Trang

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2014

09-03-2014 : (phần I) CHÚA NHẬT I MÙA CHAY năm A

09/03/2014
Chúa Nhật I Mùa Chay Năm A
(phần I)

BÀI ĐỌC I: St 2, 7-9; 3, 1-7
"Nguyên tổ được tạo thành, và phạm tội".
Trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở thành một vật sống.
Thiên Chúa lập một vườn tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên. Thiên Chúa cho từ đất mọc lên mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống ở giữa vườn, và cây biết thiện ác.
Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi dã thú mà Thiên Chúa tạo thành. Nó nói với người nữ rằng: "Có phải Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn mọi thứ cây trong vườn?" Người nữ nói với con rắn: "Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa bảo: 'Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không sẽ phải chết'". Rắn bảo người nữ: "Không, các ngươi không chết đâu! Nhưng Thiên Chúa biết rằng ngày nào các ngươi ăn trái ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh". Người nữ thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái trái cây ăn, rồi lại cho chồng, người chồng cũng ăn. Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 50, 3-4. 5-6a. 12-13. 14 và 17
Đáp: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa (x. c. 3a).
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Đáp.
2)  Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. - Đáp.
3)  Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Đáp.
4)  Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, để miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 5, 12-19
"Chỗ mà tội lỗi đã đầy tràn, thì ân sủng đã đầy dàn dụa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Trước khi có lề luật, đã có tội ở trần gian. Nhưng nếu không có luật, thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm. Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới.
Nhưng sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người. Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả do một người phạm tội đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con người đã bị xét xử để phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã, thì lại được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính.
Vì nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Đức Giêsu Kitô.
Do đó, tội của một người truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, thì đức công chính của một người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế. Đó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này: Rm 5, 12. 17-19
Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi có sự chết, và thế là sự chết đã truyền đến mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội.
Vì nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Đức Giêsu Kitô.
Do đó, tội của một người truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, thì đức công chính của một người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế. Đó là lời Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Mt 4, 4b
Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

PHÚC ÂM: Mt 4, 1-11
"Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'".
Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Đền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép rằng: 'Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi'".
Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: 'Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài'". Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người. Đó là lời Chúa.

SUY NIỆM : Ðức Kitô Ðã Chiến Thắng
Giới Thiệu Mùa Chay:
Danh từ "Mùa Chay" có vẻ chỉ còn "vang bóng một thời", nghĩa là nhắc lại thời xa xưa mà Giáo hội ăn chay hầu như suốt cả Mùa (trừ Chúa nhật). Ngày nay chúng ta chỉ còn giữ chay 2 ngày (thứ tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh). Thế nên có thể nghĩ đến việc tìm ra một danh từ khác. Chẳng hạn có thể bắt chước La văn hay Pháp văn gọi Mùa này là "Mùa Tứ Tuần" hoặc "Mùa 40 ngày" (qua dragesima, carême).
Tuy nhiên nếu giữ lại danh từ "Mùa Chay" cũng vẫn tốt, để nhớ lại nguồn gốc, ý nghĩa và tinh thần của những tuần lễ trước Tam Nhật Vượt Qua.
Là vì như chúng ta đã biết, Phụng vụ của Giáo hội đã khởi đầu với việc cử hành "Ngày Chúa nhật" để tôn kính Ngày Chúa sống lại. Và ngày Chúa nhật giáp năm Chúa Nhật Phục Sinh đã được cử hành long trọng một cách đặc biệt, bằng cách tổ chức "Tam Nhật Vượt Qua", tức là ba ngày trước lễ Phục sinh. Người ta ăn chay, hãm mình để thực hiện mầu nhiệm Tử nạn của Chúa ở nơi mình, hầu xứng đáng mừng việc Chúa sống lại.
Nhưng ba ngày thật quá ít đối với những ai thấy mình nhiều tội hoặc đã sống lâu trong tình trạng tội lỗi. Và những tội nhân công khai chắc cần phải có thời giờ nhiều hơn, để tập sống đạo đức trở lại. Chẳng bao lâu, Tam Nhật Vượt Qua đã trở thành nhiều tuần lễ. Và để mở đầu, người ta tổ chức ngày rắc tro trên đầu và mặc áo nhặm để đưa các tội nhân muốn thống hối vào Mùa ăn chay đền tội. Ðó là ý nghĩa ngày Thứ Tư Lễ Tro hiện nay.
Chúng ta có thể tự hỏi vì sao lại chọn ngày thứ Tư? Trước khi có Tam Nhật Vượt Qua để dọn tâm hồn mừng giáp năm Ngày Chúa sống lại, dần dần trong Hội Thánh có thói quen chuẩn bị lễ mỗi ngày Chúa nhật. Và hai ngày được chọn để làm công việc này là thứ Tư và thứ Sáu, vì theo lối tính thời gian, nhiều người nghĩ rằng Chúa Kitô đã bị bắt ngay từ đêm thứ Ba rạng ngày thứ Tư và Người đã tử nạn vào ngày thứ Sáu. Thế nên muốn kết hợp với mầu nhiệm Thương Khó của Người, Phụng vụ đã khởi sự tinh thần thống hối vào ngày thứ Tư. Và các kinh lễ ngày thứ Tư và thứ Sáu trong tuần vẫn có vẻ đặc biệt hơn những ngày khác.
Cuối cùng để Mùa ăn chay đền tội được thêm ý nghĩa mầu nhiệm, Phụng vụ đã quy định thời gian 40 ngày để gợi lại 40 ngày Ðức Kitô ăn chay trong sa mạc. Nhưng lòng sốt sắng vẫn có khuynh hướng nối dài thêm; thành ra trước đây đã có những Chúa nhật 70, 60 và 50, mà bây giờ không còn nữa. Và để bắt chước Ðức Kitô trong những ngày ấy sống bằng Lời Chúa, Giáo hội đã muốn giúp đỡ các tội nhân thống hối bằng cách lấy kho tàng mạc khải mà giáo huấn họ lại.
Công việc giáo huấn này lại trùng với việc chuẩn bị các tân tòng đón nhận ơn phép Rửa tội trong Ðêm Phục Sinh. Thành ra, Mùa Chay hiện nay mang nhiều ý nghĩa:
* nối dài Tam Nhật Vượt Qua: Giáo hội muốn con cái mình sửa soạn tâm hồn dự lễ giáp năm Ngày Chúa Phục Sinh;
** đặc biệt đối với những tội nhân công khai muốn trở về nếp sống đạo đức, Giáo hội cống hiến cho họ thời gian đền tội và cải tạo.
*** và với các tân tòng sẽ lãnh nhận bí tích Rửa Tội trong Ðêm Phục sinh, Giáo hội tổ chức việc giáo huấn ở nhịp độ khẩn trương.
Những ý nghĩa đó chan hòa trong Phụng vụ Mùa Chay, khi ẩn khi hiện. Mọi hạng người, tân tòng, tội nhân và thánh hữu đều có thể tìm thấy và phải đến tìm được trong mầu nhiệm Chúa ăn chay 40 ngày, ân sủng của việc Chúa chịu chết hầu cải tạo tâm hồn và đời sống để xứng đáng hát bài ca ALLÊLUIA mừng sự sống đã phục sinh, bài ca mà mùa này không hát nữa để sẽ được hát lại với tâm hồn mới mẻ.
Chúng ta hãy nhờ Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể giúp đỡ, để đổi mới tâm hồn trong Mùa Chay này.

Suy Niệm:
Chúa Nhật I Mùa Chay A
Kn 2,7-9; 3,1-7; Rm 5,12-19; Mt 4,1-11
Câu truyện Ðức Kitô bị cám dỗ, tuy rất quen thuộc nhưng vẫn gây nhiều chú ý. Người ta muốn hiểu từng chi tiết, phân tích tỉ mỉ các cơn cám dỗ mà Chúa đã phải chịu. Rồi bài đọc I hôm nay lại nói về việc Ađam - Evà bị cám dỗ và sa ngã trong vười địa đàng khiến chúng ta có khuynh hướng gọi Chúa Nhật I Mùa Chay là Chúa Nhật Nói Về Cám Dỗ hoặc Thử Thách. Kiểu gọi đó lại hợp với Mùa Chay vì là mùa phải phấn đấu chống lại tội lỗi.
Nhưng nếu hiểu như vậy, Ngày hôm nay không làm nổi bật ý nghĩa của Ngày Chúa Nhật nữa, là phải đề cao mầu nhiệm Phục sinh. Chính bài thư Rôma cho ta thấy chủ ý của Phụng vụ khi trích đọc hai câu truyện kia. Thánh Phaolô nói: như do một người mà nhân loại đã chết, thì nay do một Vị mà tất cả được sống. Chúa nhật này vì thế mừng chiến thắng của Ðức Kitô để cứu chuộc loài người sa ngã, hầu giúp chúng ta phấn khởi và vững vàng bước vào Mùa Chay.
Chúng ta hãy xem loài người đã sa ngã thế nào và Ðức Kitô đã chiến thắng làm sao, để chúng ta liên kết với Người hầu sống đúng tinh thần Mùa Chay Thánh.

A. Loài Người Ðã Sa Ngã
Câu truyện Ađam-Evà sa ngã đã làm hao tổn nhiều giấy mực. Chúng ta không được coi đây như là bản văn mới được viết vài năm. Có lẽ nó đã được 3,000 tuổi và được viết trong một bối cảnh thật xa lạ với chúng ta, tuy cũng có một vài nét khá gần gũi. Nó thuộc loại văn "khôn ngoan", phát triển sau thời Lưu đày.
Thời ấy, con người suy nghĩ nhận ra rằng ở mọi nơi đều có tội lỗi; và tội lỗi ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Tội lỗi có đủ mọi bộ mặt, nhưng sâu xa đều là những hình thức bất tuân phục tiếng nói trong trắng, thần thiêng trong lòng con người. Diễn tả sự kiện ấy thế nào đây? Một tác giả "khôn ngoan" được ơn linh hứng đã viết ra câu chuyện nguyên tổ.
Ađam là "Người"; Evà là "Bà". Ađam-Evà là đàn ông và đàn bà, là loài người, là Nguyên tổ đã được Thiên Chúa dựng nên với hai yếu tố "thác là thể phách, còn là tinh anh". Mang yếu tố thể phách có thể thác đi, loài người là tạo vật chưa có hạnh phúc đầy đủ và bảo đảm. Nhưng Thiên Chúa đã thương cất nhắc họ lên một bậc, khi đưa họ đặt vào vườn địa đàng, hình ảnh về một trạng thái hạnh phúc bất tận, vì trong đó có cây hằng sống. Chỉ có một điều kiện: con người phải nhớ đây là tình trạng ân huệ nhưng không, lệ thuộc vào lòng tốt của Thiên Chúa, nên đáng lý con người luôn phải mến yêu kết hợp với Người.
Nhưng sự thật đã không như vậy. Và để diễn tả việc sa ngã này, tác giả sách Khởi nguyên đã lồng lời mạc khải trong bộ áo văn chương của thời đại. Giáo lý của Chúa thật đơn sơ: tội lỗi hoàn toàn không phải bởi Chúa, nhưng do ngây ngô khờ dại của loài người muốn tự kiêu. Giáo lý ấy diễn tả làm sao cho người sống cách đây 3,000 năm? Thời ấy người ta hay nói đến những thứ cây hằng sống và những cây ban khôn dại; người ta cũng coi rắn là loài quỷ quyệt và là thần sinh đẻ. Tác giả Thánh kinh mượn ngay những hình ảnh văn chương ấy để diễn tả Lời mạc khải. Con rắn dụ dỗ người ta ăn trái cây khôn dại. Nó sắc sảo nên đã cám dỗ Evà là người yếu đuối và là người đã không trực tiếp được nghe lệnh Chúa. Nó đảo lộn lệnh Ngài: "Các ngươi không được ăn cây nào trong vườn ư?", đang khi Chúa dạy được ăn mọi thứ cây, trừ cây biết tốt xấu. Và nói xuyên tạc ý nghĩa lệnh truyền: chẳng chết chóc gì đâu! Chỉ có điều Thiên Chúa biết: ngày nào ăn nó, các ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa. Nó phỉnh lòng hiếu thắng tự kiêu của Evà, lôi bà vào tội bất vâng phục, khiến cả Ađam cũng sa ngã.
Ðiều quan trọng không phải là những chi tiết của câu truyện mặc dầu về phương diện văn chương, tâm lý, bản văn rất có giá trị. Chủ ý của tác giả chỉ muốn trình bày một số thực tại: mọi người đều tội lỗi, tội lỗi không phải bởi Chúa nhưng bởi Satan quỷ quyệt; nó ranh mãnh vặn vẹo tiếng nói thần linh trong lòng con người và phỉnh lòng tự ái của họ; con người khờ dại nghe theo nó, phạm tội bất vâng phục, và khi mở mắt ra thì thật là bẽ bàng... Chúng ta có thể suy nghĩ nhiều hơn nữa về những sự kiện trên, nhưng để cử hành Phụng vụ chúng ta chỉ cần nhận biết loài người đã sa ngã phạm tội, đã bại trận hoàn toàn, chỉ còn biết chờ mong ơn cứu vớt. Và ơn Chúa cứu độ đã đến nơi Ðức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta, như bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy.

B. Ðức Kitô Ðã Chiến Thắng
Thánh Matthêô đã tường thuật tỉ mỉ. Bản văn rõ ràng, nhưng che giấu nhiều ý tứ quan trọng.
Trước hết, sự việc đã xảy ra vào lúc Ðức Kitô khởi sự công trình cứu thế. Người vừa chịu phép rửa của Yoan; được Thánh Thần hiện xuống; và có tiếng Chúa Cha tuyên bố: "Ðây là Con Chí Ái của Ta". Người được Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu cám dỗ như Israel đã được cột lửa dẫn vào hoang địa để chịu thử thách. 40 đêm ngày của Người trong sa mạc khác nào như 40 năm của Israel nơi hoang địa vì Người là Israel mới đến cứu Israel cũ. Hơn nữa, Người là Môsê mới. Và như Môsê cũ đã ở trên núi 40 đêm ngày trước khi ban Luật pháp cho dân, Người cũng muốn sống một thời gian như thế ở nơi u tịch trước khi ban bố Luật pháp Nước Trời. Người ta cũng có thể thời gian 40 ngày này gợi lại hình ảnh một Êlya, sau 40 ngày trên đường đi gặp Thiên Chúa, đã cảm thấy đói mệt.
Chính lúc cơ thể Người thay đổi như vậy, Satan đã đến gần. Nó chưa hiểu rõ Người, vì 30 năm ở Nagiarét Người âm thầm và khiêm nhu quá! Nó vừa được nghe tuyên bố Người là Con Thiên Chúa; nhưng có thật vậy không? Lập trường và đường lối của Người như thế nào? Nó muốn biết. Nó cần phải thử. Nó nắm lấy cơ hội Người đang đói. Nó đi từ chính tước hiệu Người là Con Thiên Chúa, để xem "bộ mặt đích thực" của Người. Nó vừa xúi, vừa thử: nếu Ông là Con Thiên Chúa hãy hóa những viên đá này nên bánh. Nhưng câu trả lời của Người đã làm nó chưng hửng. Người trích dẫn câu sách Thứ luật (8,2-5) gợi lại câu chuyện Israel ngày xưa nơi sa mạc bị thử thách khi đói ăn (Xh 16). Israel cũ đã ngã, nhưng Israel mới không thể như vậy. Người nói: "Con người không sống nguyên nhờ bánh, nhưng còn nhờ Lời Thiên Chúa". Người không sống nhờ phương tiện vật chất; Người đã có một thứ lương thực khác: đó là Thánh Ý của Chúa Cha. Người không đến để tìm sự sống cho bản thân. Ðã có Chúa Cha ban sự sống đích thực cho Người, vì Người là Con Chúa Cha. Satan không thể lầm về con người của Người nữa.
Nhưng còn sứ mạng của Người? Chắc chắn Người đến để thiết lập thời đại cánh chung, thời đại phân biệt tốt xấu lành dữ. Các tiên tri nói rằng khi đến thời đại ấy nhiều người sẽ xuất hiện bảo mình là Kitô. Và thiên hạ sẽ được chứng kiến nhiều trò ngoạn mục. Ngài Yêsu, Con Thiên Chúa đây là Kitô thuộc loại nào? Giả hay thiệt? Satan tạo nên một bối cảnh cánh chung. Nó đưa Người vào thành thánh và đặt trên thượng đỉnh Ðền thờ để như có quần chúng đông đảo ở dưới chân đang chờ đợi dấu thiêng điềm lạ, đến nỗi có thể có cả những sự can thiệp của các thiên thần. Chính danh từ thành thánh đã báo hiệu thời kỳ cánh chung rồi. Satan dùng ngay khí giới Ðức Kitô đã dùng. Nó trích Lời Chúa để hy vọng vô hiệu hóa "thứ gươm hai lưỡi đó", nếu làm được cho Người lạm dụng Lời Chúa, lạm dụng sứ mạng và quyền lực được trao phó cho Người. Nó bảo: nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống vì như đã chép, Người sẽ lịnh cho các thiên thần đến đỡ... Nó đâu ngờ được Người sẽ trả lời: lại có chép: Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa. Câu sách Thứ Luật này (6,16) lại gợi đến một chuyện ở hoang địa, kể trong sách Xuất hành (17). Chính ở Massa, dân đã thử thách Chúa, để xem Chúa có ở giữa họ hay không? Ðức Kitô ý thức chắc chắn Thiên Chúa ở với Người. Người không thử thách Chúa. Người không cần làm chứng về mình, như các kitô giả phải tạo ra uy tín mà họ không có. Chính Chúa Cha đã làm chứng về Người ở sông Yorđan; và sẽ làm chứng huy hoàng hơn nữa trong mầu nhiệm Phục sinh.
Satan cố gắng một lần cuối cùng. Nó muốn biết rõ thái độ của Người đối với nó. Người phải trực tiếp nhìn vào nó. Và như vậy, nó đưa Người lên núi cao, bày cả thế gian ra trước mắt Người, chỉ cho Người thấy tất cả vương quốc của nó. Nó bảo Người chỉ cần lạy nó một cái là được tất cả. Nó thật không ngờ: cảnh tượng này nhắc Người nhớ tới hôm Môsê được dẫn lên núi cao để bao quát Hứa địa chảy sữa và mật. Dân sẽ được đất đó làm sở hữu, nhưng họ phải tránh tà giáo và chỉ được thờ một Thiên Chúa mà thôi. Tiếng của Môsê còn vang rõ trong Xuất hành (23,23), trong Thứ luật (16,16). Và hình ảnh Êlya, người chiến sĩ vô địch chống tà giáo, còn như đang đứng cao với ngọn núi Karmel. Ðức Yêsu lập tức cất tiếng: Satan, xéo đi! Bị gọi đúng tên, nó biến mất, để lại một Ðức Yêsu toàn thắng, được các thiên thần đến phục vụ. Chúng ta cũng hãy đến với Người để được đưa ra khỏi tình trạng sa ngã của loài người.

C. Liên Kết Với Ðức Kitô
Ðó là mục đích của Phụng vụ và của bài thơ Phaolô hôm nay. Bài thơ này muốn là gạch nối giữa bài sách Khởi Nguyên và bài Tin Mừng.
Chúng ta đã thấy tất cả loài người sa ngã hay ít ra đã thấy gương sa ngã của Ađam-Evà là tiêu biểu giống đàn ông đàn bà chúng ta. Chúng ta dễ đồng hóa mình với hai nguyên tổ, tức là cũng nhận ra mình là tội nhân trong cả loài người tội lỗi. Trong khi đó, nhìn vào chiến thắng của Ðức Kitô, chúng ta thấy Satan đã bị đánh bại. Nhưng đó là chiến thắng của riêng Người, hấp dẫn chúng ta thật nhưng chưa có gì móc nối ta vào chiến thắng đó. Bài thư Phaolô đáp lại chờ mong của chúng ta, đem đến một tin mừng cứu độ: Ðức Kitô đã chiến thắng cho chúng ta hết thảy và vì chúng ta hết thảy. Người là người con duy nhất của Thiên Chúa đã đến làm lại lịch sử của Dân Chúa để cứu chuộc toàn dân đã lầm lẫn. Người là Môsê mới được gửi đến để giúp dân không còn thử thách Chúa nữa, một tin vững vàng Ngài đang ở với mình và vì thế chỉ được thờ một mình Ngài mà thôi. Người cho những ai tin vào ơn gọi làm con Chúa được liên đới với Người. Và sự liên đới này hữu lý và sâu xa hơn sự liên đới với Ađam tội lỗi.
Ðó là ý của bài thư Phaolô. Nó xoay quanh tư tưởng liên đới. Chúng ta dễ thấy mình liên đới với Ađam vì rõ ràng chính chúng ta cũng tội lỗi. Án tử mà chúng ta hết thảy đang mang trong mình là bằng chứng rõ rệt. Ý thức ấy sẽ đưa chúng ta vào tuyệt vọng, nếu không có một sự liên đới khác, sâu xa và hoàn toàn hơn. Sự liên đới này không kinh nghiệm được, nhưng hoàn toàn tựa vào niềm tin. Chính niềm tin cứu sống loài người. Trong Cựu Ước, Chúa đã cứu những ai tin Người. Nay dưới thời Tân Ước, Người cũng cứu những ai tin vào Người Con Chí Ái của Người. Và tin vào người Con này, thì phải bắt chước, sống ơn gọi làm con như Người.
Do đó, con đường Mùa Chay dẫn tới vinh quang Phục sinh là con đường bảo đảm và phát huy ơn gọi làm con Chúa. Ở bất cứ chặng đường nào, dường như vẫn có tiếng nói nhắc nhở chúng ta: nếu là con Thiên Chúa... thì chúng ta phải liên kết với Ðức Kitô và phấn đấu như Người.
Dĩ nhiên cám dỗ có nhiều thứ; nhưng chung quy mọi cám dỗ đều muốn kéo ta ra khỏi ơn gọi làm con Chúa. Mà ơn gọi này, ở nơi ta cũng như ở nơi Ðức Kitô, không thể tách rời khỏi ơn cứu thế. Ai ý thức mình là con Chúa cũng phải coi mọi người là anh em và đưa tất cả anh em về Nhà Cha. Nên hết mọi cám dỗ, khi muốn kéo ta ra khỏi ơn gọi làm con Chúa, cũng đồng thời lôi ta ra khỏi tình anh em. Và vì thế Mùa Chay phải là mùa phải trở về với cộng đồng vì là mùa phải trở về với Thiên Chúa. Chúng ta hãy có tinh thần yêu tha nhân, yêu đồng bào hơn; hãy sửa chữa những thái độ ích kỷ và phát huy tinh thần phục vụ công ích; hãy muốn cứu thế để được cứu độ, vì có thương xót mới được xót thương.
Ðức Kitô giờ đây ban Thịt Máu Người cho ta. Tâm hồn Người thật quảng đại, nên chỉ có những ai quảng đại mới đáng đón nhận Người. Xin Người ngự vào lòng chúng ta, giúp chúng ta bảo toàn và phát huy ơn gọi làm con Chúa, để tăng ý thức mọi người là anh em ở nơi ta, hầu lòng mến Chúa ở nơi ta trở thành lòng mến yêu và phục vụ mọi người.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật I Mùa Chay, Năm A
Bài đọc: Gen 2:7-9; 3:1-7; Rom 5:12-19; Mt 4:1-11.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cám dỗ và cách thức để vượt qua
Cám dỗ là kinh nghiệm thường xuyên xảy ra cho mỗi người. Nhiều người bi quan cho rằng con người không thể thắng vượt được trước ba kẻ thù quá mạnh là xác thịt, thế gian và ma quỉ. Nhưng trong kế hoạch của Thiên Chúa, phải có cám dỗ để thử thách đức tin. Thiên Chúa để những cám dỗ xảy ra là để thử thách và tôi luyện niềm tin, sự hy vọng, và lòng yêu mến của mỗi người dành cho Ngài.
Những bài đọc của Chủ Nhật đầu Mùa Chay, Năm A, cho chúng ta cái nhìn thâm sâu vào sự cám dỗ. Trong bài đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường trình sự sa ngã của cặp vợ chồng đầu tiên, ông Adam và bà Eva. Hậu quả là con người phải lãnh nhận biết vao đau khổ và phải chết. Trong bài đọc II, thánh Phaolô giải thích cho chúng ta sự liên hệ giữa tội của Adam và công nghiệp của Chúa Giêsu trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, thánh sử Matthew tường thuật cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trước khi khởi đầu sứ vụ rao giảng và cứu chuộc của Ngài. Tuy bị cám dỗ như bao người, Chúa Giêsu đã chiến thắng khải hoàn vì Người luôn tin tưởng nơi tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Adong và Eva bị cám dỗ và đã sa chước cám dỗ.
1.1/ Thiên Chúa sắp đặt mọi sự cho con người: Trình thuật STK vắn tắt cho khán giả thấy uy quyền, tình yêu, và sự quan phòng của Thiên Chúa: Ngài dựng nên con người và thiết lập một Vườn Địa Đàng để cho con người cư ngụ trong đó. Con người không thiếu thốn một điều gì trong vườn đó, và có quyền ăn mọi trái cây trong vườn ngay cả cây trường sinh. Để thử thách niềm tin yêu của con người, Thiên Chúa cấm con người không được ăn cây “biết điều thiện điều ác.”
1.2/ Con rắn cám dỗ và con người đã sa ngã:
(1) Sự tinh khôn của rắn: Tác giả cho chúng ta một chi tiết quan trọng: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra.” Rắn là biểu tượng của quỉ, chúng cũng là tạo vật của Thiên Chúa, nguyên thủy là thiên thần nhưng đã phản bội Ngài. Chúng tinh khôn hơn con người vì chúng không có thân xác, điển hình là chúng đã làm cho con người sa ngã. Trước tiên, nó khơi dậy sự tò mò nơi người đàn bà: Tại sao Thiên Chúa chỉ cấm ăn trái cây đó? Thứ đến, nó khơi dậy sự nghi ngờ trong người đàn bà về tình yêu Thiên Chúa dành cho con người khi nó nói với Bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác."
(2) Ý nghĩa của cám dỗ đầu tiên:
- Tên của trái cây bị cấm “biết điều thiện điều ác” cho chúng ta cái nhìn sâu xa trong cuộc cám dỗ này. Chỉ có Thiên Chúa là Người hoàn toàn biết điều thiện điều ác. Quỉ cũng muốn được giống như Thiên Chúa, và chúng sa ngã cũng vì lý do này. Con người không thể hoàn toàn biết điều thiện điều ác như Thiên Chúa, nhưng lại muốn được giống như Thiên Chúa để khỏi phải lệ thuộc vào Ngài. Đúng như tên gọi của cây, vì khi hai ông bà ăn vào, “mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.” Họ biết điều thiện là họ đã phản bội Thiên Chúa yêu thương, và họ biết điều ác là mình đã phạm tội và cảm thấy xấu hổ.
- Tội đầu tiên con người phạm là tội kiêu ngạo: là con người mà lại muốn trở thành Thiên Chúa. Tội này dẫn đến tội thứ hai là không vâng lời điều Thiên Chúa truyền dạy: đưa tay ăn quả cấm và cám dỗ chồng để cùng ăn. Hậu quả là con người bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, chịu trăm ngàn đau khổ, và phải chết.
- Hai ông bà không phải là những người duy nhất phạm hai tội này, nhưng trải qua bao thế hệ, chúng vẫn đang làm cho biết bao người sa ngã và chịu những thiệt hại nặng nề. Con người ở mọi nơi mọi thời vẫn bị cám dỗ để nghĩ họ có thể khôn ngoan bằng hay hơn Thiên Chúa, họ muốn tự mình quyết định mọi chuyện xảy ra, chứ không muốn lệ thuộc vào ai cả; nhất là không muốn nghe bất cứ ai truyền cho họ phải làm điều gì cả cho dù biết nó là điều tốt.
2/ Bài đọc II: Sự khiêm nhường và lòng vâng phục của Đức Kitô thay đổi bản án cho con người.
2.1/ Tội cùng chịu và phúc lành cùng hưởng: Có lẽ câu trả lời của thánh Phaolô cho câu hỏi “Làm sao mọi người đều được hưởng ơn cứu độ từ công phúc của một mình Chúa Giêsu?” phải được xếp ngang hàng về tầm quan trọng với câu trả lời “Con người được cứu độ là do việc đặt niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc lành của con người.” Trình thuật hôm nay dẫn chứng câu trả lời, chúng tôi sắp xếp câu trả lời như sau để giúp độc giả hiểu rõ hơn.
(1) “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” Phải hiểu làm sao câu “mọi người đã phạm tội?” Có 3 cách hiểu:
i. Tội tổ tông: Mọi người đều từ cặp vợ chồng Adam và Eve, nên mọi người đều bị ảnh hưởng di truyền của tội. Đây là điều Giáo Hội dạy, nhưng không chắc là ý của Phaolô ở đây.
ii. Adam phạm tội đầu tiên, sau đó mọi người đều phạm tội; nhưng không có một sự liên hệ mật thiết nào giữa tội của Adam và tội của mọi người, ngoại trừ căn bản là tội kiêu ngạo và bất tuân. Ý kiến này cũng không vững ở đây.
iii. Adam là biểu tượng chung cho tất cả con người, như khi chúng ta dùng danh từ “con người” có thể để chỉ “một người” hay có thể để chỉ “mọi người.” Đây có lẽ là điều thánh Phaolô muốn ám chỉ ở đây: mọi người đều đã phạm tội trong sự sa ngã đầu tiên.
(2) Bằng chứng: “Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Adam đến thời Moses, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Adam đã phạm.” Đối với Phaolô, Lề Luật được coi là “người buộc tội luân lý,” vì nếu không có Luật buộc sẽ không có tội. Thập Giới chỉ được ban cho con người từ thời ông Moses, vậy chẳng lẽ con người không có tội từ ông Adam đến thời Moses? Phaolô nói không phải thế, vì con người vẫn phải chết, mà chết là hậu quả của tội. Phaolô có ý muốn nói tất cả đều đã phạm tội với Adam rồi, đó là lý do tại sao họ đều phải chết. Nhiều người sẽ thắc mắc: “chưa sinh ra, làm sao đã phạm tội được?” Phaolô muốn trả lời: Tập thể con người chỉ là một đối với Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là những cá nhân riêng lẻ, một người phạm tội là mọi người cùng phạm, một người phải chết là mọi người phải chết. Có người sẽ phản đối như thế là bất công!
(3) Phaolô trả lời Thiên Chúa không bất công, vì “Adam là hình ảnh Đấng sẽ tới. Nhưng sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” Như vậy, Phaolô đã trả lời câu hỏi hóc búa: “Làm sao ơn cứu độ của mọi người có thể đến từ công nghiệp của một người là Đức Kitô.”
2.2/ Không ai là một hòn đảo riêng lẻ: Nhiều người bi quan thường hay đổ tội cho bà Eva hay cho ông Adam, vì họ đã gây ra tội lỗi, đau khổ, và sự chết cho con cháu. Thánh Phaolô và Giáo hội không đổ lỗi như thế, lại còn lạc quan gọi đó là “tội hồng phúc” như trong bài Exultet ca ngợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Thánh Phaolô liệt kê ở đây hai hồng phúc mà con người được hưởng vì tội này: (1) Con người được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính nhờ tin vào Đức Kitô. (2) Những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị với Ngài. Và Ngài kết luận: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.”
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bị cám dỗ và Ngài đã vượt qua thành công.
Trình thuật cơn cám dỗ của Chúa Giêsu được đặt trong bối cảnh cuộc đời của Chúa Giêsu trước khi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai. Địa điểm của chỗ cám dỗ này là Núi Quruntur vẫn còn ngày nay, một vùng núi đá chập chùng nằm giữa Jericho và Jerusalem. Nếu một người vào tu viện và leo lên đỉnh núi, họ có thể nhìn thấy rõ Đền Thờ Jerusalem từ đây. Chúa Giêsu bị cám dỗ để chọn lựa cách cứu chuộc con người: Cách dễ nhất và nhanh nhất để con người tin vào Ngài là làm phép lạ cho dân có của ăn và ban cho họ tất cả những gì họ muốn như của cải, danh vọng, uy quyền..., như sau khi Chúa làm phép lạ nuôi 5000 người, họ đã toan tính tôn Ngài làm vua nên Ngài phải bảo các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, giải tán dân chúng, còn Ngài lên núi cầu nguyện (Jn 6:); Cách khó nhất và lâu nhất là giáo dục để họ nhận ra sự thật, giúp họ kiên nhẫn thực hành, và vượt qua đau khổ để đạt tới ơn cứu độ; cách này đòi hỏi Ngài phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên Thập Giá để mang lại ơn cứu độ cho con người.
3.1/ Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu.
(1) Cám dỗ thứ nhất về sự ăn uống: Trình thuật kể “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói.” Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!" Quỉ biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nó cũng biết Ngài mang bản tính con người nên cảm thấy đói sau khi ăn chay, và nó biết để bảo vệ sự sống, một người sẽ không nghĩ tới gì khác hơn là tìm được của ăn cho đỡ đói, nên nó cám dỗ Ngài làm phép lạ bằng cách hóa đá thành bánh ăn.
Nhưng Chúa Giêsu đáp lời quỉ và dạy chúng ta một bài học quan trọng: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." Con người là một tổng hợp của hồn và xác, như thân xác cần bánh ăn mới có thể sống cách thể lý, linh hồn cũng cần được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa thì mới có thể sống về phương diện tâm linh được. Sống phần tâm linh quan trọng hơn sống phần xác, vì đó là cuộc sống đời đời. Thế mà biết bao nhiêu người sống như không có hồn, như không phải chết, qua việc họ dành trọn vẹn thời giờ cho việc mưu sinh và bỏ qua việc học hỏi Lời Chúa. Chẳng lạ gì mà họ bị rơi vào hết cơn cám dỗ này đến cơn cám dỗ khác, và quằn quại trong đau khổ.
(2) Cám dỗ thứ hai về làm phép lạ: Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." Quỉ biết người Do-thái rất thích chứng kiến hay được hưởng phép lạ, và đa số dân chúng, nhất là dân Việt-nam rất thích phép lạ. Nếu muốn con người tin, Thiên Chúa chỉ cần cho họ thấy phép lạ!
Chúa Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ hai: "Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi." Phép lạ được làm là để khơi dậy đức tin trong tâm hồn con người: nếu một người đã có niềm tin, phép lạ không còn cần nữa; nhưng nếu một người cứng lòng, dù có chứng kiến biết bao phép lạ họ vẫn không tin. Chúng ta thấy rõ điều này nơi các người trong Thượng Hội Đồng, họ vẫn không tin Chúa và còn tìm cách hủy diệt Người. Hơn nữa, niềm tin dựa trên phép lạ không vững bền; nếu không thấy phép lạ nữa, con người sẽ đánh mất đức tin. Họ muốn biến và điều khiển Thiên Chúa thành máy làm phép lạ thay vì họ phải biết tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, như những gì quỉ nói: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”
(3) Cám dỗ thứ ba cho giàu sang phú quí: Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi." Cám dỗ này cho chúng ta thấy rõ ràng sự gian dối của ma quỉ, vì tất cả những thứ quỉ hứa cho thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về chúng.
Chúa Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ ba: "Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi." Đây là điều răn thứ nhất và quan trọng hơn cả. Có thể nói không một tín hữu nào không biết điều răn này; nhưng thực hành giới răn này trong cuộc sống thì không dễ dàng, vì biết bao người đã vì lợi lộc không chịu thờ phượng Thiên Chúa, lại quì sụp lạy ma quỉ. Cám dỗ này phải mở mắt cho con người hiểu rõ họ được sở hữu điều gì hoàn toàn là do bởi Thiên Chúa, chứ không từ ma quỉ, hay do bởi sức mình, hay bởi những thế lực khác.
3.2/ Những điều căn bản cần thiết để vượt qua chước cám dỗ: Trước tiên, kiến thức về Thiên Chúa và về con người là điều kiện chủ yếu để vượt qua cám dỗ. Để có kiến thức này, các tín hữu cần bỏ thời giờ để học hỏi về Thiên Chúa qua Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội. Không biết Kinh Thánh là không biết Thiên Chúa và không biết những dự tính và đường lối của Thiên Chúa dành cho con người. Biết những điều này, con người sẽ nhận ra ngay những cạm bẫy gian dối của ma quỉ và không dễ rơi vào. Thứ đến, niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa cũng không kém quan trọng. Con người phải vững tin Ngài sẽ không bỏ mặc con người phải đương đầu với ma quỉ, nhưng sẽ sai các thiên thần và những người tốt lành đến giúp đỡ và bảo vệ các con cái của Ngài, như đã sai các thiên thần đến nâng đỡ và bảo vệ Chúa Giêsu sau cuộc cám dỗ. Sau cùng, nhược điểm của con người là nghi ngờ sự hiện hữu, tình thương, và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhiều người lo sợ không biết có Thiên Chúa hay không, và nếu có, không biết Ngài có để mắt săn sóc đến họ không; vì thế, họ nghĩ phải tự mình lo liệu lấy cho chắc ăn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta chỉ là loài thụ tạo vì yêu thương Thiên Chúa đã dựng nên, và có rất nhiều giới hạn. Chúng ta phải diệt trừ tội kiêu ngạo và bất tuân bằng cách tập luyện cho có được hai nhân đức khiêm nhường và tuân phục như Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta.
- Chúng ta cần phải loại trừ cách nhìn ích kỷ và cá nhân của thế gian để học cái nhìn xả kỷ và tập thể của Thiên Chúa. Một người phạm tội, mọi người đều chịu; một người làm phúc, mọi người đều thông phần. Chỉ một lối sống như thế mới giúp chúng ta loại bỏ mọi cãi cọ, ghen tương tranh dành, ly dị, chiến tranh và đáp ứng được giới luật yêu thương như lời Chúa truyền dạy.
- Mọi cám dỗ đều có thể thắng vượt được nếu chúng ta chịu khó học hỏi Lời Chúa, và tập luyện để làm cho đức tin cho chúng ta mỗi ngày một thêm vững mạnh và kiên cường hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

09/03/14 CHÚA NHẬT TUẦN 1 MC – A 
Mt 4,1-11

NHỮNG CÁM DỖ NGÀN ĐỜI
Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người. (Mt 4,2-3)
Suy niệm: Quyền lực, danh vọng, lạc thú là những cám dỗ có sức mạnh kỳ diệu từ ngàn đời. Ma quỷ cũng không dùng kế sách nào mới để cám dỗ, chúng áp dụng chiêu thức “bổn cũ soạn lại” để hòng đánh bai Chúa Giêsu vì biết rằng đó là trận đồ trải qua bao đời khó ai thắng nổi, dù là những anh hùng hào kiệt hay bậc vĩ nhân xuất chúng. Thế nhưng chúng không ngờ, Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bí quyết chiến thắng của Ngài là sống tâm tình con thảo với Chúa Cha và đem Lời Thiên Chúa ra để chiến đấu. Tâm tình con thảo với Chúa Cha giúp Ngài luôn tìm mọi phương cách đẹp lòng Cha; Lời Thiên Chúa củng cố cho tâm tình con thảo ấy. Không có Lời Chúa, con người sẽ rất lúng túng và hoang mang khi phải đương đầu với những thử thách như thế.
Mời Bạn: Kinh nghiệm chiến đấu và chiến thắng trên đây của Chúa Giêsu giúp ta nhận thức rõ giá trị của việc Phúc Âm hóa trong đời sống Kitô hữu. Một khi cuộc sống đã thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, ta sẽ biết ứng xử và tránh được những cám dỗ chết người như Chúa của mình.
Chia sẻ: Hãy chia sẻ kinh nghiệm của bạn -  đặc biệt kinh nghiệm thất bại vì không biết hay không muốn thực hành Lời Chúa - khi bị thử thách, cám dỗ.
Sống Lời Chúa: Đọc, suy niệm Lời Chúa mỗi ngày để Lời thấm sâu vào tâm hồn, nhờ đó giúp ta ứng xử cho đẹp lòng Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng cám dỗ. Xin Chúa giúp con vượt qua bao cám dỗ trên đường đời con đi nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa dạy. Amen.


Những cơn cám dỗ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Có nhiều người thắc mắc: Ăn chay là gì? Phải chăng là để dằn vặt thân xác, hành khổ con người cho Chúa vui lòng? Hỏi như vậy là chưa hiểu đạo, chưa hiểu hết ý nghĩa của việc ăn chay. Chúa đâu phải quá độc ác, bệnh hoạn, vui lòng khi thấy con người chịu khốn khổ. Ăn chay một phần để hy sinh đền tội, nhưng mục đích chính của việc ăn chay là để thao luyện tâm hồn chống lại quỷ dữ.
Ngày nay người ta quên sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn có đó và và vẫn tích cực hoạt động nhằm phá huỷ thế giới, tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh ma xảo quyệt nên người ta khó nhận ra âm mưu, dấu vết của chúng.
Nhìn vào ba cuộc ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta thấy ma quỷ rất tinh khôn. Nó có kế hoạch, có chiến thuật, tấn công nhiều đợt, nhiều bước.
Thoạt tiên ma quỷ tấn công vào những bản năng sơ đẳng nhất nơi con người: bản năng sinh tồn, bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người.
Kéo chú ý của người ta vào những nhu cầu rồi, ma quỷ tiến bước thứ hai, đó là phóng đại những nhu cầu đó lên, làm cho người ta lầm tưởng rằng, đó là những nhu cầu cấp bách, phải thoả mãn ngay tức khắc.
Khi ta đã hoàn toàn mê mẩn vì cái bẫy nhu cầu, ma quỷ mới đẩy ta đến bước thứ ba, đó là tìm thoả mãn những nhu cầu theo ý riêng mình. Cách giải quyết đó ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích sau cùng của ma quỷ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng lìa xa Thiên Chúa.
Ông bà nguyên tổ đã rơi vào bẫy của ma quỷ nên đã không sống tâm tình của người con hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn ngang bằng cha mình, muốn chống lại cha mình.
Chúa Giêsu, trái lại, đã sáng suốt vạch trần âm mưu của ma quỷ và kiên quyết sống tâm tình của người con hiếu thảo.
Khi ma quỷ phóng đại nhu cầu, muốn cho Chúa Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, chỉ sống nhờ bánh vật chất, vật chất là tất cả đời sống. Chúa Giêsu đã sáng suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng bánh tinh thần của trời cao còn cần hơn.
Khi ma quỷ thúc giục Chúa Giêsu hãy thoả mãn tức khắc nhu cầu của mình, Chúa Giêsu đã biết kiên nhẫn chờ đợi. Khi ma quỷ khích Chúa Giêsu dùng quyền năng riêng của mình để thoả mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. Người muốn vâng phục Đức Chúa Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh trong tay Chúa Cha, để mặc Chúa Cha quyết định.
Tuy đã thắng trong cuộc đọ sức đầu tiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị ma quỷ cám dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn dỗ khi thì đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất, khi thì đến từ những người chống đối đòi xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượn chính những người thân tín như Phêrô để ngăn cản Chúa Giêsu thực hành ý Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ vì Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Dù khi phải chiến đấu trong mồ hôi pha máu, Người vẫn nói: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, xin vâng theo ý Cha mà thôi”.
Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ. Và nhiều khi chúng ta đã mắc bẫy ma quỷ. Ta mắc bẫy ma quỷ khi mải mê đuổi theo những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng tay ma quỷ khi ta dùng mọi phương tiện để thoả mãn những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.
Thay vì tuân phục ý Chúa, tôi luôn luôn bắt Chúa làm theo ý tôi. Thay vì vâng lời Chúa, tôi luôn luôn muốn sai bảo Chúa.
Mùa Chay này, Chúa kêu gọi tôi trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, tôi phải chiến đấu chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình và tìm vâng phục ý Chúa.
Hãy đặt ra cho mình một chương trình sống Mùa Chay bằng tăng cường hy sinh, cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.
Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót đang chờ đón tôi trở về, và sẽ ban sức mạnh để tôi đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu tôi biết sống trọn tình con thảo, tin cậy phó thác vào Người.
Lạy Thiên Chúa là Cha của con, xin đón nhận tâm hồn khiêm nhường sám hối của con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Theo bạn, ngày nay ma quỷ còn hoạt động trong thế giới không? Nếu có, bạn cho một ví dụ.
2) Bạn thường thua hay thắng cuộc khi gặp phải cám dỗ. Thua, tại sao? Thắng, nhờ đâu?
3) Đâu là âm mưu của ma quỷ che dấu đàng sau những cơn cám dỗ?

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9 THÁNG BA
Trở Về Với Vòng Tay Từ Ái Của Cha
Thánh Phao-lô nói: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài, Ngài không chấp những lỗi lầm của chúng ta” (2Cr 5,19).
Cuộc giao hòa xảy ra giữa Người Con Đi Hoang và cha mình đã được hoàn tất nhờ công cuộc của Đức Kitô. Thiên Chúa của giao ước vĩnh cửu tự thể hiện chính Ngài nơi Đức Kitô như là Vị Thiên Chúa của giao hòa. Chân lý này có tầm thật nền tảng trong Kitô giáo. Con người được mời gọi giao hòa với Thiên Chúa Cha trong Đức Kitô.
Trong Thư 2 Cô-rinh-tô, Thánh Phao-lô cho biết Thiên Chúa không chỉ “giao hòa chúng ta với chính Ngài trong Đức Kitô” mà còn thêm rằng “Ngài trao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (2Cr 5,18). Rồi Thánh Phao-lô tiếp: “Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2Cr 5,20).
Sứ vụ hòa giải – một hoa trái của cuộc giao hòa giữa Thiên Chúa với con người trong Đức Kitô – là một phần căn bản thuộc sứ mạng cứu độ của Giáo Hội. Sứ mạng này trao cho Giáo Hội quyền hòa giải con người với Thiên Chúa xuyên qua việc tha thứ các tội lỗi của họ.
Nhưng, hơn thế nữa, như Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia (ch.11, số 7) cho thấy, “Thánh Phao-lô thậm chí cho phép chúng ta mở rộng cái nhìn của mình về công cuộc của Đức Kitô đến những chiều kích vũ trụ khi ngài viết rằng nơi Đức Kitô Thiên Chúa đã giao hòa chính Ngài với tất cả mọi loài, trên trời cũng như dưới đất” (Cl 1,20).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 09-03
CHÚA NHẬT I MÙA CHAY
St 2, 7-9; 3, 1-7; Rm 5, 12-19; Mt 4, 1-11.

LỜI SUY NIỆM“Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoan địa, để chịu quỷ cám dỗ.”
Chúa Giêsu vào hoang địa, Người ăn chay và cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày để lãnh nhận Thánh Ý của Chúa Cha. Ma quỷ cám đỗ Chúa về quyền năng hóa đá ra bánh để ăn (quyền năng phục vụ bản thân) Chúa đã từ chối. Ma quỷ cám đỗ Chúa về thử thách Thiên Chúa, bằng cách (gieo mình từ trên nóc đền Thờ xuông) Chúa đã từ chối; và cám dỗ cuối cùng là thờ lạy chúng (để được vinh hoa lợi lộc thế gian) Chúa cũng từ chối.
Lạy Chúa Giêsu. Ba cám dỗ mà ma quỷ đã cám dỗ Chúa, chúng cũng đang cám dỗ chúng con đó là quyền tư lợi, là thách thức quyền năng Thiên Chúa và bán mình vì những lợi lộc trần gian. Xin Chúa ban cho mọi người trong gia đình chúng con luôn trung tín, phó thác đời mình cho Chúa.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 09-03: Thánh PHANCICA RÔMANA
Nữ tu (1384 - 1440)

Phanxica thuộc vào một gia đình quí tộc ở Bussi de Leoni. Nhưng Ngài đã sinh ra và sống ở Roma. Từ lúc 6 tuổi Ngài đã thực hành sám hối, muốn vào tu lúc 11 tuổi. Cha Ngài thấy đây chỉ là tưởng tượng của con nít và năm sau đã gả Ngài cho lãnh Chúa trẻ trung Lorenzo di Ponziani. Người vợ trẻ sẽ dẫn đắt chồng mình theo đường trọn lành.
Phanxica một thiếu nữ tươi đẹp. Sống giữa xã hội hào nhoáng Ngài tỏ ra rất hòa nhã dịu dàng. Ngài giữ kín những khổ hạnh của mình. Có ai biết rằng: áo nhặm dưới y phục lộng lẫy của Ngài đã làm Ngài mang thương tích đâu. Ngài dậy sớm để giờ cầu nguyện khỏi bị ngăn trở, Varozza, người em dâu, cùng chia sẻ lý tưởng bác ái với Ngài. Hai người cùng hồi tâm trong một cái hang ở cuối vườn. Họ phục vụ các bệnh nhân tại nhà thương và giúp đỡ những người cùng khốn. Bà mẹ chồng nặng tinh thần thế tục thấy thế nên giận dữ.
Nhưng con bà, người chồng trẻ đã trả lời: - Sao lại trách họ vì những thói quen đạo đức ấy ? Vả lại thói quen ấy có ngăn trở gì tới việc bổn phận của họ đâu ?
Thực vậy, Phanxica luôn sẵn sàng bỏ mọi sự để các bổn phận của một quản gia khỏi bị suy suyển gì. Một mẫu chuyện cho thấy Thiên Chúa chúc lành cho Ngài như thế nào. Phanxica đang cầu nguyện. Người ta tới kêu. Ngài mau mắn bỏ sách đó và trở lại sau khi phục vụ xong. Lần thứ nhất, lần thứ hai... bốn lần liên tiếp như vậy, Ngài đều bình thản bỏ dở việc cầu nguyện. Lần thứ năm Ngài trở lại và thấy sách kinh có dòng chữ vàng. Người ta không hề giã từ Chúa khi phục vụ tha nhân và hiến mình phục vụ cũng là cầu nguyện.

Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Sau khi mẹ chồng qua đời, người thiếu phụ nắm quyền quản trị nhà họ Ponziani. Ngài coi gia nhân như anh chị em được gọi để chia sẻ nước Thiên Chúa với Ngài, nếu họ ngã bệnh Ngài tận tâm săn sóc họ. Vào thời đói kém, khi đã cho hết những gì thuộc quyền mình, Ngài ăn xin để giúp đỡ người thiếu thốn, ngày kia, Ngài gọi Varozza lên kho lẫm thu lúa mì còn sót lại trong rơm. Lorenzo theo họ lên coi, đã thấy đống lúa vàng thay vì rơm rạ, một phép lạ xảy ra tương tự tại một thùng rượu không. Đầy thán phục, Lorenzo đã để cho người vợ thánh thiện được tự do xếp đặt cuộc sống mình. Thế là Phanxica bán mọi thứ sang trọng, và chỉ mặc y phục khiêm tốn, lại còn hãm mình nghiêm ngặt hơn.
Khi chiến đấu cho đức Thánh Cha Lorenzo bị trọng thương và được mang về nhà khi đang hấp hối. Thánh nữ đã thành công trong việc làm cho ông sống lại. Faluzzô, em Ngài, bị bắt tù, người ta cho Ngài biết phải nộp con trưởng Gioan tẩy giả của Ngài làm con tin, nếu không Paluzzô sẽ bị giết chết. Phanxica hoảng hốt đem con đi giấu. Nhưng Don Antoniô là cha giải tội chặn đường lại nói:- Con làm gì thế ? Hãy đưa đứa con cho người đòi nó.
Phanxica vâng lời để cứu em chồng, rồi vào nhà thờ quì khóc trước tượng Đức Trinh nữ. Còn đang cầu nguyện thì viên sĩ quan địch mang đứa bé trả lại, vì ngựa ông không chịu đi.
Tiếp đến là những biến cố thảm lhốc. Roma bị xâm chiếm và bị cướp phá. Lorenzzô phải trốn đi để lại trách nhiệm cho vợ mình, Phanxica ở lại, với hai con Evangêlista và Anê. Cơn dịch xẩy ra, Evangêlista ngã bệnh, lúc chết cậu nói với mẹ : - Mẹ đừng khóc, con sẽ được hạnh phúc vì này thiên thần đến tìm con.
Một đêm kia Ngài cầu nguyện và thấy người con hiện ra báo tin mình đang ở giữa các thiên thần và cho biết mình sẽ đến tìm đứa em gái, cho nó chia sẻ hạnh phúc. Một niềm vui siêu nhiên hòa lẫn với các đớn đau loài người. Ngài ngã bệnh và các thị kíến về hỏa ngục làm Ngài thêm khổ cực. An bình trở lại Roma. Lorenzô trở về chứng kiến những tang tóc và cướp phá. Phanxica đau đớn trong lòng, nhưng vẫn tìm lời trấn an đầy tha thứ. Ngài hòa giải thù địch với người chồng chỉ còn biết sống để chia sẻ bước tiến thiêng liêng của vợ mình.
Phanxica cũng lôi kéo các phụ nữ Rôma vào việc giúp đỡ cho những tình cảnh khốn khổ do chiến tranh để lại. Ngài tụ họp vào một nhà những bà cùng một lý tưởng bác ái và khổ hạnh. Đây là thời đầu của dòng những người tận hiến cho Đức Maria. Gọi như thế vì khi tự hiến họ dùng từ ngữ: "Con hiến mình" thay vì tuyên đọc lời khấn. Trong số những cuộc trở lại Phanxica tạo được, có cuộc trở lại của vợ của Gioan tẩy giả, con Ngài.
Sau bốn năm hoà hiệp, Phanxica mất chồng. Ngài tới quì trước cửa tu viện mình đã thiết lập. Đi chân không. đeo giây vào cổ, Ngài xin nhập dòng.
Gioan tẩy giả ngã bệnh, Phanxica bỏ dòng về thăm, Ngài đã bị lên cơn sốt và đã qua đời chính tại nhà mình. Các nữ tu vây quanh Ngài để nghe những lời khuyên cao cả: - Hãy trung tín đến chết, Satan sẽ tấn công các chị như đã tấn công tôi. Nhưng không thử thách nào quá độc dữ nếu các chị trung thành với Chúa Giêsu.
Nói lời cuối cùng xong, cửa trời mở ra, thiên thần của Ngài ra dấu kêu gọi Ngài theo. Thánh Phanxica được chọn làm thánh bảo trợ của các phụ nữ đã lập gia đình và trở nên góa bụa.
(daminhvn.net)


09 Tháng Ba
"Hãy Làm Một Cái Gì Ðẹp Cho Chúa"

Mẹ Têrêxa Calcutta thường hay nói: "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Chúa". Sau tên cực trọng của Chúa Giêsu, hai chữ thường nằm trên đầu môi chót lưỡi của Mẹ là "tốt đẹp và kỳ diệu". Hai tiếng ấy là một tóm gọn của bài ca ngợi khen của Ðức Maria mà Mẹ Têrêxa đã lấy làm tâm tình của mình. Tốt đẹp và kỳ diệu thay Tình Yêu Quan Phòng của Chúa được thể hiện qua những hy sinh và phục vụ của Mẹ dành cho những người cùng khổ ở Ấn Dộ và trên khắp thế giới...
Cách đây hơn 15 năm, Malcolm Muggerridge, một ký giả và bình luận gia nổi tiếng của đài BBC, đã cùng với một nhóm chuyên viên của đài đến Ấn Ðộ để làm một cuộc phỏng vấn về Mẹ Têrêxa, về các hoạt động của Mẹ. Sau năm ngày làm việc, đến lúc cắt xén và tháo ráp để dựng thành cuốn phim, Mẹ Têrêxa đã thốt lên: "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Chúa". Câu nói của Mẹ đã được ký giả Muggerridge lấy làm tựa đề của cuốn phim thời sự về Mẹ và các nữ tu của Mẹ. Cuốn sách ghi lại cuộc phỏng vấn cũng mang cùng một tựa đề. Sau khi cuốc phim được trình chiếu trên đài BBC, thế giới bỗng chú ý đến người nữ tu đã từ mấy chục năm qua âm thầm chăm sóc những người cùng khổ nhất trong các khu ổ chuột ở Calcutta. Tốt đẹp và kỳ diệu thay! Khuôn mặt đau khổ của nhân loại được phơi bày, nhưng Tình Yêu của Thiên Chúa cũng được thể hiện qua những âm thầm hy sinh phục vụ của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.
Ngày nay, khi đi qua một số thành phố lớn trên thế giới, thỉnh thoảng người ta đọc được bảng hiệu: "Hãy gìn giữ cho thành phố được sạch" hoặc "Hãy làm đẹp thành phố". Những khẩu hiệu ấy nhắc nhở cho kiều dân và khách qua đường về nghĩa vụ tôn trọng trật tự, cũng như giữ cho thành phố được sạch sẽ và đẹp đẽ.
Mỗi người Kitô cũng là một thành phố của Thiên Chúa. Họ luôn được mời gọi để giữ thơm và làm sạch cho thành phố ấy. Thay vì vứt bừa bãi ra bên ngoài những rác rưởi của những hành vi bất chánh, họ luôn được mời gọi để bày tỏ một bộ mặt tốt đẹp và kỳ diệu để qua đó thiên hạ sẽ nhìn vào mà ngợi khen Cha trên trời...
"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa": đó phải là câu tâm niệm mà người Kitô thốt lên khi vừa thức giấc đón chào một ngày mới.
"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách dâng lên Ngài hy sinh trong những công việc nhỏ bé hằng ngày.
"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng những cử chỉ quảng đại, hy sinh phục vụ đối với những người cùng khổ nhất trong xã hội.
"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách sống tử tế và không ngừng tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.
"Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng chứng tích của một cuộc sống đầy lạc quan và vui tươi ngay cả khi chỉ gặp toàn đau khổ, thử thách...
(Lẽ Sống)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét