chúng ta hiểu rằng các ngài tạo nên một toàn cảnh huy hoàng về những con người nam nữ, qua việc không mệt mỏi thực thi những công việc hằng ngày trong vườn nho Chúa. Sau khi đã sống cuộc đời âm thầm chẳng được ai biết đến, và có thể còn bị những người quyền cao mạnh thế hiểu lầm, các ngài đã được Thiên Chúa đón nhận. Các ngài là những người thợ khiêm tốn, nhưng vĩ đại, đối với công cuộc phát triển nước Chúa trong lịch sử. Tóm lại, các ngài là những con người, nhờ ơn phù trợ của Thiên Chúa, đã biết cách giữ gìn và hoàn tất lý tưởng thánh thiện đã được lãnh nhận khi chịu phép Thánh Tẩy.
Chúng ta được mời gọi hãy vươn đến một đức ái hoàn thiện, đó là cuộc chiến chống lại các đam mê xấu và những khuynh chiều buông tuồng. Chúng ta phải luôn nỗ lực để tu chỉnh, bởi vì sự thánh thiện không tùy thuộc vào bậc sống – độc thân, có gia đình, góa bụa, linh mục – nhưng vào sự đáp ứng với ơn Chúa ban cho từng người. Giáo Hội nhắc nhớ mọi người, kể cả người công nhân đảm đương công việc và người mẹ tận tụy với gia đình, hãy phấn đấu nên thánh qua việc chu toàn bổn phận hằng ngày của mình.
Thật an ủi khi nhận thấy những người đã từng sống với chúng ta trước đây ít lâu hiện giờ đang được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa. Chúng ta vẫn liên đới với họ nhờ tình thân ái và tình cảm sâu sắc trong mầu nhiệm Hiệp Thông Các Thánh. Từ trời cao, các ngài sẽ phù hộ chúng ta, và chúng ta nhớ đến các ngài trong niềm vui và xin cầu bầu cho chúng ta. Hôm nay, chúng ta mượn lời thánh nữ Têrêxa để cầu nguyện cùng các phúc nhân thiên đàng: Ôi các đấng thánh thiện, các ngài quá biết cách để chuẩn bị tiếp nhận một gia nghiệp quí đẹp như thế, xin phù giúp chúng con, bởi vì các ngài rất gần gũi nguồn mạch mọi sự thánh thiện. Xin kín múc cho chúng con nước uống vì chúng con đang chết khát.
Ơn gọi nên thánh phổ quát.
Trong ngày đại lễ hôm nay, chúng ta cầu nguyện trong kinh tiền tụng: Lạy Cha, hôm nay chúng con mừng lễ của thành thánh Cha là Jerusalem thiên quốc. Những anh chị em của chúng con là các thánh giờ đây đang chúc tụng Cha muôn đời quanh ngai tòa Cha và vinh quang của các đấng ấy làm cho chúng con được chan chứa niềm vui. Sự hợp nhất của chúng con với các ngài qua Giáo Hội Cha đem lại cho chúng con niềm phấn khởi và sức mạnh khi chúng con vội vã trên đường lữ hành đức tin, hăm hở được gặp gỡ các đấng ấy. Là tín hữu, chúng ta cũng là khách lữ hành trên con đường về trời. Trong khi đang tiến bước, chúng ta cần tích lũy những việc lành để một ngày kia có thể dâng tiến Thiên Chúa. Chúng ta nghe lời Chúa kêu mời thiết tha: Nếu ai muốn theo Ta…
Mỗi người đều được mời gọi sống đời Kitô hữu viên mãn qua công việc nghề nghiệp của mình. Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta gặp được Người trong công việc được thực hiện tử tế và hoàn hảo với một cái nhìn siêu nhiên. Chúng ta khao khát Chúa, Đấng một ngày kia chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng. Vì thế, chúng ta dâng hiến tất cả những hành vi của chúng ta cho Chúa, sống đức ái với tha nhân, quảng đại chu toàn công việc được ủy thác. Qua cuộc sống với Thiên Chúa, Cha chúng ta một cách thân mật, chúng ta có thể không ngừng làm cho tinh thần chiêm niệm của mình trở nên tinh tế giữa những hoạt động thường ngày. Chúng ta có thể nhiều lần lặp lại những bổn phận nào đó trong sự kết hợp với Chúa. Yêu mến Chúa và phụng sự Người không nhất thiết là phải làm những việc phi thường. Chúa Kitô đã đòi hỏi mọi người, không trừ ai, ‘Hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành’ (Mt 5:48). Đối với đa số, nên thánh chỉ là thánh hóa công việc, bản thân, và tha nhân qua tất cả những hoàn cảnh của công việc. Như vậy, chúng ta gặp được Thiên Chúa trong tất cả những con đường của cuộc sống.
Các phúc nhân – các bà mẹ, các nhà trí thức, và các thợ thuyền - đã làm gì để chiếm được thiên đàng? Đó là vấn đề vô cùng quan trọng bởi vì chúng ta đều khát khao được sống bên Chúa muôn đời trên Nước Trời. Những ai kiên trì kết hợp với Chúa Kitô sẽ cố gắng thánh hóa các thực tại nhỏ mọn hằng ngày mà Thiên Chúa đã ưu ái xếp đặt trong cuộc sống. Nếu một lúc nào đó thiếu trung thành, chúng ta hãy lập tức chấn chỉnh và rồi tiếp tục trên con đường ngay chính. Đó là cách sống của chúng ta ở đời này.
Chiếm được thiên đàng là thách đố mà chúng ta - nhờ ơn Chúa - phải đương đầu mỗi ngày. May phúc thay, việc ấy lúc nào cũng liên quan đến nhiệm vụ hiện tại của chúng ta và những người Thiên Chúa muốn đặt để bên cạnh chúng ta. Chúng ta cần nhận thức rằng quyết tâm sống quảng đại và thánh thiện của chúng ta luôn luôn có một ảnh hưởng quan trọng đối với tha nhân. Nếu nhờ ơn Chúa và sự hỗ trợ của tha nhân mà chúng ta đạt được thiên đàng, thì chúng ta cũng không được vào vinh quang muôn đời một mình, nhưng phải lôi kéo nhiều người khác lên đó cùng với chúng ta.
Chúa Kitô là gương mẫu sự thánh thiện.
Nhiều phúc nhân hiện đang chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa trên thiên đàng có lẽ khi còn sống đã không có dịp để thực hiện những việc vĩ đại. Tuy nhiên, các vị ấy đã chu toàn những phận sự hằng ngày một cách trọn hảo hết khả năng. Đôi khi họ cũng lầm lỗi – đầu hàng trước bất nhẫn, lười biếng, và kiêu ngạo – và có thể cũng sai phạm nặng nề. Tuy nhiên, các vị ấy đã mau mắn sám hối và nhờ bí tích Hòa Giải để bắt đầu lại. Các phúc nhân có những tâm hồn lớn lao và đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, bởi vì các ngài biết hiến mình cho Chúa Kitô. Chúng ta rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa trong cuộc hành trình về trời. Hoặc nhiều hoặc ít, mỗi người đều phải trải qua bệnh tật, thử thách và những lúc chán nản cần phải nỗ lực đặc biệt. Chúng ta có thể gặp thất bại hoặc thành công. Có lẽ các thánh cũng đã chảy nước mắt, nhưng các ngài hiểu biết và thực hành lời Chúa mà chúng ta đọc trong thánh lễ hôm nay: Hãy đến với Ta hỡi tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Các phúc nhân lúc nào cũng nương cậy nơi Chúa. Các ngài năng kính viếng nhà tạm để tìm sức mạnh cho bước đường lữ hành. Trong cuộc sống, tính cách của các ngài rất khác biệt, nhưng các ngài có một điểm chung: đó là sống yêu thương với mọi người chung quanh. Chúa Giêsu đã nói: Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau. Đó là mẫu số chung của các thánh, những vị giờ đây đang hưởng kiến Thiên Chúa.
Vô số bè bạn đang đợi chờ chúng ta trên quê trời. Gương sáng các ngài chiếu giãi và giúp chúng ta dễ dàng nhìn được điều chúng ta phải thực hiện. Các ngài có thể giúp chúng ta bằng lời cầu nguyện, lời cầu nguyện thần thế, lời cầu nguyện khôn ngoan, trong khi lời cầu nguyện của chúng ta thật yếu đuối và tăm tối. Khi nhìn lên bầu trời vào đêm tháng Mười Một và nhìn thấy một khoảng trời đầy sao lấp lánh, bạn hãy nghĩ đến vô số các thánh trên thiên đàng đang sẵn lòng giúp đỡ bạn. Các ngài sẽ làm cho chúng ta vui mừng giữa những thử thách gian truân chúng ta đang gặp phải. Đức Mẹ cũng đang chờ chúng ta trên quê trời. Mẹ giơ tay giúp đỡ và đưa chúng ta đến gặp Con Mẹ, và cả những người thân yêu của chúng ta đã ly trần cũng đang mong đợi chúng ta.

Ngày 1 tháng Mười Một
Lễ các thánh
Các thánh là những người sống như chúng ta, nhưng các ngài đã thắng vượt được những cạm bẫy của ma quỷ, thế gian và xác thịt. Các ngài đã từ bỏ hoàn toàn để trung thành với Chúa qua cuộc sống hằng ngày. Xưa kia chịu đau khổ, nhưng ngày nay các ngài được vinh hiển. Các ngài đã sống chính cuộc sống của Chúa giữa những người xung quanh. Các ngài cũng như chúng ta, thuộc đủ mọi thành phần, mọi giai cấp. Nhưng khác một điều là các ngài biết mau mắn đáp lại lời gọi nên thánh của Chúa.
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ đến các ngài, chúng ta hãy suy nghĩ về cuộc sống của chính chúng ta. Cuộc sống đó phải được nung nấu bằng lòng kính mến Chúa và yêu thương anh em đồng loại. Mỗi người chúng ta phải tự nói như thánh Augustinô: "Ông kia bà nọ nên thánh, tại sao tôi lạikhông?". Chúng ta hãy noi gương các thánh là những người anh em, bạn bè, ân nhân và những đấng đang phù trợ cho chúng ta trước tôn nhan Thiên Chúa.
Nguyện xin các thánh nhìn đến và cầu bầu cho chúng ta được vượt qua tất cả những chông gai, cay đắng của cuộc đời để sau này chúng ta cũng hy vọng được liệt vào số những người Chúa chọn.
Thánh Hiêronimô LIÊM (HERMOSILLA), giám mục;
Thánh Giuse NGUYỄN DUY THẮNG, thầy giảng;
Thánh Valentinô VINH (BERRIO OCHOA), giám mục;
và Thánh Phêrô BÌNH (ALAMATO), linh mục
(+ 1861)
- Ðức Cha Hiêronimô Liêm sinh ngày 30-12-1800 tại Santo Domingo de la Calzada, Tây Ban Nha. Năm 19 tuổi, ngài gia nhập dòng thuyết giáo, và được gửi tới Phi Luật Tân năm 1825. Một năm sau, ngài thụ phong linh mục và đến Bắc Phần năm 1829, đang thời cấm đạo của vua Minh Mạng. Từ lúc đặt chân lên đất Việt, ngài luôn phải lén lút để thi hành sứ mạng truyền giáo. Ngày 25-03-1841, ngài được tấn phong Giám mục cách bí mật. Khi trở về nhiệm sở, ngài bị bắt; sau đó được trả tự do nhờ số tiền chuộc. Cơn bách hại càng ngày càng gắt. Từ tháng 9-1861, ngài cùng với thầy Giuse Khang phải tạm trú trên thuyền bè của các giáo hữu. Nhưng sau đó cả hai đều bị tố giác. Các ngài bị bắt ngày 20-10 và bị giải về Hải Dương. Ngày 01-11 năm đó, Ðức Cha Hiêronimô cùng thầy Khang bị chém đầu tại pháp trường Năm Mẫu (Hải Dương).
- Thầy Giuse Khang sinh năm 1832 tại Nam Ðịnh. Ngài giúp Cha già Ðà Nẵng từ năm 13 đến năm 24 tuổi. Sau đó, ngài gia nhập Chủng Viện Kẻ Mốt. Vì tình trạng cấm đạo, Chủng Viện bị giải tán, ngài xin theo giúp Ðức Cha Hiêronimô Liêm. Cuối cùng, ngài bị bắt và chịu tử đạo cùng ngày với Ðức Cha Liêm.
- Ðức Cha Valentinô Vinh tên thật là Derrio Ochoa, chào đời ngày 14-04-1827 tại Vitoria, Tây Ban Nha. Ngài thụ phong linh mục ngày 14-06-1851, gia nhập dòng Ða Minh ngày 06-10-1853 và được gửi tới Bắc Hà ngày 30-03-1858, dưới thời cấm đạo của vua Tự Ðức. Tại đây, ngài lãnh nhận trách nhiệm phụ tá cho Ðức Giám mục. Khi Ðức Giám mục bị xử tử, ngài được chọn lên kế vị coi sóc địa phận Trung ngày 13-06-1858. Cuộc đời chủ chăn của ngài đầy gian nan khổ cực. Chỉ bốn ngày sau khi được tấn phong, ngài phải trốn sang địa phận Ðông, trú trong hầm của một gia đình Công Giáo tại làng Hương La, tỉnh Bắc Ninh. Ðến năm 1861, ngài bị bắt trong lúc di chuyển qua Hải Dương. Ngày 01-11-1861, ngài bị trảm quyết tại Hải Dương.
- Cha Phêrô Bình sinh ngày 01-11-1830 tại San Felice Saserra, Tây Ban Nha. Ngài tới truyền giáo ở Bắc Phần năm 25 tuổi, với sức khỏe yếu kém. Quãng đời phục vụ tuy ngắn ngủi nhưng đầy gian nan. Cha bị bắt ngày 25-10-1861 cùng với Ðức Cha Vinh và bị xử chém ngày 01-11-1861 tại Hải Dương.
Ngày 20-05-1906, Ðức Giáo hoàng Piô X đã tôn phong bốn vị tử đạo kể trên lên bậc Chân Phước và Ðức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Hiển Thánh ngày 19-06-1988.
(theo WHD)
Giuse Nguyễn Duy Khang (1832-1861)

Giuse Nguyễn Duy Khang, thầy giảng, Dòng Ba Ða Minh; sanh 1832 tại Trà Vinh, Nam-Ðịnh; chết 6, tháng 12 1861, tại Hải Dương. Thánh Khang là người giúp việc cho Ðức Cha Hermosilla. Trong khi cố gắng cứu chủ thoát ngục, ngài bị bắt, bị trừng phạt 120 roi. Sau nhiều lần bị tra tấn, ngài bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1906
Một môn sinh trung thành.
Thánh Giuse Nguyễn Duy Khang được các tín hữu Việt Nam tôn kính trong số bốn thánh tử đạo Hải Dương. Tuy thánh nhân tử đạo sau hơn một tháng, nhưng vẫn được chung vinh dự với linh mục Almate Bình, hai Giám mục Valentinô Vinh và Hemosilla Liêm, vì đã cùng đồng lao khổ với ba vị huynh trưởng đó trong dòng Đaminh.
Là người trợ tá của Giám mục Hemosilla Liêm, thày Giuse Khang đã theo sát gương cha chung của giáo phận Đông Đàng Ngoài trong những ngày lưu lạc. Rồi khi quân lính vây bắt Đức cha thì với nhiệt tâm của thánh Phêrô tông đồ xưa trong vườn cây dầu, thày định dùng võ lực để chống cự. Nhưng sau cùng, thày đã nghe lời của vị mà mình muốn bảo vệ. Thày chấp nhận bị bắt để làm chứng cho điều cao thượng hơn : Làm chứng cho tình thương, cho lòng nhân ái và thứ tha của Tin Mừng.
Một tu sĩ đạo đức
Giuse Nguyễn Duy Khang chào đời năm 1832, tại Cao mại, xã Trà Vi, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Cha mẹ cậu là những giáo hữu đạo đức, hướng dẫn các con vào đời sống đạo ngày tư nhỏ. Nhưng cha cậu đã sớm qua đời, cậu được mẹ săm sóc tận tình. Bà lo niệu cho cậu được học hành, gợi cho cậu ý muốn hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa và gởi cậu vào nhà Đức Chúa Trời giúp việc cho cha Matthêu Năng dòng Đaminh.
Sau mười năm sống với vị linh mục lão thành thánh thiện này, cậu Giuse Khang được cha gửi vào chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng Latinh, chuẩn bị cho sứ vụ linh mục tương lai. Giai đoạn này thày Giuse Khang xin gia nhập dòng ba Đaminh, và được anh em tín nhiệm bầu làm trưởng tràng điều hành mọi ông việc trong nhà như lao động, nấu ăn, liên lạc cới các bề trên. Mặc dù bận rộn, thay Khang vẫn nêu gương sáng cho anh em trong việc học hành và kỷ luật. Những ai đã tiếp xúc với thày đều nói thày đạo đức, có tính cương trực, nhưng lại luôn luôn hòa nhã với hết thảy mọi người.
Khi đó, Đức cha Hemosilla Liêm cũng ở Kẻ Mốt đã tín nhiệm thày cách đặc biệt và chọn thày làm người phụ tá riêng. Thày Khang vui vẻ phục vụ Đức cha cách tận tình : từ việc dọn bàn thờ, sắp xếp các hồ sơ, sao chép các hồ sơ luân lưu, cho đến công tác cơm nước, liên lạc. Có lần thày còn đào hang trú ẩn cho hai cha nữa.
Mẫu gương can đảm.
Giáo Hội Việt Nam lúc ấy đang trong tình trạng bị bách hại khốc liệt, dưới thời vua Tự Đức. Để tiêu diệt hết đạo Gia Tô trong cả nước, nhà vua ban hành chiếu chỉ phân sáp ngày 05.8.1861. theo chiếu chỉ đó, mọi tín hữu Gia Tô già trẻ lớn nhỏ, nam nữ đều bị phân tán vào các làng ngoại giáo. các tín hữu bị khắc chữ trên má, gia đình bị phân chia, vợ một nơi, chồng một nẻo, con cái mỗi đưa một miền. Các thánh đường, nhà chung, tài sản của giáo hữu bị tịch thu, bị chia chác hay phá hủy.
Trong bối cảnh đó, ngày 18.9, Đức cha Hemosilla Liêm vô cùng đau đớn khi phải quyết định giải tán chủng viện Kẻ Mốt. linh mục Khoa, đại diện ngài nói với các chủng sinh: "Anh em khỏi chào Đức cha, kẻo ngài không cầm nổi nước mắt". Riêng thày Khang nhất quyết xin và được chọn để đi theo Đức cha cho tới cùng. Khi giã từ các bạn, thày nói nửa đùa nửa thật: "Tôi nhất định theo Đức cha, các quan có bắt ngài, ắt sẽ chẳng tha tôi. Đức cha chết vì đạo, tôi cũng chết theo, mất đầu còn chân sợ gì". Từ đêm đó, hai cha con bắt đầu sống lưu lạc. Tương lai tuy mờ mịt, nhưng thày Khang vẫn vui tươi nhờ lòng tin tưởng phó thác và tâm tình hiến dâng mạng sống nếu Chúa muốn.
Ba tuần lễ đầu, thày Khang cùng với Đức cha sống trong hang trú ẩn ở Thọ Ninh. Nhưng quan quân đã phát hiện nơi ẩn đó, nên hai cha con phải bỏ đất liền, xuống một thuyền đánh cá. Thày Khang chèo thuyền qua thị xã Hải Dương đến tá túc trên thuyền của một giáo hữu tên Bính. Chính nơi đây đã thành "Tòa Giám mục lưu động" của vị chủ chăn. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentinô Vinh và linh mục Almatô Bình đi thuyền từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc gặp gỡ vô cùng cảm động và vui mừng của bốn thánh tử đạo Hải Dương. Các vị tạ ơn Chúa vì cơ may đặc biệt này, trao đổi tin tức và cùng nhau cầu nguyện cho Giáo Hội. Đến sáng, các vị chia tay mỗi thuyền đi một ngả.
Một hôm gia đình Trương Bính xảy ra cuộc cãi lộn. Người con trai tức giận với cha mẹ nên tố cáo ông bà chứa chấp đạo trưởng. Thế là đội Bảng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha. Thấy họ tới nơi, thày Khang liền nhổ cây sào chống thuyền và chạy đến đứng chắn trước mặt họ như muốn ngầm bảo : phải bước qua xác tôi, rồi muốn bắt ai thì bắt.
Nhưng vị Giám mục khả kính và nhân ái đã đến nắm lấy vai thày, ngài nói: "Đừng làm gì hại họ, hãy phó mặc cho ý Chúa". Thày Khang ngỡ ngàng quay lại nhìn người cha già và chợt hiểu ra ý ngài, thày chỉ nói được một lời : "Thưa vâng", rồi bỏ sào tre xuống đưa tay cho lính trói. Lính giải hai vị vào thành Hải Dương và giam mỗi vị một nơi.
Vị tử đạo Hải Dương
Một tháng rưỡi trong tù, thày Khang được sống chung với một số giáo hữu. Thày liền tổ chức cho cả phòng giam đọc kinh chung mỗi ngày ba lần, và mỗi tối làm việc thống hối đền tội để chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo. Trong thời gian này, thày bị đưa ra tòa tra tấn ba lần, bị đánh đòn khắp hai bên mông. Lần nào thày cũng can đảm chịu đựng, không hề tiết lộ bất cứ chi tiết nào về hàng giáo sĩ, không chịu bỏ đạo như các quan yêu cầu. Sau mỗi trận đòn, các giáo hữu trong ngục đều nấu nước rửa và xoa bóp cho thày dịu bớt cơn đau.
Đặc biệt ở trong tù, thày Khang vẫn tiếp tục viết thư cho các bạn học đang lưu lạc ở làng Hảo Hội. một lá thư thày viết : "Các quan mới tra tấn tôi một kỳ để hỏi Đức cha đã ở những đâu, song tôi chẳng trả lời, trái lại vui lòng chịu đòn. Xin anh em cầu nguyện cho tôi".
Trong lá thư khác thày viết : "Anh em cho tôi một cái quần, vì quần tôi cũ, phải đòn nhiều đã rách nát. Cũng xin gửi cho tôi một cái khăn để khi tôi chết, có cái mà liệm xác đem chôn".
Ngày 06.12.1861, thày Giuse Khang được nghe bản án trảm quyết ở kinh đô gửi ra, thày vui vẻ theo lịnh ra pháp trường Năm mẫu, nơi đã thấm máu người cha kính yêu của thày ngày 01.11 trước đó. sau khi bị chém đầu, dân chúng địa phương an táng thi thể ngay ở ngoài ruộng.
Năm 1867, theo lệnh của Đức cha Hy, thày cai Hinh, anh ruột của vị tử đạo đã dời hài cốt em của mình về nhà nguyện Kẻ Mốt.
Ngày 20.5.1906, Đức Thánh Cha Piô X suy tôn thày Giuse Nguyễn Duy Khang lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ tu viện Đa Minh

Trường thi tử Đạo.

Nguyễn Duy Khang quê hương Cao Mại
Năm Nhâm Thìn (1832) sinh tại Thái Bình
Mẹ cha đạo đức nhiệt tình
Người cha mất sớm, một mình mẹ lo

Bà hướng dẫn gởi cho nhà Chúa
Cha Dòng Năng, nhận đứa trẻ ngoan
Mười năm dạy dỗ bảo ban
Gởi đi chủng viện nhà tràng Latinh

Nơi Kẻ Mốt chủng sinh đông đúc
Hết học kỳ kết thúc khấn dòng
Trưởng tràng tín nhiệm bầu xong
Thầy Khang kỷ luật hết lòng nêu gương

Mọi công việc đảm đương chu đáo
Việc học hành hoàn hảo đáng khen
Thầy đạo đức chẳng bon chen
Và luôn hòa nhã anh em đồng hành

Ðức Cha Liêm ghi danh chọn tuyển
Ðã nhận thầy, đại diện tháp tùng (Phòng bộ)
Thầy Khang vui vẻ hiếu trung
Theo ngài đi khắp các vùng quản cai

Lo sắp xếp cho ngài mọi việc
Từ văn phòng tới tiệc liên hoan
Ðào hầm trú ẩn vững vàng
Nói chung mọi việc sẵn sàng hy sinh

Sau chiếu chỉ Triều Ðình phân sáp
Ðóng cửa trường tản mác chia ly
Bốn phương mạnh ai cứ đi
Thầy Khang nhất quyết phù trì Ðức Cha

Bạn từ giã nói là đùa thật
Bắt Ðức Cha sẽ tất có thầy
Như lời tiên đoán sao đây
Cha con lưu lạc đó đây đêm ngày

Rồi bữa đó chẳng may bị bắt
Hai Cha con quan cắt chia ra
Ðức Cha án xử ngay mà
Thầy Khang tống ngục bị tra tấn nhiều

Thật khủng khiếp sớm chiều mông nát
Chí kiêu hùng sống thác không khai
Các nơi trú ẩn Ðức Ngài (Ðức Cha Hermosilla Liêm )
Giuse nghe án quan cai tử hình

Lệnh y án triều đình trảm quyết
Tại pháp trường thắm thiết Ðức Cha
Cách đây hơn tháng đó mà
Lý hình đã chém thế là đầu rơi

Quan chỉ chỗ đến nơi chôn cất
Ngoài pháp trường khoảng đất cánh đồng
Nơi đây rộng rãi mênh mông
Kêu là Năm Mẫu, máu hồng tuôn rơi

Mộ bia thầy ghi thời không rõ
Cai Hinh anh ruột cố tìm ra
Cải lên an táng quê nhà
Nguyện đường Kẻ Mốt để mà kính tôn

Phúc tử đạo tiếng đồn Tân Dậu (1861)
Mất thế gian trọng hậu Nước Cha
Bính Ngọ (1906) Toà Thánh Roma
Suy tôn Á thánh hoan ca thế trần

Lời bất hủ: Thầy Khang nói với bạn bè: "Tôi nhất định theo Ðức cha (Liêm), các quan có bắt ngài , ắt sẽ chẳng tha tôi, Ðức cha chết vì đạo, tôi cũng chết theo, mất đầu còn chân sợ gì". Khi lính đến bắt Ðức cha, thầy Khang toan dùng sào tre để chống cự cứu Ðức cha, ngài bảo: "Ðừng làm gì hại họ, hãy phó mặc cho ý Chúa". Thầy Khang chỉ nói được một lời "Thưa vâng".
Giêrônimô Hermosilla Liêm (1800-1861)

Giêrônimô Hermosilla Liêm, Giám mục Ða Minh; sinh 1800 tại Santo Domingo de la Calzada, Old Castile, Tây Ban Nha; chết 1, 11, 1861, Hải Dương. Sau khi khấn dòng Ða Minh, ngài được gửi đi Manila, nơi đây được thụ phong linh mục. Năm 1828, ngài được bổ nhiệm sang Việt Nam . Tháng Tư 1841, ngài thay thế Thánh Ignatius Delgado làm Ðại Diện Tông Tòa và được tấn phong Giám mục, điều này khiến cho ngài bị bách hại. Lễ kính ngày 01 tháng 11
Cột trụ giáo hội Việt Nam
Thánh Hermosilla Liêm là một trong ba vị thừa sai lỗi lạc và can đảm nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sánh bước với Đức cha Cuénot Thể (1835-61 giáo phận Đàng Trong) và đức cha Retord Liêu (1940-58, giáo phận Đàng Ngoài), ba cột trụ chống đỡ giáo hội Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn thời bách hại. Riêng Thánh Giám mục Liêm luôn luôn đứng đầu sổ truy nã của ba triều vua và các Tổng đốc Nam Định, đã khéo léo khi ẩn khi hiện, hoàn thành trách nhiệm một cách tuyệt vời.
33 năm thừa sai không một ngày yên ổn. 20 năm Giám mục chứng kiến bao cảnh tang thương, nhưng chính ngài đã chủ phong cho bốn Giám mục (Đức cha Jimenô Lâm, Marti Gia, Alcazar Hy và Sanjurjo An), và truyền chức cho nhiều linh mục bản xứ, đã điều khiển giáo phận Đông Đàng Ngoài phát triển vững chắc, đủ khả năng tách làm hai, và khi gục ngã dưới lưỡi gươm của lý hình thì theo sử gia Rodriguez: Ngón tay phải ngài vẫn chỉ lối cho nhân loại hướng đến một vì sao.
Thỏa niềm ước mong
Thánh Jeronimô Hermosilla sinh ngày 30.9.1800 tại Santo Domingo de la Calzada trong một gia đình tuy nghèo nhưng đạo đức (nước Tây Ban Nha). Từ nhỏ, cậu được theo học với các cha dòng Biển Đức và có ý định xin vào dòng này năm 15 tuổi. thời đó, nước Tây Ban Nha đang chịu sự thống trị của Napoléon I, các dòng tu không được nhận người. Hermosilla được giới thiệu qua học tại chủng viện giáo phận Valencia do các cha dòng Đaminh điều hành. Duyên kỳ ngộ này đã đưa cậu đến dòng Thuyết Giáo và lãnh tu phục năm 19 tuổi.
Năm sau (1820), nước Tây Ban Nha có loạn, một số tu viện phải giải tán, tài sản giáo Hội bị xung công, các giáo sĩ không tuyên thệ trung thành với hiến pháp mới đều bị bắt giam, bị lưu đầy hoặc bị giết. Hermosilla đành phải rời nhà Dòng, đăng ký vào quân đội cho đến năm 1823. Khi vua Fernando khôi phục lại quyền bính, cậu xin vào nhà tập và khấn dòng ngày 29.10.1823. Ba năm quân ngũ đã mãi mãi lưu lại với vị tu sĩ này tính xông pha, lòng gan dạ, và đức kiên nhẫn.
Năm 1824 khi đọc thư kêu mời của tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi Manila, thày Hermosilla và 11 người khác liền tình nguyện đi truyền giáo ở Viễn Đông. Sau sáu tháng lênh đênh trên biển, ngày 02.03 năm sau, 12 tu sĩ này đã đến Manila quỳ phục dưới chân cha Giám Tỉnh và thưa : "Này con đây xin hãy sai con". Quả là niềm vui lớn lao của tỉnh dòng, vì 20 năm qua, tỉnh dòng chỉ nhận được 27 người, bên cạnh con số 86 vị đã qua đời vì tuổi già. Năm 1826, thày Hermosilla lãnh chức linh mục và làm giám đốc Hội Mân Côi
Năm 1828, cha tình nguyện đến Việt Nam cùng với ba thừa sai Pháp, khởi hành từ Macao đến Bắc Việt ngày 02.05.1929, 9 giờ tối, cha tới trụ cha chính Amandi Chiêu và sáng hôm sau cha tới trình diện Đức cha Delgado Y.
Tả sao cho xiết niềm vui của vị Giám mục. Cả giáo phận Đông Đàng Ngoài chỉ có ba vị thừa sai, gồm hai Đức cha Y và Hernares Minh, cha chính hiền, nhưng cả ba vị đều già và bệnh tật. Vừa thấy vị thừa sai mới, Đức cha đã chạy ra và vui sướng : "Vọng! Vọng! Ước Vọng!". Và từ đó, Vọng trở thành tên gọi chính thức của cha Hermosilla.
Sau vài tháng miệt mài họctiếng Việt, cha Vọng đã không phụ lòng mong đợi của các bậc đàn anh. Cha hòa mình rất nhanh với các tín hữu cũng như người ngoại giáo, tất cả là hy sinh và yêu thương. Không hề mệt mỏi, vị thừa sai 30 tuổi không ngừng di chuyển thăm viếng các họ đạo, giảng dạy, rửa tội, và giải tội. Nỗi buồn duy nhất của cha là việc nhiều quá mà làm không xuể. Cha liền viết thư xin bề trên gởi thêm những tu sĩ trẻ, khỏe mạnh và hăng hái khác.
Danh "Trùm Vọng" thời vua Minh Mạng.
11 năm thừa sai đầu tiên, cha Vọng là linh hồn các hoạt động truyền giáo của dòngh Đaminh trong giáo phận : Bốn năm phụ tá cha chính Amandi Chiêu, ba năm bề trên dòng, một năm phụ tá cha chính Hiền, rồi thay thế ngài từ năm 1838. Nhưng thực tế, những khi làm phụ tá, vì cha chính già yếu, mọi công việc đều do cha Vọng điều hành. Cha đã nâng số linh mục bản xứ lên đến 40, đủ sức đương đầu với cơn bách hại sắp tới.
Bão tố đã thực sự bừng lên trên giáo phận Đông đàng Ngoài từ năm 1838, khởi từ sau lá thư gửi cho bốn thừa sai và hai linh mục Việt Nam của cha Viên bị phát hiện. Hai Giám mục và cha Chính chịu tử đạo, nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân đổ máu vì đức tin. Cũng vì một trong sáu lá thư gửi cho cha Vọng, nên"danh trùm Vọng" được ghi vào đầu sổ bộ truy lùng của vua Minh Mạng và quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Chiếu chỉ ngày 18.01.1839 dành một đoạn nói về cha : "Hãy còn danh trùm Vọng chưa bắt được, dù quan truyền, dù thứ dân, chẳng kỳ ai, hễ bắt được sẽ lãnh thưởng mười ngàn quan tiền…"
Để giúp dân dễ nhận diện, vô tình vua Minh Mạng lại cho chúng ta biết đôi điều về chân dung vị thừa sai này : "Người cao lớn, mũi dài, râu rậm, cặp mắt tinh anh và hơi xám, nước da trắng trẻo, khuôn mặt phương phi…" Đúng là chân dung của một con người nghị lực không bao giờ chịu lùi bước. Quả thực, trong giai đọan này tuy rất thận trọng, cha Vọng vẫn đi khắp nơi an ủi người này, khích lệ kẻ kia, và trao ban các bí tích như coi thường cơn giận dữ của "Hỏa ngục". Dĩ nhiên là không phải không có những giây phút hồi hộp, khi thì suýt bị bắt với Đức cha Y khi bị cắm đầu cắm cổ vượt vòng vây chạy trốn. Có những lần, một mình đi giữa đêm tối trên những đoạn đường quanh co xa lạ.
Thoát chết trong đường tơ kẽ tóc
Chúa gìn giữ cha Vọng trong nhiều trường hợp kỳ lạ. Lần kia, tại xứ Liễu Dinh, một người lính đã thấy cha trong phòng, liền gọi đồng đội ra tiếp sức. Đến khi họ vào, cha ngồi sau màn cầu nguyện : "Xin cho ý Chúa được thể hiện …" Thế mà lính không thấy gì cả, cho đến khi họ nhìn thấy một cụ già có râu ngoài sân, liền nhào ra bắt nhầm, và cha có thời giờ chạy trốn thoát.
Lần khác, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 lính với hàng chục chiếc thuyền bao vây làng cha đang ẩn trốn, bỗng trời nổi dông bão, thế là quan quân hoàn toàn thất bại : hai thuyền bị đắm và nhiều chiếc bị trôi dạt kéo theo ba sĩ quan và các lính thủy.
Vào cuối thời vua Minh Mạng, giáo phận chịu thiệt hại đáng kể. Trên 1.000 nhà thờ bị rỡ xuống, có nơi phải nộp gỗ ván cho quan tỉnh. Các chủng viện, 40 nhà chung, 60 họ đạo, 22 nhà phước Đaminh, 3 nhà phước Mến Thánh Giá, đều bị triệt hạ và giải tán mỗi người mỗi nơi, giáo dân thì bơ vơ, hai Giám mục và cha chính chịu tử đạo, mọi gánh nặng đổ trên vai cha Vọng. Tuy nhiên, với sự cộng tác của hai thừa sai, 37 cha dòng Việt và một số linh mục triều, năm 1840, giáo phận đã rửa tội thêm 143 người lớn, hơn 1.000 trẻ em, giải tội 118.000 người và chứng hôn 1.630 đôi.
Thời gian này có hai mẩu chuyện về cha Vọng.
Thứ nhất về lá thư cha báo cáo về tình hình Bắc Việt cho Bề trên tỉnh về sự kiên cường của các vị tử đạo và "sức sống ngầm" của Giáo Hội Việt Nam trong những năm giông tố. Lá thư đã làm cho cả tỉnh dòng vui mừng. Tại nhà thờ thánh Đaminh ở Manila, cộng đoàn tu sĩ đã sốt sắng hát kinh "Te Deum" và cử hành một lễ tạ ơn. Lá thư này được phổ biến khắp nơi, làm cả thế giới ngạc nhiên và khâm phục. Đức Grêgoriô XIV viết cho Giáo Hội Việt Nam một lá thư mục vụ khích lệ, ngài họp hội đồng cơ mật trù liệu việc phong thánh cho các vị tử đạo Việt Nam.
Chuyện thứ hai là chuyện thừa sai Marti Gia đã đến Yên Trì được gần một năm mà không có cách nào trình diện để tuyên thệ theo luật bấy giờ (sắc Ex Quo). Lúc ấy, cha Vọng đang làm Bề trên phải bỏ chỗ ẩn an toàn để đến gặp người bề dưới tiến hành việc tuyên thệ này, cũng như đưa ra những lời khuyên thực tiễn.
Dưới thời vua Thiệu Trị, cuộc bách hại tuy lắng dịu, nhưng vẫn còn xảy ra ở một vài nơi. Tòa thánh đặt cha Vọng làm Đại diện Tông tòa thay thế hai Đức cha Y và Minh đã tử đạo. Theo dự định, lễ tấn phong cử hành vào ngày 14.4.1841 tại Vĩnh Trị, Phúc Nhạc, nơi Đức cha Retordd Liêu ẩn trú. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh được mật báo đem quân bao vây bắt lầm được hai vị thừa sai Pháp là Berneux Nhân và Galy Lý. Trên đường áp giải về dinh, dân chúng kháo với nhau: "Kìa ! Đó là danh Trùm vọng !". Tổng đốc Trịnh Quang Khanh cũng không giấu được vui mừng cho đến khi biết mình đã lầm, liền tức giận, cho đóng cũi, tra tấn dã man và lột trần cả hai vị, trói ngoài công đường cho mọi người sỉ nhục. Về sau nhờ áp lực của quân Pháp, nhà vua cho lệnh tha hai vị về (1843) (xem thêm hạnh bà Thánh Annê Đê).
Hai ngày sau, cha Vọng mới khởi hành từ Hải Dương đến Vĩnh Trị. Vì đã biết vụ hai vị thừa sai bị bắt, cha nhờ giáo hữu dẫn đi đường khác. Tất cả chỉ có thể đi vào ban đêm, băng rừng, lội suối, có khi đi thuyền nhưng thường là đi bộ, còn ban ngày thì ẩn nấp trong bụi cây, ngoài đồng lúc hoặc bụi tre. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đã cho đặt các tram canh khắp nơi. Đặc biệt có một trạm canh rất cẩn mật, cha phải hối lộ cho viên phó tổng, và theo kế hoạch của ông ta để lọt được qua trạm. Đêm ấy, theo lời chỉ dẫn, cha mặc áo cộc, quần nâu xắn lên tới dầu gối, lấy bùn xoa đen hết mặt mũi chân tay, buộc túm râu tóc lại, đầu đội nón lá… rồi nắm đuôi ngựa của viên phó tổng đang cưỡi, chạy lăng xăng theo sau, như tên đầy tớ để qua trạm.
Vị Giám mục khôn ngoan
Đến Vĩnh Trị, cha Vọng tìm đến tòa Giám mục của Đức cha Liêu. Đó là một cái chòi có lối chạy xuống hầm để đề phòng mỗi khi quan quân bất ưng đến thăm. Tại đây, ngày 25.04, cha được tấn phong. Đức tân Giám mục tìm đường trở về giáo phận và đổi tên là Liêm, thay cho danh trùm Vọng vẫn được treo giá cả vạn quan. Ít lâu sau, Tổng đốc cũng ngã bệnh và qua đời.
Lợi dụng tình hình lắng dịu, Đức cha Liêm hoạt động không ngừng. Ngày 26.6, ngài tấn phong Giám mục cho cha Jimenô Lâm làm phụ tá. Sau lễ, ngài tập họp các linh mục để lập chương trình truyền giáo trong hoàn cảnh mới. Từ đó cả giáo phận bừng lên sức sống mới. Các nhà thờ, nhà xứ được tái thiết, các nữ tu viện, nhà Đức Chúa Trời được tu sửa. Giáo hữu góp tiền chuộc các anh em khác còn bị giam giữ. Trường Latinh được xây dựng lại tại Nam An (Hải Dương), sau dời về Lục Thủy. Trường Thần học được thiết lập ở Mỹ Động, Hải Dương. Đức cha khuyên giáo dân đặc biệt tin tưởng, cậy trông vào Đức Mẹ, siêng năng đọc kinh Mân Côi và kêu cầu nữ Thánh Philomêna tử đạo. Sau này, ngài chọn thánh nữ làm bổn mạng giáo phận và xin phép tòa Thánh mừng lễ hàng năm (1).
Nhờ sự cộng tác của nhiều tân linh mục trong giáo phận và nhiều thừa sai mới được gửi tới, tình hình giáo phận Đông phục hồi rất nhanh. Việc trao ban bí tích được gia tăng thêm mỗi năm. Chỉ cần cẩn thận đôi chút, các Giám mục có thể đi ban Bí Tích Thêm sức nhiều nơi.
Năm 1844, ngài mở lễ kính thánh Tổ phụ Đaminh rất trọng thể. Các linh mục tu sĩ, giáo dân thay nhau về thánh đường Nam Am suốt tám ngày liền. Họ gặp nhau chia sẻ tin tức, kinh nghiệm sống đạo của mình. Thánh lễ đại trào duy nhất của Đức cha Liêm, sau này sẽ trở thành tập tục "Lễ Đầu Dòng" trong giáo phận. Số tân tòng ngày càng gia tăng. Ngày 22.08.1844 tại Đông Xuyên, Đức cha rửa tội cho 44 người lớn, trong đó có một Chánh tổng, một Phó tổng, tám lý trưởng, một thày cúng.
Sự phát triển ngày càng phấn khởi hơn. Năm 1848, khi số tín hữu lên tới 184.000, Đức cha xin tòa Thánh chấp thuận chia giáo phận thành hai : Giáo phận Trung (nay là Bùi Chu, Thái Bình) được trao cho Đức cha Marti Gia, còn Đức cha Liêm giữ lại phần đất đông dân cư (trên mười triệu), mà ít tín hữu (chỉ 0,4 phần trăm). Từ đó hai giáo phận ngày càng phát triển vững mạnh hơn, mặc dù vua Tự Đức bắt dầu bách hại đạo. Năm 1852, giáo phận của Đức cha Liêm rửa tội được 388 người lớn, 2.824 trẻ em, trong đó đa số là trẻ em ngoại.
Mười năm cuối đời của Đức cha Liêm là những năm đầy vất vả và gian lao. Vua Tự Đức ra thêm chiếu chỉ cấm đạo. Năm 1855, khi qua giáo phận Trung, hai thày giảng tháp tùng Đức cha Liêm bị cướp bắt, Đức cha phải năn nỉ cả ngày họ mới chịu tha. Năm sau, chính Đức cha bị bắt, khi ngài đi kinh lý xứ Hữu Bàng, phải chuộc mất 300 quan. Năm 1858, trước tình hình bách hại gay gắt, sợ sẽ không còn ai sống sót, Đức cha họp và quyết định chia một nửa số thừa sai về Macao, chờ ngày thuận tiện hơn sẽ trở lại giáo phận hoạt động. Ngài chỉ giữ lại 5 thừa sai Đaminh cho cả giáo phận. Năm 1859, một lần nữa, Đức cha phải đổi tên là Tuấn, để lhỏi bị lộ cho tới ngày chiếu chỉ phân sáp ra đời.
Nỗi đau của vị chủ chăn
Tả sao cho hết nỗi đau của vị chủ chăn dòng Thuyết Giáo. Hai cuộc tử đạo của hai Đức cha An và Xuyên, biết bao hung tin mỗi ngày : các thánh đường bị phá hủy, nhiều linh mục và thày giảng bị ngã gục. Giờ đây chiếu chỉ phân sáp lại nhắm đến giáo dân. Ý thức bổn phận chủ chăn, ngài liền viết thư luân lưu cho khắp giáo phận, kêu gọi mọi người thống hối, để Chúa mở tay ban phát mọi sự lành, kêu gọi tín hữu tin vào Chúa phòng, vì "lá cây nhỏ mọn mặc lòng, nếu Chúa chẳng cho động, nó chẳng động được đâu", khích lệ mọi người can đảm xưng đạo cho vững vàng, năng suy niệm cuộc thương khó mà Chúa đã chịu vì nhân loại hầu được thêm can đảm.
Đêm thu 14.8 năm tân Dậu (18.9.1861), trong khung cảnh tĩnh mịch của đêm trăng rực sáng, Đức cha Liêm ngước mắt nhìn cảnh vật mà lòng xúc động trào dâng. Ngài nghĩ đến số phận đàn chiên đang bơ vơ thiếu chủ chăn, những gia đình tín hữu bị phân tán, vợ một nơi chồng một nẻo, con cái phải xa cha mẹ… Nhưng nỗi khổ tâm nhất của ngài là cũng đêm đó, chủng viện Kẻ Mốt phải giải tán, những mầm non của giáo hội thiếu điều kiện phát triển. Cha Khoa thay mặt ngài, giờ đây đang nói với chủng sinh những lời cuối cùng xiết bao xúc động :
"Từ trước tới nay Đức cha cố giữ anh em ở đây, và lo liệu cho anh em học hành … Bây giờ Đức cha buộc lòng phải giải tán nhà trường. nếu Chúa để chúng ta còn sống thì rồi đây có ngày Đức cha sẽ gọi anh em trở lại. Đức cha nhắn lời chúc lành và dặn dò anh em sống sao cho tốt, trông cậy vào Chúa là cha nhân lành và đừng quên cầu nguyện cho ngài, cho giáo phận và cho cả giáo hội Việt Nam. Anh em hãy thu xếp đi ngay trong đêm nay, khỏi cần bái chào Đức cha, kẻo ngài không cầm được nước mắt…"
Cũng đêm đó, Đức cha Liêm phải rời làng Kẻ Mốt đến trú ẩn ở Thọ Đức. 33 năm hoạt động trên quê hương Việt Nam đã chất chứa những gánh nặng trên vai ngài. Giờ đây sức khỏe ngài đã giảm sút, râu tóc đã bạc phơ chỉ duy đôi mắt vẫn giữ được vẻ tinh anh. Cảm thương thay vị cha già bước từng bước mệt nhọc trên quãng đường trơn trượt như trèo lên đỉnh núi Sọ. Ngày mai sẽ ra sao ? Không địa sở, không nơi ẩn náu, chỉ còn chờ cái ngày cũng chẳng xa, rơi vào tay những kẻ đang truy nã.
Cùng đi với Đức cha có thày giảng Giuse Khang. Hai cha con trọ ở Thọ Đức được ba tuần thì bị lộ. Lại phải xuống thuyền qua thị xã Hải Dương và tá túc trên thuyền của một giáo hữu, gia đình ông Trương Bính. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentino Vinh và cha Almato Bình dọc theo đường thủy từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc hội ngộ đặc biệt, các vị trao đổi, khích lệ nhau thêm can đảm và tạ ơn Chúa vì dịp may hiếm có này. Sau đó, các vị chia tay nhau mỗi người một nẻo.
Dưới sự tận tình che giấu của ông Trương Bính, Đức cha và thày giảng Khang được ít ngày bằng yên cho đến hôm xảy ra cuộc cãi vả giữa cha con ông Trương Bính, người con trai vì tức giận cha mẹ, đã đi tố cáo ông bà về tội chứa chấp Tây Dương đạo trưởng. Đội Bằng lúc đó làm Chánh tổng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha vào ngày 20.10.1861. Khi bị bắt, Đức cha đưa cho đội Bằng một số tiền và nói : "Xin bắt và giam giữ một mình tôi thôi. Hãy để những người đánh cá nghèo nàn này đi". Khi thày Khang nhổ cây sào thuyền định chống cự thì Đức cha cản lại rằng : "Đừng chống trả làm gì, hãy phó mặc cho Thánh ý Chúa". Thế là cả hai bị bắt trói và đưa về Hải Dương.
Đồng hành về trời
Sau khi lấy khẩu cung, Đức cha bị giam trong chiếc cũi chật hẹp, nằm không nổi, ứung cũng chẳng được, cứ phải khom lưng suốt ngày, chân tay rã rời. Dầu vậy, ngài vẫn tìm cách giảng đạo cho các bạn tù, rà rửa tội cho con trai viên đội Bái, cậu cũng bị xử tử với Đức cha.
Chiều ngày 26.10, sau khi bắt được Đức cha Vinh và cha Bình, quân lính hò reo ầm ĩ, Đức cha đang thiếp ngủ bừng tỉnh dậy. Ba chiến sĩ đức tin trong ba chiếc cũi ngậm ngùi nhìn nhau, nhưng lòng đầy hân hoan, vì thấy được đòan tụ bên nhau trong những ngày cuối cùng.
Ngày xử được ấn định là 01.11.1861. Ba chiếc cũi được khiêng đi sau đội quân 500 người. Đức cha Liêm cũi cuối cùng, trang nghiêm như ngày đại lễ, thỉnh thoảng ngài giơ tay ban phép lành cho các giáo hữu đứng hai bên đường.
Tại pháp trường Năm Mẫu, ba vị được đưa ra khỏi cũi, cùng cầu nguyện ít phút, rồi đưa tay cho lý hình trói vào ba cọc. Bản án được đọc lên. ba hồi chiêng trống, ba lưỡi gươm vung lên một lúc, chém rơi đầu ba vị anh hùng. Khi các quan ra về, dân chúng dù lương hay giáo,tranh nhau thấm máu tử đạo. Ba thi hài được bọc trong ba chiếc khăn và chôn tại chỗ. Thủ cấp các ngài được treo ở bến đò Hàn ba ngày (nhưng sau đó giáo dân đánh tráo bỏ vào đó ba củ chuối) rồi đưa về Yên Dật, và sau lại đưa về an táng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối cùng, đi dời về đền Các Thánh Tử Đạo Hải Dương.
Đức Piô X suy tôn Đức cha Jeronimô Hermosilla Liêm lên bậc Chân Phước ngày 20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Đức cha đã nằm xuống, nhưng chân lý ngài đã truyền giảng, phong thái và nhiệt tâm của ngài vẫn sống mãi trong các tín hữu và hàng giáo sĩ của giáo phận. Tất cả sẽ nắm tay nhau theo dấu chân vị cha chung để tiếp tục làm chứng cho đức tin.

Trường Thi Tử Đạo

Thánh Giêrônimô Vọng giám mục
Sinh Canh Thân (1800) quốc tịch (Tây) Ban Nha
Tuy không tiền của rườm rà
Gia đình đạo đức một nhà yên vui

Chí cậu quyết trao dồi văn hoá
Ðể sau này vào khoá dòng tu
Mười lăm tuổi được tiếp thu
Vào dòng thuyết giáo trong khu tuyệt vời

Mười chín tuổi thầy thời mặc áo
Cũng tại dòng thuyết giáo trao ban
Năm sau giặc giã lan tràn
Dòng tu giải tán luận bàn trước sau

Lệnh trai tráng đâu đâu nhập ngũ
Cùng bạn bè thầy rũ đi luôn
Ba năm quân ngũ vuông tròn
Xin ra thầy cũng vẫn còn chí tu

Năm Quý Mùi (1823) tiếp thu nhà tập
Thầy cũng đều ít gặp khó khăn
Hy sinh gương mẫu chuyên cần
Thầy đều có sẵn tòng quân thấm vào

Ý thầy muốn may sao lại gặp
Lúc nghỉ ngơi thầy đọc thư mời
Dòng Mến Thánh giá Mân côi
Cần người truyền giáo điểm thời Việt Nam

Thầy rũ bạn về làm đơn gấp
Và đơn thầy được chấp nhận mau
Trong vòng chỉ một tháng sau
Các thầy đã đáp được tàu tới Phi

Tại giám tỉnh trong khi trình diện
Ðã tỏ lòng tự nguyện rất cao
Này con khao khát ước ao
Xin cha hãy đặt con vào ý Cha

Chức linh mục ban cho thầy Vọng
Và trao cha giám đốc Mân côi
Hăng say hoạt động không ngơi
Hội dòng lúc ấy tuyệt vời tiến mau

Cha ở đó năm sau tình nguyện
Sang Việt Nam thực hiện ý Cha
Khởi hành từ Manila (Phi)
Sang Macao đợi người qua dẫn đường

Kỷ Mão (1829) đến quê hương đất Việt
Lại cho mau trình diện Ðức Cha (Y)
Cha con mừng nói chẳng ra
Có người trẻ đến giúp ta tuổi già

Cũng từ đó gọi cha tên Vọng
Tiếng Việt Nam cha học mau thông
Tập quán bản xứ ngoài trong
Cha đều hiểu rõ làm lòng như ai

Cha Vọng vốn có tài thuyết phục
Bổn đạo theo mỗi lúc một đông
Linh hồn truyền giáo của dòng
Phụ tá Cha Chính từ trong đến ngoài

Ðức Cha trao cho ngài lãnh đạo
Làm Bề Trên kiến tạo nhà dòng
Linh mục ngày một thêm đông
Ðược hơn bốn chục nhờ công của ngài

Cơn bão tố trần ai đổ đến
Bị lộ thư gởi bốn thừa sai
Minh Mạng nổi giận công khai
Giết luôn Cha Chính và hai Ðức Thầy (Giám mục)

Cũng từ đó bủa vây trùm Vọng
Ai bắt dâng được trọng thưởng to
Cửa chợ cho chí bến đò
Bủa quân kiểm soát tìm cho ra ngài

Phải nhát sợ như ai không dám
Cha vẫn thường theo bán giáo dân
Rửa tội, hoà giải ân cần
Hằng năm vẫn có những lần đi thăm

Quang Khanh nghe hờn căm lùng bắt
Các vòng vây được thắt chặt thêm
Lính canh ngày cũng như đêm
Xét người qua lại trong miền gắt gao

Cũng có lần vây bao trúng chỗ
Làm cho cha khốn khổ trốn ra
Có lần gặp ở trong nhà
Nhờ Chúa che chở cho qua mới còn

Toà Thánh thấy đàn con không mẹ
Quyết chọn ngài muôn đệ thế vô
Tân Sửu (1841) Giáo hội tung hô
Có Ðức Cha Vọng điểm tô hai Toà
Phêrô Almato Bình (1830-1861)

Phêrô Almato Bình, Linh Mục Ða Minh; sinh 1830 tại Sassera (Vich), Tây Ban Nha; chết 1/11/1861, tại Hải Dương. Ngài được sai đi Phi Luật Tân trước hết khi được khấn dòng Ða Minh. Sau đó được gửi Ximabara với thánh Jerome Hermosilla, cùng với vị này, ngài đã bị xử trảm (chém đầu), phong á thánh năm1906. Lễ kính vào ngày 1/11.
Đức Cha Alcazar tóm tắt cuộc sống thánh thiện và anh hùng của Cha Phêrô Almato như sau: "Tôi theo dõi suốt cuộc đời của ngài và có thể làm chứng rằng ngài không bao giờ phạm một tội trọng nào, lại hết lòng gìn giữ đức trong sạch trinh khiết. Mặc dù sức khỏe yếu kém, người ta chỉ có thể nói rằng Thiên Chúa định cho ngài sang truyền giáo ở Việt Nam là để thưởng công triều thiên tử đạo cho ngài. Quả thật Đức Cha Hermosilla đã ra lệnh cho Cha Almato và Cha Munoz di tản sang Trung Hoa để tránh cơn lùng bắt dữ tợn, nhưng Chúa để cho Cha Almato nhỡ tầu, còn Cha Munoz đi được. Cha Munoz viết thư cho ngài: "Này anh Almato, lẽ ra anh phải sang Macao chứ không phải là tôi. Như đức cha già khả kính Hermosilla đã định, nhưng tôi không được phúc tử đạo, còn Thiên Chúa thưởng nhân đức anh bằng phúc tử đạo".
Cha Almato sinh ngày 1-11-1830 tại Catalogna, Tây Ban Nha, được cha mẹ đạo đức đem đi rửa tội ngay và đặt tên thánh là Phêrô Giuse. Ngay từ bé cậu Almato đã tỏ ra lòng đạo đức, thích đồ chơi bằng nhà thờ hay đóng kịch làm cha đứng giữa các bạn giảng đạo. Khi lên 11 tuổi đã đi học Latinh và tháng 8-1847 vào dòng Đaminh ở Ocanha để sửa soạn đi giảng đạo ở phương Đông. Cha mẹ không muốn cho con đi xa, nhưng ngài đã can đảm viết thư cho cha mẹ như sau: "Cha mẹ đừng than khóc vì đứa con phải đi xa, nhưng hãy vui mừng vì ở trên trời cha mẹ sẽ được phần thưởng vì những hy sinh. Hạnh phúc cho chúng ta dường nào được gặp nhau ở trên đó, luôn luôn được hiệp nhất với nhau trong vinh quang và không còn phải xa cách nhau nữa. Cha mẹ hãy nghĩ rằng Chúa đã xếp đặt như thế không phải để chúng ta khổ nhưng là để chúng ta được sự tốt lành, được thanh tẩy và thánh hóa trong cuộc sống đời này và được phần thưởng trong cuộc sống mai sau".
Quả thật là những lời lẽ cao siêu của một tâm hồn đã xác tín muốn yêu Chúa đến mức độ tuyệt hảo. Sau nhiều thử thách và gắng sức tu luyện, Thầy Almato được khấn trọng thể ngày 26-9-1848. Trong dịp này thầy có viết thư cho cha mẹ: "Cha mẹ quí mến, những việc lo dưới thế là mong làm cho con đường thu ngắn lại và chắc chắn hơn, con cũng vậy, con phải làm cho việc cứu rỗi linh hồn con chắc chắn. Con không những chắc chắn về cuộc sống hiện tại mà con mong cho các anh em con sớm bỏ biển khổ đầy lo lắng quen gọi là thế gian". Về đời sống trong viện tu, Thầy Almato viết: "Ở đây con được bề trên lo lắng săn sóc mọi sự cần, mặc dù chúng con đông nhưng tình thương bao bọc đồng đều mọi người dường như là một vậy. Con chẳng phải nghĩ gì khác". Viết cho người em gái đi tu, thầy khuyên: "Không có gì xảy ra tình cờ, không có biến cố nào mà không có báo trước. Những điều bất hạnh xem ra là sự dữ nhưng nếu chúng ta biết suy nghĩ cho kỹ, chúng ta sẽ thấy sự dữ là một điều lành, trong cái rủi ro là một may lành. Nếu anh cứ tiếp tục than trách, anh sẽ chẳng bao giờ hết vì trong lòng chứa đầy sự cay đắng".
Tháng 9-1852, Thầy Almato được chỉ định sang Manila và chịu chức bên đó trước khi được lệnh sang Bắc Việt. Cha viết về mong ước sang Bắc Việt với người bạn: "Đã từ lâu tôi ước ao được sang truyền giáo ở Bắc Việt. Tôi đã nhiều lần kêu xin với Chúa và Đức Mẹ và đã thưa với các bề trên. Chúa đã nghe lời tôi. Tôi cảm tạ Chúa đã thương chọn tôi cùng với ba cha khác đi truyền bá Phúc Âm cho dân ngoại."
Ngày 11-1-1855 cha, lúc ấy mới 24 tuổi, lên đường đi Hồng Kông. Bao nhiêu khổ cực, bao nhiêu hy vọng trên chuyến hành trình, cha ngước mắt lên trời cao như muốn cho hy vọng thêm bao la. Bẩy tháng sau, ngày 3-7-1855, cha rời Macao để đến Bắc Việt và tới nơi ngày 11-7 tại Nam Chân. Cha được đưa đến trình diện cha đại diện tỉnh dòng Salvatore Masso và sau đó được tới Bùi Chu vào dịp lễ phong chức giám mục cho Cha Sampedro ngày 1-9. Cha Almato được đặt tên Việt là Bình, diễn tả tâm hồn bình an của cha. Cha học tiếng Việt tại Kẻ Mốt một năm và sau đó được sai giúp Cha Fernandez trước khi được chỉ định coi xứ Thiết Nham.
Giáo dân xứ Thiết Nham nói về vị chủ chăn của mình như sau: "Cha Bình (Almato) thường xin chúng tôi cầu nguyện cho ngài. Như thế tâm hồn sốt sắng của ngài thúc đẩy con chiên chúng tôi chạy đến với ngài". Năm 1858 lệnh vua Tự Đức bắt đạo ngặt nghèo nên Đức Cha Hermosilla truyền lệnh cho Cha Almato tạm thời sang Trung Hoa vì ngài kém sức khỏe, sợ không chọi nổi cảnh trốn chạy mà chết uổng đi. Nhưng ý Chúa để cha bị nhỡ cơ hội, cha đi về Kẻ Mốt thăm đức cha rồi trốn tránh ở Kẻ Nê, ở Thọ Ninh.
Năm 1861 với lệnh phân sáp và không còn trốn tránh được nữa, Cha Bình xuống thuyền ở với Đức Cha Ochoa Vinh hẹn đến với Đức Cha Hermosilla. Thế nhưng thuyền của Đức Cha Hermosilla và Thầy Khang đã bị bắt ngày 20-10-1861. Đức Cha Ochoa và Cha Almato được ông trùm Trọng chèo thuyền về Kim Phô nhờ một quan ở huyện là Hán Cáp giúp đỡ. Ông quan này nhận lời giúp đỡ nhưng chính ông lại đi báo quan tỉnh Hải Dương về bắt. Ngày 25-10-1861 quan huyện Thanh Hà đến bắt Đức Cha Ochoa và Cha Almato giải về Hải Dương.
Quan tổng đốc Hải Dương là Nguyễn Quốc Cẩm đặt thánh giá ở cửa thành, nhưng đức cha yêu cầu có cất đi thì mới vào trong thành. Quan hỏi Cha Almato về quê quán và thời gian ở Việt Nam bao lâu, Cha Almato đáp: "Tôi là người Tây Ban Nha, sang Việt Nam được bẩy năm, tôi rao giảng đạo tại nhiều nơi".
Quan lại hỏi có biết Cha Tuấn (tên thứ ba của Đức Cha Hermosilla). Sau đó Đức Cha Ochoa, Đức Cha Hermosilla và Cha Almato, mỗi người một cũi được giam chung với nhau ở Trang Thu. Quan tổng đốc là người hiền lành muốn thong thả làm án tâu về kinh, nhưng tổng đốc Nam Định là Nguyễn Đình Hưng (Tân) sợ triều đình khiển trách nên ra lệnh làm án trảm quyết ngày 1-11-1861.
Vào ngày lễ Các Thánh, Đức Cha Hermosilla, Đức Cha Ochoa và Cha Almato được 300 người lính dẫn ra pháp trường Năm Mẫu ở ngoài thành Hải Dương để chém đầu. Cha Almato vừa đúng 31 tuổi.
Khi xử ba đấng đã có nhiều dấu lạ như được kể trong chuyện Đức Cha Hermosilla. Xác các ngài được chôn tại chỗ ba tháng rồi mới được giáo dân lén lút đem về chôn ở ba nhà khác nhau tại Thọ Ninh ngày 2-2-1862. Sau này khi bốc mộ, xác Cha Almato Bình được đưa về chôn ở nhà thờ Truyền Tin thuộc địa phận Vich là quê quán của ngài ở Tây Ban Nha.
vncatholic.org
 

Trường thi tử đạo


Phêrô Almatô Bình linh mục
Sinh Tân Mão (1831) quê thực (Tây) Ban Nha
Thủa nhỏ đã tỏ ý ra
Lớn lên cố học làm cha giúp đời

Mười lăm tuổi học thời Chủng viện
Học tập hay phương tiện cũng nhiều
Hằng ngày có biết bao nhiêu
Sách báo cậu đọc đến điều say mê

Bữa nọ đọc bản tin truyền giáo
Của hội dòng giảng đạo Ðaminh
Ðọc xong cậu thấy lòng mình
Tự nhiên thích thú thuận tình xin đi

Ðược Giám mục chỉ huy khuyến khích
Con nên đi chủ đích (cứu) tha nhân
Việt Nam đang lúc rất cần
Thừa sai giảng đạo để nhân tín đồ

Thầy mừng rỡ hoan hô từ giã
Với gia đình và cả bạn bè
Ðến Ðaminh tiện đường xe
Thời gian thực tập lắng nghe lời thầy

Năm Mậu Thân (1848) trong ngày tuyên khấn
Thầy cầu xin thanh vắng với cha
Năm năm thần triết đã qua
Thụ phong linh mục thật là Chúa ban

Cha được đến Việt Nam phục vụ
Năm Ất Mão (1855) bám trụ Ðàng Ðông
Tiếng Việt cha học mau thông
Có tên tiếng Việt phổ thông cha Bình

Về (xứ) Nam An thuận tình (xứ) Kẻ Mốt
Hơn một năm thêm một (xứ) Thiết Nhan
Công việc ngài rất là ham
Sức khoẻ quá kém hễ làm lại đau

Cuộc bách hại về sau ác liệt
Các vòng vây tiêu diệt bủa ra
Càng thêm khổ cực cho cha
Nay đây mai đó quả là khổ thân

Việc giảng đạo trăm phần khó nhọc
Ngày trong hầm đêm gặp giáo dân
Dâng lễ giải tội ân cần
Hễ thấy lính đến nhanh chân chạy liền

Cứ như vậy liên miên ngày tháng
Bệnh hoành hành cha ráng vẫn đi
Bằng thuyền ngài chẳng ngại chi
Có lần tới bến lính thì bao vây

Thấy bụi tre gai đầy xuống nấp
Nước bùn lầy ẩm thấp biết sao
Nhiều năm cha sống tự hào
Người thì gầy yếu bệnh nào bớt cho

Trong người cha là kho lẫm Chúa
Ðầy mến yêu chan chứa tình thương
Mục tiêu là nước thiên đường
Thế trần khổ cực nêu gương sáng ngời

Lệnh cấm đạo đến thời phân sáp
Các thừa sai bố ráp đêm ngày
Lệnh về cha phải đi ngay
Ngài xin bám trụ đến ngày quy thiên

Cuộc bố ráp ngày thêm gạn lọc
Không còn nơi đùm bọc giấu che
Ðức Cha Vinh (và) ngài xuống ghe
Trong đêm tăm tối hướng ra Thái Bình

Hai cha con Bình - Vinh đêm ấy
Thật may sao gặp thấy Ðức Liêm
Ba người tri kỷ một đêm
Ngày mai kẻ ngược người êm tay chèo

Ngay hôm ấy gieo neo rồi đấy
Chính cha Bình nhìn thấy Ðức (Cha) Liêm
Soát thuyền chúng bắt được liền
Cha con sợ quá bỏ thuyền đi lên

Ngay lúc đó gặp tên Cựu Trọng
Là giáo dân cổ đọng tại đây
Vui mừng anh giới thiệu ngay
Ðến ông thửa ở ông này thầy lang

Ông lang thửa sẵn sàng cho ở
Cùng hai ngài niềm nở thân thương
Ngờ đâu thằng cháu chủ trương
Bắt ngài đem nộp chẳng thương ham tiền

Quan Tổng trấn người hiền hiếm có
Thấy các ngài gặp khó thì thương
Hỏi cung lấy lệ thông thường
Tuy nhốt trong củi chủ trương nhân từ

Quan Tổng đốc khó ư Nam Ðịnh
Nghe tin đồn nổi thịnh nộ lên
Ỷ mình cao cả cấp trên
Ép quan Tổng trấn Hải Dương có tình

Phải lập án tử hình trảm quyết
Thôi thế là từ biệt trần gian
Tân Dậu (1861) tử đạo trao ban
Suy tôn Bính Ngọ (1906) hỷ hoan Nước Trời

Lời bất hủ: Quan tổng đốc Hải Dương hỏi cung cha. Cha đáp: "Tôi là linh mục, tên tôi là Bình, người Y Pha Nho, sang Annam giảng đạo được 7 năm tại nhiều nơi".
Cha được phúc Tử đạo đúng ngày sinh nhật tròn 30 tuổi của ngài.
Valentinô Berrio Ochoa Vinh

Ðức Cha Vinh (Berrio Ochoa), Sinh năm 1827 tại Elorrio (Vizcaya), Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861 tại Hải Dương dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.
Cuộc đời thánh Valentino Vinh đẹp như một bài thơ và hùng tráng như bản tình ca bất hủ. Quả thật, cuộc đời ngài chỉ vỏn vẹn có 34 năm với ba năm Giám mục, không có nhiều thành quả lẫy lừng, nhưng đã là một thiên tình ca hùng tráng… cuộc đời ấy được đan dệt bằng biết bao biến cố thăng trầm, bao kỷ niệm gian khổ và bao thắng vượt anh hùng.
Với tinh thần đơn sơ của một người tràn đầy tình yêu Chúa và tha nhân, ngài đã biến tất cả thành một giai điệu nên thơ. Tất cả những nỗi vất vả đã được vị "Giám mục Hầm Trú" này khoác cho chiếc áo tươi vui bằng thái độ kiên cường, bằng tình yêu nhiệt thành và sự trung tín. Ngài biến đổi chúng bằng những phút chiêm niệm sâu xa và bằng nụ cười bất diệt.
Valentino Berrio Ochoa xuất thân trong một gia đình quý phái, đạo đức nhưng lại nghèo. Sinh ngày 14 tháng 2 năm 1827 tại làng Elorrico, giáo phận Vich, nước Tây Ban Nha. Cuộc đời Valentino chịu ảnh hưởng rất nhiều của song thân. Cậu học được nơi cha sự cần cù kiên nhẫn, và thừa hưởng nơi mẹ một đức tin sống động, lòng sùng kính Đức Maria và tính vui tươi hòa nhã với mọi người. Đặc biệt với thân mẫu, Valentino vẫn hằng ôm ấp mối tình thắm thiết cả khi đã làm Giám mục mà chúng ta có thể thấy được, vẫn dạt dào trong các lá thư viết về cho bà.
Vì thân phụ thường đóng bàn ghế cho một tu viện Đaminh trong vùng, nên Valentino được vào giúp lễ. Nhờ vậy, cậu có dịp tiếp xúc với cha linh hướng của tu viện, một linh mục dòng Đaminh. Khi rảnh rỗi, cậu đến gặp cha để nghe cha kể chuyện về các vị thừa sai Đaminh tại Việt Nam, về những mẫu gương dấn thân và những cuộc tử đạo anh hùng. Từ đó, cậu bé 12 tuổi ôm mãi trong lòng giấc mộng vàng, là được làm linh mục Đaminh và đến phục vụ tại mảnh đất Việt yêu dấu. Nhưng vì gia đình quá nghèo, cậu phải phấn đấu rất nhiều để biến giấc mộng ước thành hiện thực.
Sáu năm liền, Valentino phải kết hợp ba chương trình: vừa làm mộc giúp phụ thân, vừa trau dồi văn hóa phổ thông và xếp thêm giờ học tiếng Latinh. Theo gương đức Giêsu nơi xưởng mộc Nazareth xưa, cậu kiên nhẫn chờ đợi ý Chúa được thể hiện. Năm 18 tuổi, nhờ sự gíup đỡ của một linh mục, cậu xin phép cha mẹ gia nhập chủng viện Logrono. Tại đây, cậu được các giáo sư, các bề trên và bạn bè quý mến. Mọi người ghi nhận nơi chàng thanh niên này tính chăm chỉ học hành, một nếp sống đạo đức sau xa, khổ chế với chính mình nhưng lại tươi vui với mọi người. Đức Giám mục giáo phận, khi kinh lý làng Elorrio ghé thăm gia đình anh, đã nói với thân mẫu rằng : "Bà Maria ơi, có lẽ con bà sẽ làm đến Giám mục".
Sau ba năm triết học với thành quả mỹ mãn, hè năm 1848, thày Valentino về thăm gia đình, và thấy cha mẹ già yếu quá vất vả với công việc, thày trở lại xin bề trên được sống ngoại trú, để vừa đi học thần học, vừa có thể phụ giúp gia đình 30 tháng.
Hơn hai năm rưỡi đã trôi qua như thế, mãi tới khi theo lời đề nghị của một cha giáo sư, Đức Giám mục cho thày lãnh chức cắt tóc và đặt thày làm linh hướng dự khuyết của chủng viện. Đây là trường hợp rất họa hiếm nói lên uy tín của thày, tuy còn là sinh viên mà đã được chọn vào một trách vụ thường dành cho những vị linh mục lão thành đạo đức, nhiều kinh nghiệm.
Lòng tín nhiệm thày Valentino của Đức cha Irigoyen ngày càng rõ rệt hơn, khi người lần lượt trao ban chức năm, chức sáu và linh mục cho thày chỉ trong một năm (1851). Valentino đã chuẩn bị xứng đáng, và trong niềm hân hoan khôn tả, vị tân linh mục đã viết thư cho thân thân mẫu như sau : "Mẹ yêu dấu của con, hôm qua, ngày 14.08.1851, ngày mộng ước, ngày con được thụ phong linh mục… Con của mẹ giờ đây đã được tình thương Chúa nhắc lên phẩm chất cao cả, đến nỗi các thiên thần cũng phải run sợ…" (thư 16).
Hơn hai năm tận tụy với chức vụ linh hướng đại chủng viện, cha Valentino vẫn ôm ấp giấc mộng vàng thuở thơ ấu. Sau khi bàn hỏi với cha linh hướng dòng Tên tại Loyola, cha xin phép Giám mục qua dòng Đaminh. Lúc giã từ người quen, có người hỏi cha: "Cha đi đâu, và bao giờ chở lại?". Cha đáp: "Tôi đi để quê tôi có người làm Thánh". Và cha đã khởi sự quyết định nên thánh đó bằng thái độ từ bỏ dứt khoát : đường từ nhà đến tu viện Ocanã độ ba bốn ngày đường, cha quyết định đi bộ, không giày dép, không tiền bạc. Hành trang duy nhất là cuốn sách nguyện. Sau có người thấy tội nghiệp, tìm cách ép mời cha đi xe ngựa vài đọan đường.
Ocanã, một học viện của tỉnh dòng Mân Côi từ năm 1830, nơi đã đào tạo hai Đức cha An và Xuyên, khi đó đang làm Giám mục chánh và phó giáo phận Trung Đàng Ngoài, đã rộng cửa đón vị linh mục linh hướng nổi tiếng, trao tu phục và sau một năm tập như thường lệ, đã cho cha khấn trọng ngày 12.01.1854.
Ba năm sau, cha tiếp tục giấc mộng thời niên thiếu, nên qua trụ sở tỉnh dòng ở Manila để tìm đường đến Việt Nam. Sáu tháng lênh đênh trên biển cả, chiếc tàu của cha Valentino gồm các thừa sai của ba dòng tu Đaminh, Phanxicô và Augustino. Các vị tổ chức đời sống như một tu viện. Qua thư, cha Valentino thuật lại : các vị cùng nhau dâng lễ, đọc kinh nguyện mỗi ngày. Dịp Tuần Thánh, các vị cũng tổ chức nghi lễ rửa chân, suy niệm Đàng Thánh Giá, bắn pháo bông mừng phục sinh và tổ chức việc suy niệm Đức Mẹ trong tháng hoa nữa.
Ngày 17.06.1857, cha đến Manila trong niềm vui của các anh em dòng tại đây. Anh em ra đón cha tại bến tàu, rồi đưa về thánh dường hát kinh TE DEUM và tạ ơn Đức Mẹ trước bàn thờ Mân Côi.
Ngày 30.03.1858, cùng với cha Riaño Hòa và cha Carreras Hiển, cha Berrio Ochoa đặt chân lên đất Việt Nam, đến trình diện cha chính Nam và Đức cha Xuyên tại Kiên Lao. Cơn bách hại đang ở cao điểm : Đức cha An mới bị tử đạo được tám tháng, thủ cấp của Đức cha Xuyên được treo giá vàng, nên thường xuyên ngài phải ẩn nấp.
Trong thư 93 gửi về gia đình, cha Vinh đã ghi nhận : "Cánh đồng truyền giáo này không thấy lấy một ngày quang đãng, không ngày nào không phải cố gắng giữ nét vui tươi. Không ngày nào không có đau thương để khóc, không có lo toan để tìm phương bổ cứu, không có kẻ lạ mặt theo dõi hay quan quân truy lùng".
Sườn núi Canvê trơn dốc của cha Vinh đã bắt đầu. Tại đây tất cả đều còn lạ lẫm : Ngôn ngữ, tập quán, đường đi, con người và bao nhiêu thứ phải làm quen, phải học. Thế mà chỉ mới mấy ngày sau khi chào vị chủ chăn giáo phận, vì tình hình an ninh, mỗi vị phải chia tay nhau ẩn náu mỗi người một phương. Tuy mới chân ướt chân ráo đến vùng truyền giáo, cha Vinh phải vận dụng sự khôn ngoan sáng tạo để hòan thành những công tác mục vụ, thăm viếng. Tất cả mọi việc đều phải lén lút.
Hai tháng rưỡi trôi qua, tuy tiếng Việt nói chưa thông, nhưng tài năng và nhân đức của vị linh mục trẻ tuổi này đã được khẳng định. Đức cha Sampedro Xuyên, trước nguy cơ có thể bị bắt, đã chuẩn bị cho tương lai của giáo phận, ngài dùng quyền Tòa Thánh để chọn một Giám mục phó có quyền kế vị. Ngài đã chọn cha Berrio Ochoa Vinh. Đây là tâm sự của vị được tiến chức :
"Thưa Đức cha, nếu được thì xin cất chén đó cho con… Con thấy lòng tràn ngập lo lắng, áy náy khi nghĩ đến địa vị mà Đức cha muốn đặt con lên. nhưng điều mà môi miệng con nói thì con cũng xin nói cả tấm lòng, đó là xin vâng trọn ý Chúa, bây giờ và đời đời chẳng cùng".
Lễ tấn phong Giám mục Valentino Vinh, quả thực có một không hai trong lịch sử Giáo hội. Đêm 25 rạng ngày 26.06.1858, Đức cha Xuyên cử hành lễ tấn phong trong nhà ông trùm Chi ở Ninh Cường. Lễ nghi được tiến hành âm thầm giữa đêm thâu, không một tiếng hát, không một người tham dự. Hai cha Riano Hòa và Carreas Hiển là thụ phong, bao tay, vớ tất không có, mũ ngọc của tân Giám mục làm bằng giấy bìa cứng cũng phủ giấy tráng kim, gậy ngọc là một cây nứa, đầu gậy cuốn bằng rơm cũng được bọc giấy tráng kim. Việc chuẩn bị cho ngày lễ, chúng ta hãy nghe ngài thuật lại trong thư gửi cho cha Orge ở Manila.
"Con thú thật rằng, con muốn thoát khỏi vòng ràng buộc này. Nhưng biết bao lần Đức cha đã bảo con, nên theo lương tâm, buộc con phải vui nhận việc tuyển chọn… Con không giám cưỡng ý Chúa đã rõ rệt. Sau ngày được tuyển chọn, con chỉ còn vừa đủ thì giờ để cấm phòng. Con lắng nghe Ngài phán trong thinh lặng, không có lấy một cuốn sách nào giúp tĩnh tâm, mà có tìm cũng không ra … Không phải chỉ thiếu sách cấm phòng, nhưng chiều áp lễ tấn phong, thấy rằng chỉ có độ một nửa khăn áo cần dùng trong nghi lễ, Đức Giám mục đại diện Tông tòa và con phải vội vàng hai tay kim chỉ đóng vai thợ may. Tạ ơn Chúa, tới đúng giờ đã định, chúng con cũng có ít khăn áo xứng đáng…" (Thư 79).
Nếu thánh Phaolô xưa tự nhận mình là tông đồ sinh non, vị tân Giám mục cũng tự nhận là Giám mục sinh non, sinh thiếu tháng. Chưa đầy ba tháng trên đất Việt với số tuổi 31, thế mà giờ đây phải quan tâm săn sóc một giáo phận trên 150 ngàn giáo hữu giữa cơn cuồng phong bách hại ác liệt nhất. lúc này đây, ngoài Chúa ra, ai có thể cảm thông được nỗi ưu tư của ngài ?
Sau ngày tấn phong, hai Đức cha và hai linh mục lên xứ Quần Cống. Được ít hôm, quan án sát Nam Định đến bao vây làng này, khiến mỗi vị phải đi một ngả. Đức cha Vinh phải chạy sang Trà Lũ, Đức cha Xuyên qua làng Thôn Đông, rồi đến Kiên Lao thì bị bắt ngày 08.07, và bị xử lăng trì ngày 28.07.1858. Từ nay, Đức cha Vinh phải một mình lãnh trách nhiệm toàn giáo phận Trung. Theo ý vị tiềm nhiệm, Đức cha bỏ giáo phận trốn qua tỉnh Hải Dương, là nơi cuộc bách hại còn lắng dịu. Sau bốn ngày vượt sông băng lạch, ngài đến Cao Xá, tỉnh Hưng Yên, rồi tới nơi Đức cha Hermosilla Liêm và cha Almato Bình trú ẩn. Được ít lâu, ngài đã tìm được nơi trú ẩn mới trong vườn nhà anh Thăng, làng Hương La, xử Tử Nê (Bắc Ninh). Gia chủ đã đào cho ngài một hầm trú ẩn khá an toàn. Chính tại hầm này, vị "Giám mục hầm Trú" đã thành lập tòa Giám mục trong gần trọn đời Giám mục của ngài.
Khi nghe tin Đức cha Xuyên tử đạo, dầu kiên nhẫn và bình tĩnh, Đức cha Vinh đã phải phát biểu nửa đùa nửa thật rằng : "Đức Giám mục khả kính Sampedro Xuyên để lại cho tôi một gánh quá nặng. Ngày nào tôi nhoai đến thiên cung, tôi sẽ tố cáo ngài".
Trong thư gửi cho một linh mục bạn, ngài viết : "Tôi còng lưng gánh một gánh mà tôi sợ, rất sợ, sợ đổ vỡ dọc đường…". Sau đó, Đức cha tìm mọi cách trở về với giáo phận, nhưng không thể được, vì cơn bách hại tại giáo phận Trung qua khắc nghiệt.
Theo cha M. Gispert, có một lần duy nhất trong đời Giám mục, Đức cha Vinh về xứ Kẻ Mèn, thuộc giáo phận Trung. Nơi đây, cùng với cha Riano Hòa, hai vị tuyên thệ xây cất một Thánh đường dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, và nhận người làm bổn mạng của giáo phận, nếu Chúa ban cho Giáo Hội thoát khỏi cơn bách hại và hưởng thái bình. Lời tuyên thệ này về sau khi cha Hòa làm Giám mục đã thực hiện. Đó là thánh đường sau ba lần tái thiết, nay là một thánh đường kiểu Gothique nguy nga dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Phú Nhai.
Trở lại vị Giám mục hầm trú tại Hương La. Sáu tháng đầu, ngài sống chung với Đức cha Alcazar Hy, Đức cha phó giáo phận Đông, cho đến khi vị này phải rời xứ truyền giáo tạm lánh qua Macao. Chính tại hầm trú này, Đức cha điều hành giáo phận gần trọn ba năm. Nơi đây, ngài sống như một ẩn sĩ, nhưng vẫn là linh hồn của giáo phận Trung. Sinh hoạt thường ngày của ngài là cầu nguyện, hy sinh, viết thư cho các linh mục và các giáo xứ bên giáo phận. Hỗ trợ Đức cha có bốn địa chủng sinh và ông lang Thư, người Cao Xá, trong việc sao chép thư luân lưu, cũng như việc liên lạc.
Thật đáng khâm phục, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng như thế, Đức cha vẫn hướng về ánh sáng cuối đường hầm, vẫn nhìn trời xanh qua kẽ lá, vẫn chuẩn bị cho Giáo Hội tương lai trong hòan cảnh tưởng như tuyệt vọng này. Trong hầm trú, ngài vẫn tiếp tục hướng dẫn, dạy thần học cho một chủng sinh, huấn luyện các linh mục tương lai. Để ôn thêm và để việc huấn luyện được đầy đủ, giữa khung cảnh bão táp ấy, ngài viết thư cho cha quản lý ở Macao, xin gởi cho cha bộ Tổng Luận thần học, bộ Contra Gentiles của thánh Tôma và nhất là bộ Giáo Luật.
Ba năm trải qua như thế. Tất cả ở dưới hầm trú, trừ đôi lần giữa đêm, ngài ra khỏi đó để thăm và xưng tội với Đức cha Liêm, hoặc đi giúp các bệnh nhân, nhưng không vượt ra khỏi ranh giới hai làng Đức Trai và Tử Nê. Một vài lần, ngài phải cuốn gói chạy trốn qua một hầm khác để tiếp tục ẩn nấp. Thực tả sao cho xiết nỗi cơ cực và nỗi khổ ngài chịu. Cơ cực vì hầm chật chội, ngột ngạt, ăn uống thiếu thốn … Khổ tâm vì không thể về với giáo phận mình, trong khi cơn bách hại ngày càng gia tăng. Các hung tin được loan báo tới tấp : Một, hai … rồi 18 linh mục tử đạo, các thày giảng và biết bao giáo hữu bị ngã gục vì đức tin chân chính. Trong một thư gửi cho Thánh Bộ Truyền Giáo, cha viết:
"Rất có thể trong ít tháng nữa, giáo phận của tôi chẳng còn thừa sai, chẳng còn linh mục, không chủng sinh, không thày giảng và không biết còn nên nói thêm chăng, không còn bổn đạo" (Thư 93).
Tuy sống gian khổ như thế, Đức cha Vinh đã không một lời rên rỉ, không một tiếng thở than. Cái "chương trình" thánh thiện trong vui tươi của anh chủng sinh vừa học vừa làm thời niên thiếu, giờ dây ngài vẫn trung thành thực hiện. Ta có thể thấy điều đó trong một thư gửi cho thân mẫu vào tháng 08.1860 :
"Mẹ chí yêu lòng con,
"Mẹ hỏi con sống thế nào, ăn uống làm sao ? Mẹ quý mến của con ơi ! Con sống tươi lắm, con làm Giám mục cơ mà ! Còn thức ăn ngày nào cũng có. Đừng lo mẹ ạ, chúng con chẳng đói đâu. Nhưng mẹ tưởng hễ làm Giám mục là phải ngồi ngựa à ? Không, chúng con tuột giầy ra giữa đêm hôm tăm tối, nhoài hết chỗ lội này đến quãng lội khác, vậy mà cứ vui thôi. Một hôm, con lội sáu dặm đường, trên mưa tuôn, dưới bùn trơn, con ngã soành soạch không biết bao nhiêu lần. Tuy là Giám mục, con cũng ướt như chuột và lấm bùn be bét. Nhưng giáo hữu ở đây tốt lắm, về tới nhà đã thấy họ đổ nước cho con tắm rửa sạch sẽ để chuẩn bị dâng lễ…
"Ồ có lẽ mẹ bảo : Vinh nhỏ của mẹ ơi, sống thế xìu lắm ! Không, chả buồn chả xìu chút nào mẹ ạ. Ở đây người ta sống mạnh, sống tươi, nhanh nhẹn lắm. Chúa an ủi chúng con trong lao nhọc. Con tuy là "trai già" mà nhảy qua vũng lội vẫn lẹ như sóc ấy. Mẹ ạ, Vinh trước đã là đứa con nhảy nhót qua núi đồi thì nay bộ mặt đầy râu của nó, cũng sẽ làm những tên quỷ già nhất ở trong hỏa ngục phải run sợ…"(Thư 116).
Quả thực, phải có tâm hồn tươi trẻ và siêu nhiên mới có được thái độ và lời lẽ như vậy, vừa dí dỏm vừa tươi vui pha chút đùa bỡn nữa. Những lá thư như thế phản ảnh được sự bỏ mình và nét tươi trẻ của vị Giám mục tử đạo 34 tuổi xuân này. Thực là cái vui của các vị thánh, của những tâm hồn đầy Chúa. Chẳng bao lâu nữa, vẫn với niềm vui tươi và tính đơn sơ phó thác ấy, ngài giơ đầu đón nhát gươm lý hình, và trên khuôn mặt đẫm máu đào của ngài, còn ánh lên nét tươi vui.
Tháng 8.1861, chiếu chỉ phân sáp của vua Tự Đức như một cơn hồng thủy tràn lan mọi thị xã cũng như thôn quê. Làng Hương La cũng không thể yên ổn được nữa. Đức cha Vinh liền xuống thuyền với linh mục Almato Bình, xuôi dòng xuống Hải Dương. Tại đây, may mắn hai vị gặp Đức cha Liêm và thày Khang đang ở trên một thuyền khác trong bầu không khí thân mật và cảm động. Nhưng sau đó, thuyền ngài lại phải tiếp tục cuộc hành trình. Các giáo hữu giới thiệu hai vị trọ nhà một người ngoại giáo làm phó lý ở gần đó. Không ngờ cháu ông này đi báo với quan, khiến hai vị bị bắt ngày 25.10.1861 và bị đóng cũi giải về Hải Dương. Tại đây, hai vị gặp Đức cha Liêm trong một cũi khác, ngài đã bị bắt trước đó năm ngày.
Ngày 01.11.1861, ba vị thừa sai cùng bị đem đi xử. Quân lính áp giải đông như đi rước. Cũi Đức cha Vinh đi giữa hai vị kia. Ngài bình tĩnh ngồi cầu nguyện như thói quen, nét mặt tươi tỉnh khiến mọi người phải ngạc nhiên. Tại pháp trường Năm Mẫu, sau ít phút cầu nguyện, lý hình đã chém đầu các ngài theo hiệu chiêng trống. Thi thể ba vị tử đạo được chôn tại đó, sau được cải về Thọ Ninh, rồi Kẻ Mốt. Đến đời Đức cha Hiển, thi thể Đức cha Vinh được gởi về Macao, và sau cùng được đem về quê hương của ngài.
Đức Piô X đã suy tôn Giám mục Valentino Berrio Ochoa Vinh lên bậc Chân Phước ngày 20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Nguồn từ thư viện Đa Minh
 

Trường Thi Tử Đạo

Valentinô Vinh sinh năm Ðinh Hợi (1827)
Tại Elorricô tên gọi (Tây) Ban Nha
Ðịa phận Vich là quê cha
Con ông thợ mộc như là (Chúa) Giêsu

Từ thủa nhỏ thích tu, ham học
Nhà lại nghèo làm mộc sinh nhai
Cậu Vinh nài nỉ một hai
Xin vào Chủng viện tương lai huy hoàng

Cậu tình nguyện vừa làm vừa học
Sau năm năm hết bậc phổ thông
Cậu được cha mẹ bằng lòng
Cho vào Chủng viện thuộc dòng Logromo

Học hành giỏi điểm tô đức hạnh
Với mọi người bên cạnh thân thương
Ðức Cha Giáo phận địa phương
Ðến thăm quê cậu đoán đường về sau

Tương lai cậu (Vinh) tiến mau Giám mục
Vì tinh thông vượt bực Chủng sinh
Mẹ nghe lòng cũng đinh ninh
Nhà quê nào biết con mình giỏi giang

Sau ba năm bậc thang Triết học
Về trông thấy mệt nhọc của cha
Tuổi cao vất vả thân già
Cậu xin ngoại trú việc nhà đảm đương

Ba mươi tháng hồi hương tạm trú
Cậu học hành chăm chú hơn ai
Ðức Cha nhận rõ biệt tài
Ban phép cắt tóc một vài tháng sau

Làm linh hướng tiến mau dự khuyết
Chức vụ này đặc biệt các cha
Thầy Vinh phúc lộc chan hoà
Chịu chức linh mục hoan ca tưng bừng

Hơn hai năm lẫy lừng linh hướng
Xin Ðức Cha đổi xuống (dòng) Ðaminh
Thực hiện ý định của mình
Muốn sang giảng đạo cảm tình Việt Nam

Ðường đi lại gian nan cách trở
Chặng đi đầu tạm ở nước Phi
Vài tuần sau có chuyến đi
Con tàu Phi Việt gặp khi tốt trời

Ðến Việt Nam ôi thôi mừng quá
Ðiều ước mơ nay đã tới liền
Ðến trình diện với Ðức Cha Xuyên
Cha con gặp gỡ ở miền Kiên Lao

Lệnh cấm đạo gắt gao hơn trước
Ở bên nhau chỉ được mấy ngày
Cha con lại phải chia tay
Mỗi người một ngã tránh bầy sói lang

Tuy phải trốn ngài càng nổ lực
Thăm giáo dân khổ cực ban đêm
Thánh Thần phù hộ ngài thêm
Ðức Cha Xuyên muốn cha lên thay ngài

Ðoán trước được tương lai giáo phận
Khuyên cha Vinh nên nhận lời mời
Mừng lo khó nói nên lời
Chén đó con sợ không rời ý cha

Lễ tấn phong ban ra Mậu Ngọ (1858)
Tại nhà ông trùm họ Minh Cường
Kể ra thì rất thảm thương
Gậy tre mũ giấy thánh đường nhà dân

Sau chịu chức trú chân Quần Cống
Ðược vài ngày chiêng trống bao vây
Bây giờ biết tính sao đây
Mỗi người một ngã đường dây đi về

Ðức Cha Xuyên bốn bề vây bắt
Ðức Cha Vinh sắp đặt trong ngoài
Bây giờ biết cậy vào ai
Trên mình gánh nặng một hai sẵn sàng

Cuộc bách hại ngày càng gay gắt
Ở quanh đây bị bắt như chơi
Buộc lòng ngài phải xa rời
Hưng Yên, Cao Xá là nơi an toàn

Một giáo hữu khôn ngoan anh Thắng
Có thửa vườn thanh vắng của nhà
Ðào hầm trú ẩn nuôi (Ðức) Cha
Ở đây hoạt động được ba năm trường

Việc Giáo phận đảm đương phụ trách
Còn dạy cho đặc trách Chủng sinh
Khi dâng lễ, lúc nguyện kinh
Nơi Toà Giám Mục thu mình hầm sâu

Lệnh phân sáp khổ đau ập đến
Ngài rời đây tới bến Hưng Yên
Ðến đây ngài bị bắt liền
Ðem nộp quan huyện lãnh tiền thưởng chơi

Ðức Cha Vinh được mời vào củi
Tuy bị giam mặt mũi vẫn tươi
Tử hình án đã phê rồi
Pháp trường Năm Mẫu là nơi hành hình

Phúc tử đạo hiển vinh Ðinh Hợi (1861)
Một chứng nhân quen gọi cái tên
Ðức Cha hầm trú ngày đêm
Gậy tre mũ giấy là tên của ngài

Năm Bính Ngọ (1906) bài sai Toà Thánh
Ðược suy tôn danh tánh của ngài
Lên bậc Chân phước không sai
Ðời đời bên Chúa trần ai phụng thờ

Lời bất hủ: Các hung tin được loan báo tới tấp, một.hai rồi 18 linh mục tử đạo, các thầy giảng và biết bao tín hữu bị ngã gục vì đức tin chân chính, trong bức thư gửi Thánh bộ Truyền giáo Ðức Cha viết: "Rất có thể ít tháng nữa, địa phận của tôi chẳng còn thừa sai, chẳng còn linh mục, không chủng sinh, không thầy giảng và không biết còn nói thêm chăng.Không còn bổn đạo". (trích thư chung 93)
www.tinmung.net
Bài đọc 2 
Chúng ta hãy mau đến với các anh em đang chờ đợi chúng ta 
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.

Chúng ta ca ngợi các thánh để làm gì ? Chúng ta tôn kính các thánh để làm gì ? Chúng ta mừng ngày đại lễ này để làm gì ? Những vinh dự trần gian ích gì cho các ngài, một khi Chúa Cha trên trời tôn vinh các ngài đúng như lời Chúa Con đã hứa ? Lời tán dương của chúng ta ích gì cho các ngài ? Các thánh không cần chúng ta tôn vinh, và lòng tôn kính của chúng ta cũng chẳng thêm gì cho các ngài. Thực ra, chúng ta kính nhớ các ngài thì ích lợi cho chúng ta chứ không phải cho các ngài. Phần tôi, tôi phải thú thật là khi tưởng nhớ các ngài, tôi cảm thấy bừng lên trong lòng một khát vọng mãnh liệt. 
Thật vậy, việc kính nhớ các thánh hoặc khơi lên hoặc thôi thúc mãnh liệt hơn trong ta niềm khát vọng đầu tiên này : đó là mong hợp đoàn với các ngài, được xứng đáng làm người đồng hương và làm bạn hữu với các thánh, được liên kết với chư vị tổ phụ, với hàng ngôn sứ, với bậc tông đồ, với hàng hàng lớp lớp các vị tử đạo, với cộng đoàn các vị tuyên xưng đức tin, với đoàn trinh nữ. Tóm lại, chúng ta được hân hoan sum họp trong mối dây hiệp thông với toàn thể các thánh. Cộng đoàn các con đầu lòng của Thiên Chúa đang đợi chúng ta, thế mà chúng ta vẫn vô tình ! Các thánh đang mong chúng ta, thế mà chúng ta lại coi thường ! Các bậc công chính đang đợi chúng ta, thế mà chúng ta vẫn hờ hững ! 
Cuối cùng, thưa anh em, chúng ta hãy thức dậy, hãy chỗi dậy cùng với Đức Ki-tô. Chúng ta hãy tìm hiểu những gì thuộc thượng giới, hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới. Chúng ta hãy mong những người đang mong chúng ta, hãy mau đến với những người đang đợi chúng ta, hãy hết lòng ước nguyện tiến đến với những người đang chờ chúng ta. Không những chúng ta phải ao ước được hợp đoàn với các thánh, mà còn phải ao ước được chia sẻ hạnh phúc với các ngài, để khi chúng ta mong được ở với các ngài, thì chúng ta cũng nóng lòng ôm ấp tham vọng được chia sẻ vinh quang với các ngài. Quả vậy, ôm ấp tham vọng như thế không có gì là nguy hiểm. 
Việc kính nhớ các thánh đốt lên trong lòng chúng ta khát vọng thứ hai : Đó là mong mỏi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện cho các thánh thế nào thì Người cũng xuất hiện cho chúng ta như thế, và chúng ta được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang. Trong khi chờ đợi, hẳn nhiên Người tỏ mình ra cho chúng ta không phải theo bản chất thường hằng của Người, nhưng theo thân phận Người đã đón nhận vì chúng ta : Người cho thấy Người là đầu của chúng ta, nhưng không phải là đầu đội triều thiên vinh quang, mà là đầu cuốn vòng gai vì tội lỗi chúng ta. Thật đáng xấu hổ khi đầu đội vòng gai mà một chi thể theo đuổi lạc thú, vì toàn thể chiếc áo đỏ thắm khoác trên mình Người chưa phải là áo vinh dự cho bằng là áo nhạo cười. Sẽ có ngày Đức Ki-tô ngự đến, và ngày đó không còn phải loan báo về cái chết của Người nữa, để chúng ta biết rằng chính chúng ta cũng đã chết và sự sống của chúng ta hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô. Đầu hiển vinh sẽ xuất hiện và, cùng với đầu, các chi thể đã được tôn vinh sẽ chiếu sáng, khi Người biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống đầu vinh hiển là chính Người. 
Vậy chúng ta hãy hết lòng bền chí khát khao vinh quang ấy. Và để chúng ta có quyền hy vọng đạt tới vinh quang ấy, có quyền hướng tới hạnh phúc lớn lao chừng ấy, chúng ta cũng phải hết sức ước ao các thánh cầu nguyện cho, ngõ hầu những gì tự sức chúng ta không xin được, thì nhờ lời chuyển cầu của các ngài, Chúa sẽ ban cho chúng ta. 
Lời Nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con được mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng con tin tưởng nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. Chúng con cầu xin...
(trích bài đọc Giờ Kinh Sách Lễ Các Thánh-bản dịch của nhóm CGKPV)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét