Trang

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

23-03-2014: (phần II) CHÚA NHẬT III MÙA CHAY năm A

23/03/2014
Chúa Nhật III Mùa Chay Năm A
(phần II)

GIÁO LÝ PHÚC ÂM CN 3 MÙA CHAY A

CHÚA NHẬT III MÙA CHAY NĂM A

Sách Xuất Hành 17.3-7; Thư Thánh Phaolô gửi Tín hữu Roma 5.1-2.5-8
và Phúc Âm Thánh Gioan 4.5-42

I. Giáo Huấn P.Â.:  
          Chúa Giêsu là Nước hằng sống, chỉ có Ngài mới có thể thoả đáp mọi khát vọng đời người. “Ai uống nước tôi cho sẽ không còn khát nữa!”

Chúa khao khát ban phát nước hằng sống, tức ban phát chính Chúa là Đấng Cứu Độ cho muôn người “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn Đấng đã sai Thầy.”

Chúa Giêsu đến để thiết lập một nền phượng tự không tuỳ thuộc vào nơi chốn đền thờ, nhưng trong tâm hồn mỗi người. Tin thờ Thiên Chúa từ tâm hồn với sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.

II. Vấn nạn P.Â.   
          Miền Samaria, hay Shomron trong tiếng Do Thái đã là thủ đô của Do Thái thời vua Omri vào khoảng năm 884 trước Chúa Giáng Sinh. Đây là phần đất trước đó mang tên Shemer mà Omri đã mua lại với giá hai nén bạc như được ghi lại torng Sách Các Vua quyển I chương 16, 23-24.

Dưới thời vua Hôsêa được ghi trong sách các Vua quyển II, năm 721 trước Công nguyên quân đội Assyria dưới thời hoàng đế Shalmaneser V đã đánh chiếm Israel và bắt dân cư miền Samaria đi lưu đầy Babylon. Dân cũ bị đi lưu đày.  Dân mới từ những vùng phụ cận được mang vào định cư trên đất Samaria. Họ cũng được gọi là người Samaria hay Cuthim. Kể từ đó, Người Do Thái coi Samaria như phần đất của Dân ngoại. Những hiềm khích vì tôn giáo thường xảy ra giữa người dân Samaria và người Do Thái định cư ở Miền Bắc Galilê và Miền Nam Giuđêa.

Trong Tân Ước, có nhiều tường thuật liên quan đến Samaria:

Phúc Âm Thánh Luca 17. 11-20 tường thuật phép lạ chữa lành 10 người phong cùi xảy ra ở biên giới Samaria và Galilê.

Phúc Âm Thánh Luca 9, 51-62 tường thuật việc Dân Thành Samaria không tiếp đón Chúa đến nỗi Giacôbê và Gioan, hai người con của sấm sét muốn xin lửa từ trời xuống tiêu diệt họ.

Trong Phúc Âm Thánh Gioan 4, 4-42 tường thuật việc Chúa gặp người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp làng Sychar trên đường từ Giêrusalem về Galilê. Ngài đã mạc khải cho bà ta biết Ngài là Đấng Messia.

Trong sách Tông Đồ Công Vụ 8, 5-11 tông đồ Philipphê đã đến giảng đạo ở những thành phố của Samaria.

          Bản đồ giao thông đường bộ của Do Thái thời Chúa Giêsu cho chúng ta khái niệm về địa dư Do Thái thời Chúa Giêsu. Đường đi bộ từ Galilêa xuống Giuđêa, nếu đi qua Samaria sẽ mất 3 ngày, nếu đi lối khác không qua Samaria, sẽ mất 6 ngày, vì phải đi vòng qua sông Giorđan. Phần đất nhỏ bé nầy được chia thành ba miền: Miền Bắc tên Galilêa, Miền Trung tên Samaria và Miền nam tên Giusđêa. Phương tiện di chuyển duy nhất là đường bộ. Người dân Samaria gần như đã không bị lưu đầy trong khi dân Miền Nam và Miền Bắc đã bị lưu đày Babylon. Khi người Dân Do Thái Miền Bắc và Miền Nam hồi hương, đã không chấp nhận người dân Samaria là thành phần của Dân Tộc Do Thái có chung tổ phụ Abraham. Người dân Samaria xây dựng đền thờ riêng thờ Chúa ở núi Gerizim. Còn trung tâm phượng tư của Miền Bắc và Miền Nam được thiết lập ở Giêrusalem và đền thờ Giêrusalem. Người Samaria chỉ chấp nhận Ngũ Kinh, tức năm quyển sách đầu trong Cựu Ước: sáng thế Ký, Xuất Hành, Dân Số, Lêvi và Đệ Nhị Luật.

          Một thành xứ Samaria tên là Xy-kha: Ngtười ta nghĩ đây chính là thành Sikhem cổ kính, vì gần với phần đất mà theo sách Sáng Thế 48, 22 tổ phụ Gia cóp đã ban cho ông Giu se. Chữ Sychar có nghĩa là người say rượu và dối trá mà người Do Thái dùngg để chế nhạo dân làng Sychar.

          Có Giếng của ông Gia cóp: Giếng nầy vẫn còn, không lớn lắm, đường kính khoảng hai thước rưởi và sâu khoảng 35 thước nhưng không có nước. Không ai có thể quyết đoán là chính tổ phụ Giacóp đã đào giếng nầy và tại sao, vì chung quanh vùng có nhiều suối nước nhỏ. Tuy nhiên truyền thống tin rằng: giếng nước ngọt nầy được Gia cóp trối lại như di sản là hình ảnh sự sống mà người Israel đã lãnh nhận từ đức tin các Tổ phụ. Hơn nữa, trong truyền thống Thánh Kinh, giếng nước là nơi gặp gỡ có tính cách như hứa hôn, như giữa Giacóp và Rachel được ghi lại trong Sáng Thế Ký Chương 29, như giữa Môsê và các con gái  của Yêthrô được ghi ntrong Xuất Hành 2,15-22. Ở đây, chính Chúa Giê su như vị Tân lang đến gặp gỡ nhân loại tội lỗi, mà người phụ nữ Samari là hình ảnh để lắp đầy khát vọng cuộc sống con người.

          Có một người phụ nữ Samaria đến lấy nước: Rất bất thường và khó coi trong cuộc gặp gỡ bên bờ Giếng Giacóp nầy: một là Chúa Giêsu nói với một người phụ nữ nơi công cộng, hai là người phụ nữ ấy lại là người Samaria. Tuy nhiên, như đã nói, Chúa Giê su như một tân lang đi tìm kiếm người vợ phản bội. Đấng Cứu thế đi tìm kiếm và cứu giúp nhân loại tội lỗi. Ngài đi từ thứ nước tự nhiên hằng ngày để hướng con người đến nước hằng sống, là chính Ngài, Đấng thoả đáp mọi khát vọng đời người. Thiên Chúa là Đấng con người phải tôn thờ. Con người mkhổ công đi tìm nước tự nhiên tạm thời giải khát, nhưng không bao giờ hết khát. Con người lặn lội trong những cuộc tình, nhiều chồng hay nhiều vợ, hy vọng rằng sẽ làm thoả mãn chính mình. Nhưng khát vọng không bao giờ được lấp đầy.

Nước giếng chỉ là một hình ảnh. Còn nước hằng sống mà Ngài ban cho, vượt hẳn sự thoả mãn về phần vật chất. Nước giếng Gia cóp là hình ảnh chỉ sự phong phú của Cựu Ước, tuy nhiên cơn khát vẫn còn. Trái lại, Chúa Giê su nhấn mạnh đến nguồn nước mà Ngài ban trở thành một thoả mãn hoàn toàn cho khát vọngt đời người.

          Chị hãy gọi chồng chị …. Tôi không có chồng  Một thú nhận về đời sống thiếu luân lý nhưng cũng bày tỏ thực tế đời mình: Chị đi tìm hạnh phúc qua những cuộc tình với nhiều đàn ông. Thánh Gioan dùng người phụ nữ Samaria thiếu luân lý nầy như một đại diện cho nhân loại tội lỗi: Không có chồng nào là chính thức cả, nhưng thực tế có nhiều đàn ông đến trong đời. Người tội lỗi là người đa thần: thần tài, thần tình, thần tham vọng… và không có một thần nào đúng là Thiên Chúa đích thực để mang lại hạnh phúc đích thật.

 III. Thực hành P.Â.:
Xin đừng làm chuyện khó tin, khó coi và vô ích

          Trong một lần giảng tĩnh tâm, người tham dự hỏi tôi: Có một linh mục tường thuật lại rằng: Thời buổi nầy linh mục, tu sĩ chúng tôi phải sống thật gần gũi dân chúng mới hy vọng hiểu được họ và hoán cải họ. Chính tôi đây đã về VN đôi lần. Tôi không trọ ở trụ sở nhà dòng. Đêm đến tôi đi ngủ ở gầm cầu hay vĩa hè với người vô gia cư. Tôi đã từng mướn phòng ngủ và đưa những cô gái điếm vào đó, nhưng không hề đụng chạm đến cô. Tôi muốn hoán cải và cho các cô gái điếm thấy rằng: Ở đời không phải sống chỉ để thoả mãn xác thịt, nhưng còn có cái gì cao hơn! Đó chính là Thiên Chúa, Đấng có thể thoả đáp mọi khát vọng con người.

          Tôi đã trả lời: Nếu lần sau nghe một linh mục nào nói như thế, xin hãy khuyên Ngài rằng: Đừng nên làm chuyện khó tin, khó coi và vô ích đó.

          Thật vậy, ai có thể tin được là một người đàn ông bốn mươi tuổi đi với một người đàn bà vào phòng riêng, đóng cửa lại và nói chuyện đạo đức, chuyện đời sau và chuyện hoán cải đời sống?

          Bất cứ ai, dù có đạo hay không có đạo nếu biết một linh mục đi ngủ gầm cầu với người vô gia cư hay đi vào động điếm thì thử hỏi: Họ có chấp nhận được không? Họ có khâm phục linh mục đó không hay hành động của linh mục đó đã đẩy họ đến những thắc mắc đầy nghi ngờ và mất tin tưởng.

          Xin hỏi những ai truyền giáo theo kiểu sống gần gũi với người nghèo đến độ khó tin và khó coi đó có mang được ích lợi nào cho những người vô gia cư hay đĩ điếm nầy chăng? Những vị Giáo Hoàng đạo đức, những Giám Mục thánh thiện, những linh mục chuyên lo truyền giáo có làm những chuyện mà những linh mục nầy đang làm không?

          Phong trào linh mục thợ bắt đầu với Cha Jacques Loew năm 1941 khi ngài đi làm công nhân cầu đường ở Marseille. Năm 1944, phong trào linh mục thợ truyền giáo được thiết lập ở Paris, Marseille và Lyon. Tuy nhiên, phong trào không kéo dài lâu, vì kết quả truyền giáo hay hoán cải con người không có gì khả quan. Trái lại, số linh mục đi làm thợ càng ngày càng không thấy trở về. Họ đã bị giòng đời, như những làn sóng mạnh cuống mất và nhận họ chết chìm trong những tình cảm nam nữ và trong những cuộc săn tìm vật chất. Đúng là kiểu bắt cá mà bị mất cả chì lẫn chài.

          Tôi bằng lòng sống đời linh mục bình thường và chu toàn bổn phận hằng ngày. Như vậy tạm đủ để chứng minh Chúa là nước hằng sống có thể thoả đáp khát vọng con người rồi.
Lm. Phêrô TRẦN THẾ TUYÊN – Gp. Cần Thơ


Khát vọng vô biên của con người


Andre Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cách đây vài năm, là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín…
Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ đợi ông. Trong phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý”.
Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách những tác phẩm bán chạy nhất (best-seller)…
Anh chị em thân mến,
Dù cho chúng ta có chối bỏ Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn luôn chờ đợi chúng ta. Tại một góc đường nào đó, trước một ánh nến lung linh nào đó, trong một biến cố đau thương nào đó, Ngài đang chờ đợi chúng ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc nào cũng chờ đợi chúng ta… Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi hẹn hò của Thiên Chúa. Bao lâu chúng ta còn tìm kiếm, bao lâu chúng ta còn phấn đấu, bao lâu chúng ta còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta…
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đang chờ đợi người thiếu phụ Samari bên bờ giếng của Tổ phục Giacob giữa ngã ba đường, tại làng Sikar. Từ một lời xin được nước uống, Chúa Giêsu đã khéo léo bắt chuyện và dần dần đưa người thiếu phụ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: từ chỗ chỉ thấy người đối thoại với mình là một người lữ hành, một người Do Thái kỳ lạ, dám tiếp xúc với một người phụ nữ Samari vốn thù nghịch với mình, đến chỗ coi người lữ hành nầy như một tổ phụ – như Tổ phụ Giacod – còn hơn nữa, như một tiên tri và cuối cùng nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế đã được trông đợi từ lâu. Chị liền vội vàng chạy đi thông báo cho dân thành đến với Đấng Cứu Thế. Chính ngài sẽ ban cho chúng ta “Nước hằng sống”. Bao lâu chưa tìm ra nguồn nước đó, con người sẽ chết đói, chết khát.
Cuộc hẹn bất ngờ đã làm đảo ngược tình huống: Bây giờ người đói, người khát không phải là Chúa Giêsu nữa mà chính là người thiếu phụ Samari. Chính chị là người phải mở miệng xin Chúa cho nước uống, không phải thứ nước từ trong giếng kia, uống vào chỉ đỡ khát trong chốc lát; còn Ngài, Ngài sẽ ban cho thứ nước ban sự sống đời đời, như Ngài nói: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt mang lại sự sống đời đời”.
Thưa anh chị em,
Con người sinh ra trong giới hạn, nhưng lại mang một khát vọng vô hạn. Và để thỏa mãn cơn khát đó, kẻ thì đánh lừa mình bằng cách tạo ra những thần tượng để tôn thờ và họ sẽ thất vọng… Kẻ thì lấp đầy khao khát đó bằng cách lăn xả vào những khoái lạc vật chất. Họ cũng sẽ thấy chán chường, không bao giờ thấy thỏa mãn. Chúa Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari: “Ai uống nước giếng nầy, sẽ vẫn còn khát…”, thứ nước này không giải khát hoàn toàn, nó vừa xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai mà chẳng biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ no thỏa. Ai lại không cảm thấy nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát lại càng uống, càng uống lại càng khát…
Chỉ có Chúa Kitô, phát xuất từ Thiên Chúa vô biên có thể dạy chúng ta ý nghĩa khao khát đó. Ngài dạy chúng ta sống với vô biên, khát cái phải khát, và chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy khát vọng vô biên của con người. Chính Đấng Vô Biên đã tạo ra trong lòng chúng ta cái khát vọng vô biên, không sao thỏa mãn, không sao lấp đầy đó. Chỉ khi nào gặp được Đấng Vô Biên trong Đức Kitô, lòng chúng ta mới được thỏa mãn mà thôi.
Thánh Augustinô, sau một khoảng đời đi tìm kiếm danh vọng, địa vị, tiền tài, tình yêu, hạnh phúc, cuối cùng đã chán ngán, ăn năn sám hối trở lại với Chúa và ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm kiếm cái gì khác ở ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Lạy Chúa, con đã biết Chúa quá muộn! Con đã yêu Chúa muộn quá rồi!”.
Người thiếu phụ Samari hôm nay khi gặp được Đức Giêsu – nguồn mạch nước hằng sống – đã phải thốt lên với mọi người: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi mọi việc tối đã làm. Phải chăng ông ấy là Đấng Kitô”. Sau khi dân thành Samari kéo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài ở lại, họ đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế”.
Và cũng như Andre Frossard, một đảng viên cộng sản đầy xác tín đã phải thốt lên: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Không phải chỉ thốt lên bằng một lời nói mà bằng cả một tác phẩm ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ thiêng liêng ấy, một tác phẩm thuộc loại sách bán chạy nhất.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu là niềm khát vọng thầm kín, sâu xa của mọi người và mỗi người chúng ta trong cái khát vọng cơm nước tầm thường hằng ngày của chúng ta, để rồi chúng ta cảm thấy không phải chỉ cần có thứ cơm nước đó mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất ấy là đáng kể trong đời sống mà còn có những khát vọng tình yêu và hạnh phúc, độc lập và tự do, công lý và hòa bình…, và lắng sâu trong tâm hồn còn có khát vọng sự sống vĩnh cửu; Nước Hằng Sống.
Chúng ta phải làm sao để cảm thấy Chúa cần thiết cho đời sống của chúng ta, gắn liền với cuộc sống chúng ta như ánh nắng, như khí thở, như cơm ăn, như nước uống hằng ngày: “Ai uống nước Tôi ban cho sẽ không bao giờ khát nữa… và sẽ được sống muôn đời”.
R. Veritas
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Lectio Divina: Chúa Nhật III Mùa Chay (A)

Chúa Nhật, 23 Tháng 3, 2014
Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người đàn bà xứ Samaria
Cuộc đối thoại mang đến đời sống mới
Ga 4:5-42

1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường E-mau.   Với ánh sáng của Lời Chúa trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã được mặc khải như là nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.

Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con cũng giống như hai môn đệ trên đường E-mau, để chúng con cũng sẽ hưởng được sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình anh em, của công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Chúa là Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

2.  Bài Đọc

a)  Chìa khóa để mở bài Tin Mừng:

Đoạn Tin Mừng mô tả cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria.  Đó là một cuộc đối thoại rất nhân bản, trong đó cho thấy làm cách nào Chúa Giêsu đã liên kết với loài người và bằng cách nào mà Người đã tự học hỏi và trở nên phong phú khi nói chuyện với người khác.  Trong khi đọc đoạn Tin Mừng, bạn hãy cố gắng để ý xem điều gì đã làm bạn ngạc nhiên nhất về thái độ của Chúa Giêsu lẫn của người phụ nữ.
   
b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho việc đọc kỹ càng:

Ga 4:5-6:  Quang cảnh nơi cuộc đối thoại diễn ra
Ga 4:7-26:  Mô tả cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà
7-15:  Về nước và khát
16-18:  Về chồng con và gia đình
19-25:  Về tôn giáo và nơi thờ phượng
Ga 4:27-28:  Mô tả tầm ảnh hưởng của cuộc đối thoại về phía người phụ nữ
Ga 4:31-38:  Mô tả sự ảnh hưởng của cuộc đối thoại về phía Chúa Giêsu
Ga 4:39-42:  Mô tả tầm ảnh hưởng về sứ vụ của Chúa Giêsu tại xứ Samaria

c)  Phúc Âm:

5-6:  Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar, thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse.  Ở đó có giếng của Giacóp.  Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
7-15:  Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước.  Chúa Giêsu bảo:  “Xin bà cho Tôi uống nước.” Lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn.  Người đàn bà Samaria thưa lại:  “Sao thế!  Ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?”  Vì người Do Thái không giao thiệp gì với người Samaria.  Chúa Giêsu đáp:  “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà :  ‘Xin cho tôi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người và Người sẽ cho bà nước hằng sống.” Người đàn bà nói:  “Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu; vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?”  Chúa Giêsu trả lời:  “Ai uống nước giếng này sẽ còn khát; nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời.”  Người đàn bà thưa:  “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa.”
16-18:  Chúa Giêsu bảo:  “Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây.”  Người đàn bà đáp:  “Tôi không có chồng.”  Chúa Giêsu nói tiếp:  “Bà nói ‘tôi không có chồng’ là phải; vì bà có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã nói đúng đó.”
19-26:  Người đàn bà nói:  “Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri.  Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem.”  Chúa Giêsu đáp:  “Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem.  Các người thờ Đấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do Thái mà đến.  Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn.  Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý.”  Người đàn bà thưa:  “Tôi biết Đấng Mêssia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.”  Chúa Giêsu bảo:  “Đấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây.”
27-30:  Vừa lúc đó các môn đệ về tới.  Các ông ngạc nhiên thấy Người nói chuyện với một người đàn bà.  Nhưng không ai dám thưa:  “Thầy hỏi bà ta điều gì?” hoặc “Tại sao Thầy nói chuyện với người đó?” Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng:  “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm.  Phải chăng ông đó là Đấng Kitô?”  Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Người, trong khi các môn đệ giục Người mà rằng:  “Xin mời Thầy ăn.”  Nhưng Người đáp:  “Thầy có của ăn mà các con không biết.”  Môn đệ hỏi nhau:  “Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?”  Chúa Giêsu nói:  “Của ăn Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và chu toàn công việc Ngài, các con chẳng nói:  ‘còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt’ đó ư?’  Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt.  Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng.  Đúng như câu tục ngữ:  ‘Kẻ này gieo, người kia gặt.’  Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ.”
39-42:  Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng:  “Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm.”  Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ; và Người đã ở lại đó hai ngày.  Và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn.  Họ bảo người đàn bà:  “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Đấng Cứu Thế.”

3.  Giây phút cầu nguyện trong thinh lặng

Để cho Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm và cầu nguyện.

a)  Điều gì đã thu hút sự chú ý của bạn nhất trong thái độ của Chúa Giêsu đối với người đàn bà trong cuộc đối thoại?  Chúa Giêsu đã sử dụng phương pháp gì để giúp người đàn bà nhận thức được về một khía cạnh sâu xa hơn của đời sống?   
b)  Điều gì đã thu hút sự chú ý của bạn nhất về thái độ của người đàn bà Samaria trong cuộc đối thoại với Chúa Giêsu?  Bà ta đã ảnh hưởng đến Chúa Giêsu bằng cách nào?    
c)  Chỗ nào trong phần Cựu Ước, nước được xem như có liên hệ với ân sủng của đời sống và ân sủng của Chúa Thánh Thần?
d)  Thái độ của Chúa Giêsu trong cuộc trò chuyện nêu vấn đề với tôi hoặc đụng chạm tới điều gì đó trong tâm hồn tôi hay sửa đổi tôi như thế nào?   
e)   Người đàn bà Samaria đã lái câu chuyện hướng về đề tài tôn giáo.  Nếu bạn có cơ hội gặp gỡ Chúa Giêsu giữa đàng và trò chuyện với Người, thì bạn muốn nói về chuyện gì?  Tại sao?
f)  Tôi có tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý không hay là tôi chỉ đi tìm sự an toàn cho bản thân trong các nghi thức và luật lệ?   
                                                                                                                                                                                 
5.  Chìa khóa dẫn đến bài đọc

Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề

a)  Biểu tượng của nước:

*  Chúa Giêsu dùng chữ nước theo hai nghĩa.  Nghĩa đầu tiên chỉ về vật chất, ý nghĩa thông thường của nước là một trong những thức uống; ý nghĩa thứ hai là sự biểu tượng cho nguồn mạch sự sống và ân sủng của Chúa Thánh Linh.  Chúa Giêsu xử dựng một ngôn ngữ mà người ta có thể hiểu được, và đồng thời, thức tỉnh trong lòng họ ước muốn đào sâu và khám phá ra ý nghĩa sâu sắc hơn của đời sống.

*  Ý nghĩa biểu tượng của nước có nguồn gốc từ trong Cựu Ước, nơi mà nước thường là biểu tượng cho tác động của Chúa Thánh Thần trong người ta.  Ví dụ, tiên tri Giêrêmia so sánh mạch nước với nước trong bể chứa (Gr 2:13).  Nước trong bể chứa càng được lấy ra, thì bể càng có ít nước đi; nước càng được lấy từ suối nước hằng sống, thì suối càng có nhiều nước hơn.  Các bản văn khác từ Cựu Ước: Is 12:3; 49:10; 55:1; Êd 47:1-3.  Chúa Giêsu biết rõ các phong tục tập quán của dân tộc Người vàNgười đã dùng những truyền thống này trong cuộc đối thoại của mình với người đàn bà Samaria.  Đề nghị dùng ý nghĩa biểu tượng của nước, Chúa đã đề nghị với người đàn bà ấy (và với các độc giả) một số các đoạn và từ ngữ khác nhau trích từ Cựu Ước.
  
b)  Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà:

*  Chúa Giêsu gặp người đàn bà tại giếng nước, một nơi mà theo tục lệ dành cho các cuộc gặp gỡ và trò chuyện (St 24:10-27; 29:1-14).  Chúa Giêsu bắt đầu câu chuyện từ nhu cầu thực sự riêng của Người bởi vì Người đang khát.  Người làm điều này trong một cách mà người đàn bà cảm thấy Chúa đang cần nhờ vả đến bà và bà ấy đã múc nước cho Người.  Chúa Giêsu đã khiến bà ta chú ý đến nhu cầu của Người.  Từ câu hỏi của Chúa, Người tạo cơ hội cho người đàn bà nhận thức rằng Chúa đang trông nhờ vào bà cho Người ít nước để uống.  Chúa Giêsu đã thức tỉnh trong bà ấy lòng mong muốn giúp đỡ và phục vụ.

*  Cuộc trò chuyện giữa Chúa Giêsu và người đàn bà có hai mức độ:
(i)  Mức độ bên ngoài, trong ý nghĩa vật chất của nước là làm giảm cơn khát của một người nào đó, và trong ý nghĩa thông thường về một người chồng như là người cha của gia đình.  Ở cấp độ này, cuộc trò chuyện trở nên căng thẳng, khó hiểu và không suông sẻ.  Người đàn bà Samaria chiếm lợi thế hơn.  Lúc đầu, Chúa Giêsu cố gắng để bắt chuyện với bà ta bằng cách nói về công việc hằng ngày (lấy nước), nhưng Người không thành công.  Sau đó, Người cố chuyển qua về chuyện gia cảnh (hãy đi gọi chồngbà), và vẫn không có kết quả.  Cuối cùng, người đàn bà nói về chuyện tôn giáo (nơi thờ phượng).  Chúa Giêsu sau đó đã vào được tâm hồn bà ấy thông qua cánh cửa mà chính bà ấy đã mở.    
(ii)  Mức độ sâu hơn, trong ý nghĩa biểu tượng của nước là hình ảnh của cuộc sống mới được Chúa Giêsu mang lại và biểu tượng người chồng là biểu tượng của sự hợp nhất của Thiên Chúa với người ta.  Ở mức độ này, cuộc trò chuyện trôi chảy hoàn hảo.  Sau khi mặc khải cho biết rằng chính Người là Đấng ban cho nước của đời sống mới, Chúa Giêsu bảo:  “Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây”.  Trong quá khứ, người dân Samaria có năm đời chồng, hoặc năm tượng thần, thuộc năm nhóm người đã bị đi đày bởi vua Assyria (2V 17:30-31).  Người chồng thứ sáu, là người đàn ông mà người phụ nữ đang chung sống, cũng không hẳn là chồng bà ta:  “Người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà” (Ga 4:18).  Những gì dân chúng đã không đáp trả theo lòng mong muốn sâu thẳm nhất của họ:  kết hiệp với Thiên Chúa, như người chồng kết hiệp với người phối ngẫu của mình (Is 62:5; 54:5).  Người chồng thật sự, người thứ bảy, là Chúa Giêsu, như đã được hứa bởi ngôn sứ Hôsê: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu, Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết Đức Chúa.” (Hs 2:21-22).  Chúa Giêsu là chàng rể đã đến (Mc 2:19) mang lại cuộc sống mới cho người phụ nữ đã đi tìm kiếm nó trong suốt cả cuộc đời, và cho đến bây giờ, chưa bao giờ tìm thấy.  Nếu người ta chấp nhận Chúa Giêsu như “người chồng”, họ sẽ đến được với Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào, cả trong tinh thần và trong chân lý (các câu 23-24).

*  Chúa Giêsu nói với người đàn bà Samaria là Chúa khát nhưng Người lại không uống nước.  Đây là một dấu hiệu cho thấy chúng ta đang nói về sự khát nước tượng trưng, có liên hệ đến sứ vụ của Người: nỗi khao khát thực hiện ý của Chúa Cha (Ga 4:34).  Nỗi khao khát này luôn hiện diện trong Chúa Giêsu và tồn tại với Người cho đến khi chết.  Trước lúc sinh thì, Người nói:  “Ta khát” (Ga 19:28).  Chúa nói về cái khát của mình lần cuối cùng và để cho Người có thể nói:  “Thế là đã hoàn tất.”  Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí (Ga 19:30).  Sứ vụ của Người đã được hoàn thành.

c)  Sự quan trọng của người phụ nữ trong Tin Mừng của thánh Gioan:

*  Trong Phúc Âm của thánh Gioan, điểm đặc trưng của người phụ nữ được nổi bật bảy lần, là sự dứt khoát cho việc truyền bá Tin Mừng.  Các người phụ nữ được giao cho những chức năng và nhiệm vụ, mà một số trong đó theo các sách Tin Mừng khác, được thuộc về nam giới:
-  Tại tiệc cưới ở Cana, thân mẫu của Chúa Giêsu nhận ra các giới hạn của Cựu Ước và những sự khẳng định lề luật của Tin Mừng:  “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2:1-11).
-  Người phụ nữ Samaria là người đầu tiên đã được mặc khải bởi Chúa Giêsu về điều bí mật lớn, rằng Người là Đấng Mêssia.  “Đấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây” (Ga 4:26).  Bà ấy sau đó đã trở thành người loan báo Tin Mừng của xứ Samaria (Ga 4:28-30; 39-42).
-  Người phụ nữ, kẻ bị gọi là người ngoại tình, tại thời điểm nhận được sự tha thứ của Chúa Giêsu, đã trở nên vị thẩm phán của một xã hội phụ hệ (hoặc của quyền lực nam giới) đã tìm cách lên án bà ta (Ga 8:1-11).
-  Trong các sách Tin Mừng khác, chính thánh Phêrô là người đã tuyên xưng long trọng đức tin vào Chúa Giêsu (Mt 16:16; Mc 8:29; Lc 9:20).  Trong Tin Mừng của thánh Gioan, bà Máctha, chị của Maria và Lazarô, là người tuyên xưng đức tin (Ga 11:27).
-  Bà Maria, em gái của bà Máctha, xức dầu thơm vào chân Chúa Giêsu là có ý dành cho ngày mai táng Người (Ga 12:7).  Vào thời Chúa Giêsu, người đã chết trên thập giá không được chôn cất hay được tẩm liệm.  Bà Maria đã dự tính việc xức dầu của thi thể Chúa Giêsu.  Điều này có nghĩa là bà đã chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêssia – Người Tôi Tớ Đau Khổ, người đã phải chết trên thập giá.  Ông Phêrô đã không chấp nhận điều này (Ga 13:8) và đã tìm cách can ngăn Chúa Giêsu không đi vào con đường này (Mt 16:22).  Bằng cách này, bà Maria được trình bày như là một mẫu mực cho các môn đệ khác.
-  Dưới chân cây thập giá, Chúa Giêsu nói:  “Thưa Bà, đây là con của Bà; và đây là mẹ của con” (Ga 19:25-27).  Giáo Hội được sinh ra tại chân thập giá. Đức Maria là mẫu mực cho cộng đoàn Kitô hữu.
-  Bà Maria Mađalêna phải đi loan báo Tin Mừng cho các môn đệ (Ga 20:11-18).  Bà nhận lãnh một mệnh lệnh mà nếu không có mệnh lệnh này thì tất cả các mệnh lệnh khác được trao cho các tông đồ sẽ không có hiệu lực hoặc giá trị nào.

*  Đức Maria, thân mẫu của Chúa Giêsu, xuất hiện hai lần trong Tin Mừng của thánh Gioan:  vào lúc bắt đầu, tại tiệc cưới ở Cana (Ga 2:1-5), và vào lúc cuối, dưới chân cây thập giá (Ga 19:25-27).  Trong cả hai trường hợp, Bà đại diện cho Cựu Ước đang chờ đợi sự xuất hiện của Tân Ước, và trong cả hai lần, đều hỗ trợ cho sự xuất hiện.  Đức Maria kết hợp những gì đã đi trước với những gì sẽ đến sau đó.  Tại Cana, chính Bà, thân mẫu Chúa Giêsu, biểu tượng của Cựu Ước, người đã nhận thấy những giới hạn của nó nên đã tiến hành những bước để cho Tân Ước sẽ đến.  Vào giờ lâm chung của Chúa Giêsu, chính thân mẫu của Chúa Giêsu đã đón nhận “người Môn Đệ Chúa Yêu”.  Trong trường hợp này Người Môn Đệ Chúa Yêu là cộng đoàn mới, đã phát triển chung quanh Chúa Giêsu.  Đó là người con đã được sinh ra từ Cựu Ước.  Để đáp lại lời yêu cầu của Chúa Giêsu, người con, Tân Ước, đón Người Mẹ, Cựu Ước, vào nhà mình.  Cả hai phải cùng đồng hành với nhau.  Tân Ước không thể được hiểu thấu nếu không có Cựu Ước.  Nó giống như một tòa nhà không có nền móng.  Cựu Ước mà không có Tân Ước thì sẽ thiếu sót.  Nó giống như cái cây mà không có trái.

6.  Thánh Vịnh 19 (18): 

Thiên Chúa nói với chúng ta qua thiên nhiên và qua Kinh Thánh

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
đêm này kể lại với đêm kia.

Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh,
mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.
Chúa căng lều cho thái dương tại đó,
thái dương xuất hiện như tân lang rời khỏi loan phòng,
và vui sướng lên đường như tráng sĩ.
Từ chân trời này, thái dương xuất hiện,
rồi chuyển vần mãi đến chân trời kia,
chẳng có chi tránh khỏi ánh dương nồng.

Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.
Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng.
Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời.

Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời.
Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh,
thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng,
ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất.

Nên tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi;
ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích.
Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình?
Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay.
Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo,
đừng để tính xấu này thống trị con.
Như thế con sẽ nên vẹn toàn
không còn vương trọng tội.

Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn,
là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui nhận
bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa,
và bao tiếng lòng con thầm thĩ
mong được thấu đến Ngài.

7.  Lời nguyện kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa vì những Lời của Chúa đã trao ban để giúp chúng con có thể hiểu cặn kẽ hơn Thánh ý của Chúa Cha.  Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho những việc chúng con đang làm và ban cho chúng con sức mạnh để chúng con có thể thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Chúng con nguyện xin được giống như Đức Maria, mẹ Người, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét