Trang

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2016

28-01-2016 : THỨ NĂM - TUẦN III THƯỜNG NIÊN - THÁNH TÔ-MA A-QUI-NÔ, LINH MỤC, TIẾN SĨ HỘI THÁNH - Lễ Nhớ

28/01/2016
Thứ Năm tuần 3 thường niên
Thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.

* Sinh năm 1225 trong một gia đình quý tộc ở Aquinô, rồi theo học tại đan viện Montê Cátxinô, tiếp đến tại đại học Napôli, cuối cùng Tôma nhập dòng Anh Em Thuyết Giáo và hoàn tất việc học tại Pari và Côlônhơ, dưới sự dẫn dắt của một bậc thánh sư là Anbêtô Cả. Thánh Tôma đã thể hiện trọn vẹn lý tưởng dòng thánh Đaminh là chiêm niệm và truyền đạt cho tha nhân điều mình đã chiêm niệm. Vừa là triết gia, vừa là thần học gia, trong vai trò giáo sư, thánh nhân đã suy nghĩ, giảng dạy và viết rất nhiều. Nhưng trước hết và trên hết, thánh nhân là người chiêm niệm, người đã cầu nguyện nhiều và đã tuân thủ một kỷ luật nghiêm khắc để có thể đạt tới ánh sáng tinh tuyền. Thánh nhân qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 tại đan viện Xitô ở Phốtxanôva. Ngày 28 tháng Giêng là ngày thi hài thánh nhân được cải táng đưa về Tuludơ năm 1369.

Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 7, 18-19. 24-29
"Lạy Chúa là Thiên Chúa, tôi là ai và gia đình tôi là chi?"
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Sau khi Nathan nói với Ðavít xong, vua Ðavít đến ngồi trước Thiên Chúa mà nói rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, con là ai và gia đình con là chi mà Chúa dẫn con đến đây? Nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa, như thế Chúa còn cho là ít, nên Chúa còn nói đến nhà tôi tớ Chúa trong tương lai lâu dài, vì lạy Chúa, đó là thường tình của loài người.
"Chúa đã thiết lập dân Israel làm dân Chúa đến muôn đời, và lạy Chúa, chính Chúa trở thành Thiên Chúa của họ. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, xin hãy thực hiện mãi mãi lời Chúa đã nói về tôi tớ và về nhà của nó, và hãy làm như Chúa đã phán, để danh Chúa được ca khen đến muôn đời, và được truyền tụng rằng: 'Chúa các đạo binh là Thiên Chúa của Israel'. Xin cho nhà tôi tớ Chúa được vững chắc trước nhan thánh Chúa. Lạy Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã mạc khải cho tôi tớ Chúa biết những lời này: 'Ta sẽ xây dựng cho ngươi một ngôi nhà', vì thế, tôi tớ Chúa vững tâm thốt lên lời khẩn nguyện trên đây. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, và lời Chúa thì chân thật, vì Chúa đã tỏ ra cho tôi tớ Chúa những điều hạnh phúc ấy. Giờ đây, xin hãy khởi sự chúc phúc cho nhà tôi tớ Chúa, để nhà tôi tớ Chúa tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời, vì lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã phán và xin giáng phúc cho nhà tôi tớ Chúa đến muôn đời".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 131, 1-2. 3-5. 11. 12. 13-14
Ðáp: Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người (Lc 1, 32a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, để thương Ðavít, xin Chúa nhớ đến mọi nỗi ưu tư của người: người đã thề như thế nào với Chúa, người đã khấn hứa cùng Ðấng toàn năng nhà Giacóp rằng: - Ðáp.
2) "Tôi sẽ không vào lều trại nhà tôi, tôi sẽ không bước lên giường nằm, tôi sẽ không nhắm mắt ngủ, không để cho mi mắt tôi được nghỉ an, cho tới khi tôi gặp được nơi ngự điện cho Chúa, gặp được cung lâu cho Ðấng Toàn năng nhà Giacóp". - Ðáp.
3) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời, rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng giống của ngươi". - Ðáp.
4) "Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta và những luật lệ mà Ta ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên ngai báu của ngươi". - Ðáp.
5) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Ngài phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích". - Ðáp.
  
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 4, 21-25
"Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe". Và Người bảo họ rằng: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Ðong đấu nào
Thi hào Tagore có kể câu truyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ ngồi bên vệ đường. Hôm ấy, đức vua ngự giá đi ngang qua. Người hành khất cố lê lết đến cổng làng, ngồi đó và nhủ thầm: "Ðây là dịp may hiếm có, tôi sẽ xin đức vua bố thí cho tôi".
Từ xa, khi thấy xe đức vua, người hành khất đã vẫy tay chào. Nhưng không ai ngờ, khi xe dừng lại, vua chẳng cho gì mà còn giơ tay xin người hành khất bố thí. Người hành khất liền đưa tay vào cái bị, lấy ra một nắm thóc và đặt vào bàn tay vua một hạt thóc. Ðức vua cám ơn, rồi tặng lại một món quà nhỏ bỏ vào cái bị ấy.
Khi về đến nhà, người hành khất mở bị ra, thì thấy giữa những hạt thóc một hạt kim cương sáng ngời. Lúc đó, người hành khất mới hối tiếc: "Phải chi ta cho đức vua cả bị thóc này, thì ta đã được cả một bị kim cương".
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con đong đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho các con đấu ấy, và còn cho các con hơn nữa". Nói khác đi, chỉ có một đấu duy nhất, là nếu chúng ta làm điều gì đó cho người anh em, thì chính đấu ấy sẽ đong lại cho chúng ta. Có một tội mà ít ai tránh khỏi, đó là tội ích kỷ. Vì ích kỷ là chỉ muốn thu vén điều tốt cho mình, còn dành điều xấu cho người khác, do đó chẳng quan tâm gì đến những bất hạnh của người khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta suy xét và điều chỉnh lại cuộc sống trong tương quan với tha nhân, với ý thức rằng những gì chúng ta làm cho người anh em, là làm cho chính Chúa, và rằng Chúa sẽ đối xử với chúng ta theo cung cách chúng ta đối xử với người khác.
Veritas Asia



Lời Chúa Mỗi Ngày
Thánh Thomas Aquinas Tiến Sĩ
Bài đọc: Wis 7:7-10; 15-16; Jn 17:11b-19.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quí trọng của Đức Khôn Ngoan
Nếu một người muốn biết thánh sư Thomas Aquinas khôn ngoan dường nào, người đó cứ đọc bộ Tổng Luận Thần Học (Summa Theologiae) là sẽ biết ngay. Để thưởng công cho thánh nhân, một ngày kia Đức Kitô hiện ra với ngài và nói: “Thomas! Con viết rất hay về cha. Con cứ việc xin bất cứ sự gì Cha sẽ ban cho con.” Không một chút do dự, thánh nhân nói với Đức Kitô: “Không điều gì khác ngoại trừ chính Cha.”
Để có thể viết về Chúa hay đến thế, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh tất cả cho việc tìm kiếm khôn ngoan. Ngài thuộc dòng họ quí tộc, Landulph, cha của ngài là Quận Công (Count) của Aquino; mẹ của ngài là Theodora, Quận Chúa (Countess) của Teano. Gia đình của ngài có họ hàng với hoàng-đế Henry VI và Frederick II. Khi quyết định trở thành một tu sĩ Đa-minh, ngài đã gặp nhiều chống cự gay gắt từ phía gia đình đến nỗi cha và các anh chặn đường bắt giam ngài vào trong cây tháp San Giovanni ở Rocca Secca. Họ còn cho cả gái làng chơi vào để quyến dũ ngài bỏ ý định trở thành một tu sĩ nghèo hèn. Sau cùng, Thomas Aquinas đã vượt qua tất cả để tận hiến cuộc đời cho việc cầu nguyện và tìm kiếm sự khôn ngoan.
Hai bài đọc trong ngày lễ kính ngài hôm nay muốn nêu bật sự quan trọng và ích lợi của khôn ngoan. Trong bài đọc I, trình thuật hôm nay là hậu quả của cuộc đàm thoại giữa Thiên Chúa và vua Solomon. Vua Solomon đã xin cho được khôn ngoan và Thiên Chúa đã ban cho Nhà Vua khôn ngoan đến nỗi trước và sau Vua, không ai được khôn ngoan đến thế. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trước khi chịu chết và về trời đã không xin Chúa Cha điều gì khác hơn là xin thánh hiến các môn đệ của Ngài trong Sự Thật. Ngài cầu nguyện để xin Cha ban cho các môn đệ hiểu biết và sống theo Lời của Thiên Chúa, để có thể hoàn thành nhiệm vụ Ngài trao và đạt đến quê Trời.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
1.1/ Hiểu biết khôn ngoan đáng quí trọng hơn mọi sự: Theo truyền thống Do-thái, vua Solomon là "tác giả" của các Sách Khôn Ngoan; vì vua Solomon được coi là người khôn ngoan nhất trong lịch sử của nhân loại. Truyền thống kể lại truyện khi Thiên Chúa hỏi nhà vua muốn xin bất cứ gì, thì Thiên Chúa cũng ban cho. Vua Solomon không xin cho có uy quyền, cũng chẳng xin cho được giầu có, sức khỏe, sống lâu, hay bất cứ điều gì khác; nhưng chỉ xin cho được khôn ngoan để biết sống và cai trị dân. Thiên Chúa rất hài lòng với điều nhà vua xin; nên Ngài hứa sẽ ban cho vua Solomon được khôn ngoan đến độ không có ai trước và sau vua được khôn ngoan như thế.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn vương quyền: Nắm giữ vương trượng, ngai vàng, mà không biết cách cai trị dân chúng; sớm muộn gì rồi vương quyền cũng vào tay người khác. Nếu có Đức Khôn Ngoan, vua sẽ biết lòng dân mong ước gì, và cai trị họ theo những điều họ mong ước, thì vương quyền sẽ tồn tại lâu dài, và vua không phải chịu trách nhiệm trước tòa phán xét.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn của cải: Vua Solomon thú nhận: ''Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.'' Có giàu có đến đâu chăng nữa, mà không biết cách sống sao để được bình an và hạnh phúc, có lợi gì cho người sở hữu nó đâu. Thực tế chứng minh: nhiều người giàu có, nhưng vẫn không muốn sống, và có người còn tìm cách kết liễu đời mình nữa.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn sức khỏe và sắc đẹp: Đây phải là bài học khôn ngoan cho nhiều người trong xã hội chúng ta, quá chú trọng đến việc tập luyện và nhịn ăn uống để có một thân thể cân đối đẹp đẽ và khỏe mạnh. Dĩ nhiên chúng ta không đả kích những điều đó không quan trọng; nhưng không đủ để mưu cầu hạnh phúc cho con người. Có đẹp đẽ khỏe mạnh đến đâu chăng nữa, rồi cũng úa tàn theo thời gian. Vua Solomon cho biết lý do ông quí trọng Đức Khôn Ngoan hơn: ''Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi.''
Nói tóm, vua Solomon đã suy nghĩ rất nhiều khi xin cho được Đức Khôn Ngoan, vì khi có Đức Khôn Ngoan là có tất cả: ''Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể.''
1.2/ Làm sao để có Đức Khôn Ngoan? Khác với khôn ngoan của thế gian, ai muốn có phải cố gắng luyện tập; Đức Khôn Ngoan mà vua Solomon có được là do Thiên Chúa ban: "Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi.''
2/ Phúc Âm: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.
2.1/ Chúa Giêsu biết sự nguy hiểm cho các môn đệ khi sống trong thế gian: Chúa Giêsu biết đã đến giờ Ngài phải bỏ thế gian, nên Ngài tâm sự với Chúa Cha: "Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha." Giờ Chúa Giêsu phải rời bỏ các môn đệ, cũng là giờ mà các ông phải đương đầu với quyền lực của thế gian một mình. Ngài biết hậu quả sẽ nghiêm trọng chừng nào, như Ngài đã từng nói với các môn đệ: "Họ sẽ tiêu diệt chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác." Nhìn lại kết quả việc chăn chiên của mình, Chúa Giêsu hãnh diện nói với Chúa Cha: "Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh."
Thế gian sẽ ghét bỏ và truy tố các môn đệ như họ sắp ghét bỏ và truy tố Chúa Giêsu. Lý do là vì cả Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian. Ngài muốn cho các ông biết rõ điều này; để các ông không ngạc nhiên khi điều đó xảy đến.
2.2/ Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ: Biết những nguy hiểm sẽ xảy đến cho các môn đệ như thế, Ngài cầu xin Chúa Cha ban cho các ông những điều quan trọng sau:
(1) Xin Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khỏi ác thần: "Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian." Chúa Giêsu không xin "cất các môn đệ khỏi thế gian;" nhưng Ngài xin "gìn giữ họ khỏi ác thần." Các ông phải ở lại thế gian để tiếp tục sứ vụ rao giảng của Ngài.
(2) Xin Chúa Cha thánh hiến các môn đệ trong sự thật: Giống như Phaolô, Chúa Giêsu biết nguy hiểm của sự sai lạc: "Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật." Sự thật đây là Lời Kinh Thánh và những lời tâm huyết Chúa Giêsu vừa dạy dỗ họ. Ngài biết mọi hành động sai bắt đầu từ sự hiểu biết sai; vì thế, hiểu biết sự thật là điều không thể thiếu cho các môn đệ của Chúa.
Cả hai điều cầu xin này đều được Chúa Cha ban cho các môn đệ qua việc ban Thánh Thần. Ngài là thần sự thật, Ngài sẽ giúp các ông nhận ra sự thật và sẽ hướng dẫn các ông tới tất cả sự thật. Ngài cũng là người bảo vệ và giúp các ông có sức mạnh làm chứng nhân cho Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu đã xin với Chúa Cha để Ngài gởi tới cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Ngài là Thần Sự Thật, Ngài sẽ giúp chúng ta hiểu sự thật và dẫn chúng ta tới chân lý toàn vẹn.
- Chúng ta phải biết quí trọng sự thật và cầu xin Chúa Thánh Thần cho chúng ta thấu hiểu những lời dạy dỗ của Thiên Chúa, và có can đảm sống theo những gì Thiên Chúa dạy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

28/01/16 THỨ NĂM TUẦN 3 TN
Th. Tô-ma A-qui-nô, linh mục, tiến sĩ HT
Mc 4,21-25

Suy niệm: Mark Zuckerberg, sáng lập viên và là tổng giám đốc công ty mạng xã hội facebook, trong dịp con gái đầu lòng chào đời đã quyết định tặng 99% tài sản của mình (45 tỉ USD) để thành lập một quỹ từ thiện với mục đích phát triển môi trường giáo dục và y tế cho các trẻ em trên thế giới. Trong lá thư rất xúc động gởi con gái, Mark cho biết mình “có trách nhiệm rất lớn trong việc tạo ra một thế giới tốt lành hơn cho con và cho tất cả trẻ em.” Thiên Chúa cho con người được trở nên vô cùng giàu có khi Ngài tặng ban cho họ vũ trụ này làm gia sản; và hơn thế nữa, Ngài còn ban cho chúng ta Người Con duy nhất để đền bù tội lỗi chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta hãy dùng cái “đấu quảng đại” ấy của Ngài mà đong đầy tình thương cho anh em, và đáp lại Ngài cũng dùng chính đấu tình thương ấy mà đong lại cho chúng ta.
Mời Bạn: Là Ki-tô hữu, bạn luôn được mời gọi làm toả sáng các giá trị Tin mừng qua những nỗ lực xây dựng đời sống xã hội tốt đẹp hơn; bằng sự quảng đại dấn thân và cho đi để phục vụ người khác. Nhờ đó bạn cũng được giàu lên trong đời sống đức tin của mình.
Chia sẻ: Điều bạn có thể quảng đại cho đi trong cuộc sống hiện nay là gì?
Sống Lời Chúa: Đọc lại lời ĐGH Phanxicô trong ngày bế mạc đại hội giới trẻ thế giới (2013): “Ai trao niềm vui đức tin sẽ nhận được niềm vui, đừng sợ sống quảng đại với Đức Kitô và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con biết sống quảng đại, biết mở lòng ra với Chúa và biết mở lòng ra đón nhận anh em mỗi ngày. Amen.

Đặt trên đế
Thế giới hôm nay cần những ngọn đèn Kitô hữu. Hai tỷ Kitô hữu làm nên hai tỷ ngọn đèn. Ánh sáng bừng lên xua tan bóng tối của dối trá, hận thù, sa đọa...


Suy nim:
Bài Tin Mừng hôm nay gồm bốn câu có vẻ rời rạc
được Đức Giêsu nói trong những dịp khác nhau.
Thánh Máccô chia bốn câu này thành hai cặp (cc. 21-22 và 24b-25).
Trong mỗi cặp, câu thứ hai được nối với câu thứ nhất bằng chữ “vì”.
Đức Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của bốn câu nói trên
qua việc Ngài nhắc nhở ta phải nghe một cách nghiêm túc (cc. 23. 24a).
Thầy Giêsu vẫn quen giảng khởi đi từ những chuyện hàng ngày.
Thời xưa, khi chưa có điện, ngọn đèn dầu đem lại ánh sáng cho cả căn nhà.
Bởi vậy không thể nào hiểu được chuyện ai đó thắp đèn lên,
rồi lại đặt nó dưới cái thùng hay gầm giường.
Cứ sự thường phải đặt nó trên đế để soi sáng mọi sự.
Ngọn đèn mà Thầy Giêsu nói ở đây có thể ám chỉ Tin Mừng của Ngài,
và cũng có thể ám chỉ chính Con Người của Ngài.
Tin Mừng ấy không được phép đem giấu đi,
nhưng phải được quảng bá và rao giảng.
Con Người Đức Giêsu không được che kín sau bức màn,
nhưng phải được từ từ vén mở cho mọi người thấy.
Trong sách Tin Mừng theo thánh Máccô,
Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói với ai Ngài là Đức Kitô (8, 30),
vì chữ “Kitô” khiến người ta lầm tưởng Ngài sẽ đứng lên làm cách mạng.
Nhưng vào cuối đời, khi tay không đứng trước vị thượng tế (14, 61-62),
Đức Giêsu đã nhìn nhận tước vị này, vì nó không còn có thể bị hiểu lầm nữa.
Như thế, những gì được tạm thời che giấu, cuối cùng đã được tỏ lộ,
những gì bí ẩn đã được đưa ra ánh sáng (c. 22).
Đức Giêsu là Kitô, nhưng là một Kitô chịu đau khổ như Người Tôi Tớ (Is 53).
Cuộc đời người Kitô hữu, người đã lãnh nhận phép thanh tẩy,
cũng giống như ngọn đèn đã thắp sáng đặt trên đế.
Không được vì bất cứ lý do gì mà che giấu đi:
vì khiêm tốn không muốn cho ai thấy ánh sáng của mình,
hay vì không dám đương đầu với sức mạnh của bóng tối.
Thế giới hôm nay cần những ngọn đèn Kitô hữu.
Hai tỷ Kitô hữu làm nên hai tỷ ngọn đèn.
Ánh sáng bừng lên xua tan bóng tối của dối trá, hận thù, sa đọa.
Ánh sáng đem lại sự ấm áp của cảm thông, an bình và nâng đỡ.
Khi cảm nhận được ánh sáng, người ta sẽ nhận ra được Kitô hữu là ai.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.

Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì ?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ ?

Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.

Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.

Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.

Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa.
(Hélder Câmara)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
28 THÁNG GIÊNG
Làm Việc Là Một Quyền Căn Bản
Tầm mức toàn cầu của vấn đề lao động đang thúc bách chúng ta phải khẩn trương làm một cái gì đó. Không thể chần chừ thêm nữa. Đó là một trong những quan điểm của Thông Điệp Laborem exercens, cũng đồng nhịp với nhu cầu cần phải có những sự cộng tác quốc tế thông qua những hiệp ước và những bản thỏa thuận. “Căn bản của những hiệp ước này phải nhắm đến việc liệu sao cho có thêm việc làm cho người ta. Quyền làm việc là quyền căn bản của mọi người, và những người cùng làm việc như nhau phải được hưởng thù lao tương ứng với nhau. Phải liệu sao cho mức sống của người lao động trong mọi xã hội có thể bớt bộc lộ những sự chênh lệch khủng khiếp về mức lương bổng – là điều vốn bất công và thậm chí có thể châm ngòi cho những phản ứng bạo động” (Số 18). Vì thế, ở đây các nhà lãnh đạo quốc gia phải đứng trước một công cuộc có qui mô rất lớn.
Bản thân người lao động cũng có thể đóng góp vào công cuộc lớn lao này, bằng cách hiện diện trong những tổ chức quốc tế nơi mà họ có một tiếng nói đầy sức tác động, chẳng hạn Tổ Chức Lao Động Quốc Tế.
Trong phạm vi quốc gia mình, người lao động được kỳ vọng tác động vào công luận. Tại những nước dân chủ, điều đó có thể góp phần tạo ra những chính sách đặt nền tảng không phải trên sự phân biệt đối xử nhưng là trên cơ sở rằng người ta có quyền được nuôi sống chính mình và gia đình mình một cách thích đáng. Chúng ta phải nắm vững nhãn quan này về thiện ích của toàn thể gia đình nhân loại, một nhãn quan đòi hỏi chúng ta phải vượt qua những sự chênh lệch quá lớn giữa các quốc gia – về vấn đề việc làm và về tiềm lực kinh tế.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 28/01
Thánh Tôma Aquinô, Lmts
2Sm 7, 18-19. 24-29; Mc 4, 21-25.

Lời Suy Niệm: Người nói với các ông: “Chăng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? nào chẳng phải là để đặt trên đế sao?... “Hãy để ý tới điều anh em nghe.”
Sau khi Chúa Giêsu dùng “dụ ngôn người gieo giống” và Người “cắt nghĩa dụ ngôn người gieo giống”, cho các môn đệ của Người. Người lại tiếp nối nói thêm “dụ ngôn cái đèn và đấu đong”. Hạt giống gặp được đất tốt thì sinh nhiều bông hạt. Cũng vậy đối với Lời của Người, khi con người đã nghe. Có nhận ra đó là ánh sáng cho cuộc đời của mình hay không? Có biết giương cao để soi rọi cho mình và cho những người chung quanh? Hay là để dưới gầm giường. Lời Chúa Giêsu đang nói với tất cả chúng ta: “Hãy để ý điều anh em nghe”. Mỗi người trong chúng ta cần phải suy xét mình về cách đón nhận Lời Chúa. Tùy vào cách đón nhận của mỗi người. Thiên Chúa sẽ ban thêm dư đầy hay sẽ bị Ngài lấy đi.
Lạy Chúa Giêsu. Lời Chúa là ánh sáng soi đường con đi. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn đón nhận và suy niệm Lời Chúa, để trong cuộc sống của chúng con được Chúa yêu thương nhiều hơn.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 28-01: Thánh TÔMA AQUINÔ
Linh mục Tiến sĩ (1225-1274)

Tại vương quốc Naples, người vợ quí phái của lãnh chúa Aquinô được vị tu sĩ Thánh thiện cho biết, là bà sẽ rất đỗi vui mừng vì con trẻ bà mong đợi sẽ sáng chói với sự hiểu biết khôn sánh, Người con ấy là Tôma. Ngài sẽ là một vị thánh trong hàng ngũ các thánh. Toma sinh tại lâu đài Roccasecca, gần Naples khoảng năm 1225.
Được sáu tuổi cha nàng dẫn tới tu viện Montê Cassinô. Con trẻ được dâng hiến đã hỏi: - Thiên Chúa là gì ?
Và các tu sĩ ngạc nhiên vì thấy chìm đắm trong các suy ngắm (quá sớm và sáng suốt) ấy.
Lúc mười tuổi, Ngài được gửi tới đại học Naples. Các giáo sự đã khám phá ra dưới dáng vẻ nhút nhát của Ngài, một trí khôn thượng thặng và một đời sống siêu nhiên sáng ngời với các đức tính hiền hòa, trong trắng và đức ái của Ngài. Trong những kỳ nghỉ tại lâu đài cùng cha mẹ, Ngài gắng sức trợ giúp người nghèo. Điều này làm cho chủ lâu đài phiền trách Ngài. Tình yêu của Ngài đối với người mẹ thật bao la và đã tạo nên mối dày vò suốt đời.
Khi chưa tốt nghiệp đại học, Ngài đã quyết định vào dòng Đa-minh. Lúc ấy dòng thành lập chưa được ba năm. Gia đình Ngài rúng động với ý tưởng một con người quý phái như vậy lại trở thành một tu sĩ dòng ăn xin. Ngoài ra họ còn mong mỏi rằng: một ngày kia, Ngài sẽ còn làm điều gì đó, để phục hồi vận mệnh của họ bằng việc trở lại làm tu viện trưởng Montê Cassinô. Nghe được tin, các anh của Ngài đang là sĩ quan trong quân đội, đã giận dữ. Họ bắt Ngài trên đường đi Roma và giam Ngài dưới chân tháp của lâu đài. Gia đình gắng công vô ích khi nài nỉ, đe dọa và quyến rũ Tôma đổi ý.
Các anh Ngài còn dùng tới một cô gái làng chơi để hại người nữa. Nhưng cương quyết, Tôma đã dùng cây củi cháy để xua đuổi nàng, rồi dùng than củi này vẽ lên tường hình thánh giá. Quỳ xuống trước hình thánh giá, Toma với nhiệt tâm mạnh mẽ hơn bao giờ hết, lập lại lời hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa. Được hai năm, các chị Ngài đã cảm động trước sư cương nghị và những khổ cực của Ngài, đã giúp Ngài trốn qua cửa sổ bằng một cái thúng. Các tu sĩ Đaminh đợi Ngài dưới chân tháp.
Tôma khấn dòng ở Naples, rồi đi bộ từ Roma tới đại học Colonia.
Trong môi trường học thức ưu việt này, Ngài cố dấu kín các bước tiến khác thường của mình như Ngài đã che kín vinh dự gia đình. Không khi nào Ngài đã để cho người ta ngờ rằng mình là cháu của hoàng đế Barberoussa và là bà con của vua Frêdêric II cả. Khiêm tốn là bà hoàng của lòng Ngài. Ngày kia một bạn học giảng bài cho Ngài. Toma phải là bậc thầy của anh, đã tiếp nhận bài học với lòng biết ơn. Đó là thói câm lặng của Toma. Vì bình dị nên Ngài bị coi là đần độn. Người ta gọi chàng trai to con này là con bò câm.
Nhưng thày Albertô đã coi Ngài như một thiên tài và tuyên bố: - Con bò nầy sẽ rống lớn, đến nỗi những tiếng rống của nó sẽ vang dội khắp thế giới.
Người sinh viên tài ba này đã tỏ ra dễ dạy như một trẻ em. Tại phòng ăn, vị chủ chăn lầm lẫn, đã bắt Ngài sửa lại cách phát âm đã chính xác. Lập tức Toma sửa lại liền. Sau bữa ăn các bạn Ngài bày tỏ sự ngạc nhiên, nhưng thánh nhân trả lời: - Điều quan trọng không phải là cách phát âm của một từ ngữ, nhưng là biết khiêm tốn vâng phục hay không.
Lúc hai mươi tuổi, Tôma đã được gọi làm giáo sư tại Côlônia, Ngài xuất bản một tác phẩm danh tiếng, rồi đi Paris mở trường dạy triết học ở đường thánh Giacôbê và thụ phong linh mục. Các nhà trí thức tới hỏi ý Ngài. Vua Lu-y IX xin ý kiến Ngài trong những việc hệ trọng và mời Ngài đồng ban dự tiệc.
Nhưng không hoàn cảnh nào đã làm cho Tôma chia trí khỏi những suy tư sâu xa. Chẳng hạn tại bàn ăn của nhà vua, người ta thấy Ngài bất chợt ra khỏi sự yên lặng của mình, đập mạnh lên bàn và kêu lên:- Đây rồi, một luận chứng quyết liệt chống lại những người theo phái Manicheô.
Bối rối vì quên rằng mình đang ở trước mặt vua, Ngài muốn xin lỗi, nhưng vua thánh đã truyền cho Ngài đọc ngay cho thơ ký chép lại những suy tư có giá trị siêu việt đó.
Kinh nguyện, làm việc và ý chí là những yếu tố tạo nên sức mạnh của Tôma, Ngài nói: - Ai không cầu nguyện thì cũng giống như người lính chiến đấu mà không có khí giới.
Ngài định nghĩa sự nhàn rỗi như là: - Cái búa mà quân thù bửa xuống.
Ngài trả lời cho bà chị hỏi làm sao để được cứu rỗi: - Phải muốn.
Dầu bận việc rao giảng, dạy học và đi tới những nơi Đức Thánh Cha sai tới Thánh Toma vẫn viết nhiều tác phẩm thành công rực rỡ. Trong một lần hiện ra, Ngài nghe thấy thầy chí thánh nói với mình: - Hỡi con, con đã viết cách xứng đáng về ta, con muốn được thưởng gì ?
Tôma trả lời: - Ôi lạy Chúa, con không muốn gì ngoài Chúa cả.
Người ta quả quyết rằng: Ngài đã nói chuyện với Đức Trinh Nữ, các thiên thần và các thánh. Và khi cầu nguyện tâm hồn Ngài như lìa khỏi xác. Ngài còn được mệnh danh mãi là "Tiến sĩ thiên thần" Ngài có một tâm hồn vui tươi, nhã nhặn với anh em, đến nỗi có người nói: - Mỗi lần thấy và nói chuyện với Ngài, tôi thấy như tràn ngập niềm vui thiêng liêng.
Thánh nhân đã qua mười năm tại Italia. Một phần trong thời gian nầy ở trong giáo triều, Đức Thánh cha Urbanô đã trao phó cho Ngài nhiều trọng trách, rõ ràng nhất là lo cải hóa người Do thái. Đức thánh cha còn muốn gọi Ngài lên chức giám mục nhưng Ngài đã từ chối. Năm 1269 Ngài trở lại Paris để dạy thần học. Năm 1272 Ngài được gọi về Naples để lo việc cho nhà mẹ dòng Daminh. Được năm cuối đời Ngài cống hiến để hoàn tất một tác phẩm vĩ đại, bộ "Tổng luận thần học".
Nhưng cuối năm 1273 đột nhiên Ngài ngừng viết. Khi dâng thánh lễ, Ngài bỗng có linh nghiệm rằng mình không thể viết thêm được nữa. Réginald, thơ ký của Ngài thúc giục viết thêm, thánh nhân đã trả lời rằng: theo điều đã hiển hiện cho Ngài thì tất cả chẳng ra gì: - "Vì mọi điều tôi đã viết đối với tôi chỉ là rơm rác so với điều đã được mạc khải cho tôi thấy".
Đức Grêgôriô cho mời thày dòng danh tiếng đến dự công đồng Lyon. Dầu bệnh hoạn, thánh Toma đã tuân phục và đi bộ với hai anh em để tới dự công đồng. Đi đường lên cơn sốt. Sức khỏe đã chận Người lại tu viện Fossa Nova.
Cảm thấy sắp chết, Ngài tuyên xưng đức tin và khi rước lễ, Ngài nói: - Tôi tin vững rằng: Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật trong bí tích này, con thờ lạy Chúa, ôi Thiên Chúa, đấng cứu chuộc con".
Ngài qua đời đơn sơ và dịu hiền của một trẻ em không ngừng chiêm ngưỡng Thiên Chúa.
Năm 1323 Ngài được phong thánh và được tuyên bố làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1567, Đức Lêo XIII đã đặt Ngài làm Đấng bảo trợ các nhà thần học và các trường công giáo.
(daminhvn.net)


28 Tháng Giêng
Nhân Vô Thập Toàn
Theo một cổ truyện của người Hồi Giáo, thì Nasruddin là hiện thân của những người độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi được hỏi về lý do tại sao ông không bao giờ lập gia đình, Nasruddin đã giải thích như sau: "Suốt cả tuổi thanh niên, tôi đã dành trọn thời giờ để tìm kiếm người đàn bà hoàn hảo. Tại Cairo, thủ đo của Ai Cập, tôi đã gặp một người đàn bà vừa đẹp vừa thông minh, với đôi mắt đen ngời như hạt oliu. Ðẹp và thông minh, nhưng người đàn bà này không có vẻ dịu hiền chút nào. Tôi đành bỏ Cairo để đi Baghdad, thủ đô Iraq, để may tìm ra người đàn bà lý tưởng tôi hằng mơ ước. Tại đây, tôi đã tìm thấy một người đàn bà hoang hảo như tôi mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh và cũng có tấm lòng quảng đại nữa. Nhưng chỉ có điều là hao chúng ta không bao giờ có đồng quan điểm với nhau về bât cứ điều gì.
Hết người đàn bà này đến người đàn bà khác: người được điều này, người thiếu điều kia. Tôi tưởng mình sẽ không bao giờ tìm được người đàn bà lý tưởng cho cuộc đời. Thế rồi, một hôm tôi gặp được nàng, người đàn bà cuối cùng trong cuộc tìm kiếm của tôi. Nàng kết hợp tất cả những đức tính mà tôi hằng mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh, vừa quảng đại tử tế. Nàng đúng là người đàn bà hoàn hảo.
Nhưng cuối cùng, tôi đành phải quyết ở độc thân suốt đời. Các bạn có biết tại sao không? Nàng cũng đang đi tìm một người đàn ông hoàn hảo. Và tôi đã được nàng chấm như một người đàn ông còn quá nhiều thiếu sót.
Người đàn ông suốt đời độc thân trong câu chuyện trên đây đã quên một trong những quy luật cơ bản nhất của cuộc sống: đó là luật thích nghi. Thay vì bắt người khác và cuộc sống phải thích nghi với chúng ta, chính chúng ta phải là người thích nghi với người khác và cuộc sống. người đàn ông trong câu chuyện đã tìm được người đàn bà lý tưởng, nhưng chỉ tiếc rằng ông chưa biết trở thành một người đàn ông lý tưởng để có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà ấy.
Tâm lý thông thường của con người là thích đòi hỏi người khác hơn là đòi hỏi chính mình. Chúng ta đòi hỏi người khác phải thế này thế nọ với chúng ta, nhưng chúng ta quên rằng chúng ta chưa làm những gì người khác cũng trông chờ nơi chúng ta.
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta khuôn vàng thước ngọc để xử sự trong cuộc sống: "Những gì ngươi không muốn người khác làm cho ngươi, thì ngươi cũng đừng làm điều đó cho người khác". Nếu chúng ta không muốn ai đối xử bất công với chúng ta, chúng ta hãy sống công bình. Nếu chúng ta không muốn ai cư xử hẹp hòi ích kỷ với chúng ta, chúng ta hãy sống quảng đại, độ lượng. Nếu chúng ta không muốn người khác cau có với chúng ta, chúng ta hãy luôn mang bộ mặt của tươi vui, phấn khởi đến với người.
(Lẽ Sống)


SỐNG LỜI CHÚA MỖI NGÀY
NĂM THÁNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Thứ Năm, 28 tháng 1 – Thánh Tôma Aquinô, tiến sĩ Hội Thánh
2 Sa-mu-en 7,18-19.24-29 · Thánh Vịnh 131,1-2.3-5.11.12.13-14
Mác-cô 4,21-25

 Vẫn Chưa Hoàn Tất


Vua vào ngồi chầu trước nhan Đức Chúa và thưa :
« Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì,
 mà Ngài đã đưa con tới địa vị này ? » 2 Sa-mu-en 7,18

          Bạn biết không, Thiên Chúa đã luôn đồng hành với bạn cho đến nơi mà bạn đang hiện diện hôm nay, và Ngài vẫn còn tiếp tục cuộc hành trình với bạn. Dù cho đó là nỗi đau và thất vọng của quá khứ, hay nỗi khổ của hiện tại, Thiên Chúa đã luôn gìn giữ bạn, vì bạn chính là thụ tạo mà Ngài yêu thương nhất, và những việc mà Ngài đang thực hiện nơi bạn vẫn chưa hoàn tất.
          Trong những thời khắc đau khổ, thật khó để nhận ra mục tiêu cao cả còn ẩn giấu phía sau những đau khổ đó. Vì thế, chúng ta thường tự cảm thấy mình bất lực để diễn tả lòng biết ơn, và câu hỏi bật ra trong đầu ta lúc đó sẽ tương tự như câu hỏi của vua Đavít : « Tại sao lại là con ? ». Lời cầu nguyện của vua Đavít là một lời cầu nguyện  tự vấn về những gì mà Thiên Chúa đang làm cho ta, vì chắc chắn rằng Ngài đang hoạt động trong ta, ngay cả khi ta đang chịu đau khổ… Phải, và đặc biệt khi ta đau khổ. Nhà văn người Anh, C.S. Lewis đã giải thích thế này : « Bạn tưởng rằng Thiên Chúa đang chuẩn bị cho bạn một túp lều tranh nhỏ ư, không đâu, Ngài đang xây cho bạn một tòa lâu đài thật to lớn đấy. »

Jessica Mesman Griffith

HỌC HỎI NĂM THÁNH
Dung Nhan Lòng Thương Xót – Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Hỏi 90 : Chúng ta phải hiểu về ân xá trong Năm Thánh thế nào ?

Đáp 90 : Chúng ta phải hiểu về ân xá trong Năm Thánh thế này : Dù chúng ta đã được tha thứ tội lỗi qua Bí Tích Hòa Giải, cuộc sống  của chúng ta vẫn còn mang dấu tích của những mâu thuẫn do tội gây ra và ảnh hưởng tiêu cực của nó vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và cách sống của chúng ta. Trước tình trạng ấy, Thiên Chúa đã chạnh lòng thương xót và giải thoát chúng ta khỏi mọi hậu quả của tội lỗi, đồng thời cho chúng ta khả năng hành động với đức ái và lớn lên trong tình yêu.


CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin giúp con nhận biết Chúa luôn đồng hành bên con mọi lúc mọi nơi để con thêm mạnh mẽ và nỗ lực hoàn tất ơn gọi của mình theo kế hoạch yêu thương của Chúa.
Quyết tâm : Sống tâm tình tạ ơn qua thái độ vui tươi với mọi người.

(nguồn trích : Sống Lời Chúa số 2 – Mùa Thường Niên 1 của Tgp. Sài Gòn)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét