Trang

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

31-01-2016 : (phần I) CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN năm C

31/01/2016
Chúa Nhật tuần 4 thường niên năm C
(phần I)

Bài Ðọc I: Gr 1, 4-5, 17-19
"Ta sẽ đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc.
Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi. Ðừng run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cậy cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17
Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh (c. 15a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu. - Ðáp.
2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá Tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi tay đứa ác. - Ðáp.
3) Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa. - Ðáp.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể (ra) những sự lạ của Ngài. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 1 Cr 12, 31 - 13, 13 (bài dài)
"Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo cho anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.
Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 13, 4-13
"Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có lời ban sự sống. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 4, 21-30
"Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: 'Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!' Ðiều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'". Người nói tiếp: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Phản Ứng Của Hội Ðường Thành Nadarét
Chúa nhật trước, chúng ta thấy Ðức Giêsu khởi sự đi giảng đạo, Người đã vào hội đường Nadarét, xưng mình là vị tiên tri Thiên Chúa hứa sẽ gởi đến cho dân Người. Hơn nữa, khi áp dụng lời sách Isaia về người Tôi tớ Thiên Chúa vào cho mình, Ðức Giêsu đã khẳng định Người là Cứu thế đến công bố năm hồng ân của Thiên Chúa tức là khai mạc thời đại cứu độ mọi người. Hôm nay, thánh Luca cho chúng ta thấy phản ứng của người đồng hương với Ðức Giêsu trước những lời xác quyết của Người.
Ðó là thái độ cố hữu của người Do Thái, như Giêrêmia đã kinh nghiệm. Ðó cũng có thể là cách trả lời của chúng ta đối với mọi mạc khải của Thiên Chúa nơi các ngôn sứ của Người, nếu chúng ta không nghe lời thánh Phaolô mà đặt đức ái lên trên hết. Vậy chúng ta hãy suy nghĩ về cả ba bài Kinh Thánh hôm nay để hiểu mình và sửa mình cho xứng đáng với ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta.

1. Thái Ðộ Cố Hữu Của Người Do Thái
Không dân tộc nào được Chúa yêu thương như cộng đồng con cái Israen. Không phải vì họ có những đức tính trổi vượt hơn hết mọi dân tộc; nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã khấng chọn họ làm dân riêng của Người. Họ có luật pháp là mạc khải khôn ngoan cao cả của Thiên Chúa. Họ còn thường được các tiên tri đến dạy dỗ. Ðó là những ngôn sứ thay mặt Thiên Chúa đến soi sáng và hướng dẫn họ sống theo luật pháp, hầu được đẹp lòng Chúa và hưởng các ân huệ Người ban.
Nhưng Do Thái lại là dân cứng đầu cứng cổ. Họ vứt bỏ đường lối của Thiên Chúa để đi theo lòng dục của mình. Vị tiên tri nào Chúa gửi tới cũng gặp nhiều chống đối và khó khăn. Một phần nữa cũng vì có quá nhiều những tay bịp bợm, lạm dụng sự mê tín của quần chúng tự xưng là sứ giả của Thiên Chúa. Nên bên cạnh một số ít tiên tri thật, có nhan nhản những tiên tri giả và những kẻ "muốn làm nghề tiên tri". Vì sự hiện diện và hoạt động của những kẻ này, các ngôn sứ của Chúa phải tăng thêm nỗ lực để khẳng định Lời Chúa và ơn gọi của mình. Và thường khi các ngài phải "chết để nói lên lời". Giêrêmia là một trong những vị đại tiên tri. Ông là một trong 4 đại tiên tri còn để lại văn phẩm. Không vị tiên tri nào đã gặp nhiều đau khổ vì ơn gọi như ông.
Thế nên, xét về phương diện đau khổ, ông là vị tiên tri gần với Ðức Giêsu Kitô hơn hết. và Phụng Vụ hôm nay đã theo truyền thống coi ông là hình ảnh báo trước về nhà tiên tri thành Nadarét có định mệnh "phải chịu đau khổ". Chúng ta đọc lại những chương 36-45 trong sách Giêrêmia để xem nhà tiên tri này đã khổ sở thế nào. Người ta chống đối, muốn bịt miệng ông, bắt ông phải vào tù ra khám, và có lần đã muốn chấm dứt đời ông rồi. Nhưng trong mọi trường hợp, Giêrêmia vẫn cương quyết công bố Lời Chúa và khẳng định ơn gọi thiêng liêng của mình.
Bài đọc hôm nay không cố ý mô tả cuộc đời thơ ấu của Giêrêmia đâu. Nhưng đây là cái nhìn của một người rất đứng tuổi và chín chắn nghĩ lại ơn gọi của mình, để làm chứng cho mọi người thấy thiên mệnh đã đè xuống trên ông.
Ðồng bào của Giêrêmia, tức là cộng đồng con cái Israen vẫn tin rằng Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự và con người cũng do tay Người nặn lên. Nhưng điều ít ai để ý, là trước khi Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật hữu hình này, Người đã có một kế hoạch rất rõ ràng. Ơn gọi của các tiên tri nằm trong kế hoạch ấy.
Thế nên "trước khi Ta nắn ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi; và trước khi lọt dạ mẹ, Ta đã tác thánh ngươi. Ta đã đặt ngươì làm tiên tri cho các dân tộc". Và để chứng minh điều này, Giêrêmia nói thêm rằng: khi được gọi, ông chưa biết nói, nhưng Chúa bảo chính Người sẽ ban Lời cho ông để ông chỉ có việc nói những lời của Người mà thôi.
Ðó là những lời thành thật. Chúng ta không có gì phải nói thêm. Chúng ta chỉ để ý đến lời Giêrêmia khẳng định mình đã được đặt làm tiên tri cho "các dân tộc". Ý ông muốn nói sấm ngôn của Chúa, mạc khải của Người, không dành riêng gì cho dân Do Thái, nhưng cho mọi dân nước và thời đại. Tính cách phổ cập này thêm vinh dự cho ơn gọi tiên tri tự nó đã cao quý vì phát xuất từ Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn gọi này lại rất bi đát. Những lời sau của Giêrêmia tóm tắt định mệnh của ông.
Ông phải "nai lưng", tức là phải lấy thế để chiến đấu, vì người ta sẽ tuyên chiến với ông. Họ cưỡng lại mọi lời ông nói, vì lời của ông diễn tả ý Chúa chứ không chiều theo dục vọng của loài người.
Ðó là tiêu chuẩn để phân biệt các tiên tri giả và các tiên tri thật. Những người này dù bị chống đối và đau khổ vẫn như thành trì, trụ sắt và tường đồng, cự lại các vua và khanh tướng. Không phải vì họ có can đảm phi thường, nhưng chỉ vì Chúa đã giữ lời hứa với các tiên tri của Người "Ta sẽ ở với ngươi khiến chúng không làm gì được ngươi".
Thật ra không phải vị tiên tri nào cũng thoát khỏi bàn tay sát nhân của loài người độc dữ đến nỗi sau này có lần Ðức Giêsu phải kêu lên "Giêrusalem, Giêrusalem, kẻ giết hại các tiên tri" (Mt 23,37). Và có như thế, các tiên tri mới là những người báo trước vị tiên tri sẽ phải đến trong thời kỳ sau hết, Người cũng sẽ bị giết, nhưng sự sống lại của Người sẽ làm chỗi dậy mọi bậc tiên tri đến trước hầu cho thấy "thủ lãnh thế gian bị luận phạt".
Hôm nay bài Tin Mừng Luca cho chúng ta thấy vị tiên tri này. Không những Người đã gợi lại mà còn thực hiện bài sách Giêrêmia. Chúng ta hãy quan sát Người theo lời thuật của Luca.

2. Phản Ứng Của Hội Ðường Thành Nadarét
Ðức Giêsu bấy giờ vừa giảng xong. Người ta thán phục Người. Họ cảm thấy như có một nguồn ân sủng thoát ra từ môi miệng của Người. Nhưng Người không là con nhà ông Giuse sao? Suy nghĩ này làm chứng họ không muốn khiêm nhường đón nhận sứ điệp cứu độ đến với họ qua một con người bình thường ở giữa họ. Ðức Giêsu chua chát nghĩ đến câu: "Không tiên tri nào được tôn trọng ở quê nhà".
Và từ đó, Luca nghĩ rằng Ðức Giêsu đã nhìn xa hơn nữa, không những Người thấy những kẻ đồng hương với Người ở Nadarét không muốn chấp nhận Người; nhưng qua họ, Người còn thấy rõ cả dân tộc Do Thái nữa cũng sẽ không đón nhận. Họ cậy mình đã có luật pháp và không muốn bị xáo trọn bởi một luồng gió mới nào nếu người khởi xướng không làm được những dấu lạ điềm thiêng như Môsê ngày trước. Nghĩa là họ chỉ muốn mãi mãi là những người xác thịt, coi trọng những cái bề ngoài và không bao giờ muốn trở nên trưởng thành, biết ý thức về ý nghĩa của luật pháp như các tiên tri thường hướng dẫn. Tín ngưỡng của họ trở thành thứ tôn giáo của chữ viết, và của hình thức, chứ không muốn là sự sống tinh thần như Thiên Chúa kêu gọi. Do đó, họ rất ít nghe lời các tiên tri. Hơn nữa, họ còn bỏ rơi các ngài. Thường khi họ còn giết chết các ngài nữa. Mà các ngài đâu có thiếu gì các quyền năng? Êlya không có quyền đóng góp cửa trời và làm mưa sao? Thế mà có ai trong dân Do Thái được nhờ ông? Trái lại một góa phụ ở Sarepta thuộc dân ngoại đã được ông cứu đói. Êlisê cũng vậy. Ông là tiên tri rất mạnh thế.
Tuy nhiên cũng chẳng ai trong dân Do Thái được cho lành bệnh, đang khi Naaman, một bậc khanh tướng ngoại đạo đã được ông chữa khỏi bệnh cùi. Luca trích dẫn những câu chuyện này để phục vụ ý kiến của ông khi viết cuốn Tin Mừng thứ ba. Ông có ý diễn tả rằng dân Do Thái đã không biết đón nhận nhà tiên tri ở giữa họ là Ðức Giêsu thành Nadarét. Và vì vậy sự nghiệp ân sủng của Người đã được chuyển sang cho dân ngoại là Hội Thánh hiện nay.
Luca đã không muốn lợi dụng câu chuyện đã xảy ra trong Hội đường Nadarét để tổng quát hóa công cuộc cứu thế của Ðức Giêsu Kitô và để báo trước đau khổ vinh quang đang chờ đợi Người. Người đã đến giữa dân Người, rao truyền tin mừng cứu độ, nhưng thân nhân của Người và dân Người đã không đón nhận, nên ơn cứu độ của Người mang đến đã chuyển sang dân ngoại là Hội Thánh chúng ta ngày nay.
Lời khẳng định này, làm sao người Do Thái có thể chịu đựng được? Họ đã nhất tề đứng lên, hung hăng lôi Ðức Giêsu ra khỏi thành, đưa Người lên một sườn đồi và định tâm đẩy Người xuống cho chết đi. Nhưng Người đã nhẹ nhàng đi qua mặt họ để tiếp tục cuộc hành trình.
Bằng những lời đơn sơ này, Luca muốn báo trước cuộc tử nạn của Ðức Giêsu. Người sẽ bị người Do Thái kéo ra khỏi thành và đóng đinh trên sườn đồi... Nhưng Người sẽ nhẹ nhàng linh diệu thoát khỏi nơi họ đẩy Người tới để sống lại vinh quang, tiếp tục công việc cứu thế của Người.
Như vậy, có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay không chỉ đơn sơ thuật lại những gì xảy ra trong hội đường ở Nadarét. Hoặc Luca đã dùng câu chuyện này để vẽ ra trước tất cả định mệnh của vị tiên tri đến rao giảng ơn cứu độ cho dân Người. Người cũng bị đối xử không hơn gì các tiên tri đi trước. Như bài sách Giêrêmia đã nói. Nhưng cũng như tiên tri này đã loan báo, Người thật là sứ giả của Thiên Chúa gửi đến báo cho các dân tộc. Hoặc đúng hơn, Luca đã dùng những biến cố trong cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô, và đặc biệt những sự kiện tử nạn và phục sinh của Người, làm đèn chiếu sáng lên câu chuyện xảy ra tại hội đường ở Nadarét và thuật lại sự kiện theo ánh sáng mầu nhiệm chết và sống lại của Ðức Giêsu Kitô.
Dù sao, bài Tin Mừng hôm nay không những cho chúng ta thấy cuộc đời vất vả của Chúa Cứu Thế, nhưng còn muốn gợi lên phản ứng tự nhiên của loài người xác thịt đối với tin mừng cứu độ và hạnh phúc đang dành cho lương dân đón nhận tin mừng.
Chúng ta dĩ nhiên không muốn cư xử như người Do Thái. Nhưng để được như vậy, phải làm gì? Xin vị tông đồ các dân ngoại soi sáng giúp đỡ chúng ta.

3. Con Ðường Chúng Ta Phải Ði
Thánh Phaolô gởi thư cho giáo dân Côrintô. Ở đây người ta đang háo hức được các ơn lạ để phục vụ Chúa, họ thèm ơn nói tiếng lạ, ơn tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn xưng đạo mạnh mẽ hơn. Nhưng thánh tông đồ thấy có nhiều khuynh hướng chuộng hào nhoáng trong những sự háo hức này. Ðó không phải là con đường nên đi vào. Nó sẽ biến những tín hữu trở thành những con người xác thịt như dân Do Thái ngày trước.
Và thánh nhân đã chỉ cho mọi người thấy con đường phải đi vào. Ðó là bác ái. Thiếu bác ái mọi đặc sủng kia sẽ rỗng tuyếch. Vì người ta muốn phục vụ ư? Ao ước làm được những sự ngoạn mục, thật là vô ích. Ðức Giêsu đến phục vụ không làm như vậy. Người đã yêu thương chúng ta và yêu thương cho đến chết. Thế nên đối với thánh Phaolô, ở đây, con đường bác ái yêu thương rất cụ thể.
Nó có hai hạng người làm đối tượng: kiên nhẫn với kẻ thiếu nhân đức và giúp đỡ những kẻ thiếu thốn. Ðối với cả hai hạng người, kẻ bác ái phải có những thái độ chứng tỏ lòng kiên nhẫn và bộc lộ lòng quảng đại. Tiêu cực, họ không được nóng nảy, bực tức, hoặc chán nản, tuyệt vọng; còn tích cực, họ phải duy trì niềm vui, tin tưởng và kiên trì. Ðược như vậy, đức bác ái sẽ toàn thắng sự dữ và giúp đỡ được hiệu năng.
Thế nên, so sánh với những đặc sủng mà người ta ao ước như các ơn nói tiếng lạ, ơn nói tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn giảng đạo, đức bác ái rõ ràng trổi vượt. Tất cả các ơn kia có ngày sẽ hết. Chúng chỉ cần cho đời tạm này. Nhưng lòng bác ái sẽ tồn tại mãi mãi đi theo ta sang cả thế giới bên kia. Mà sánh với hai nhân đức khác là đức tin và đức cậy, nhân đức bác ái vẫn trổi hơn. Cả ba nhân đức này đều cần thiết cho đời sống đạo và cho mọi nhân đức khác. Cả ba cũng theo ta sang cả đời sau, theo nghĩa đức tin là trạng thái cởi mở tâm hồn nhận biết Chúa thì đời sau vẫn cần; và đức cậy cũng sẽ cần vì là trạng thái của linh hồn muốn được Chúa yêu thương. Nhưng đức mến sẽ tồn tại và cao quý hơn hết vì nó làm cho chúng ta kết hợp với Thiên Chúa là bản chất của đời sóng hạnh phúc sau này ở trên trời.
Thế nên chúng ta hãy đi vào con đường bác ái. Trươc đây, người Do Thái không đi con đường ấy nhưng bước theo hướng xác thịt hời hợt bề ngoài vì họ như là trẻ con đối với thời đại Thánh Thần yêu mến đã được đổ xuống trong Hội Thánh. Ngày nay được phúc ở trong thời đại sung mãn, chúng ta phải đi vào con đường trưởng thành là bác ái.
Và giờ đây hơn bao giờ hết khi cử hành thánh lễ, chúng ta được đưa vào con đường bác ái. Không những chúng ta được thấy Ðức Giêsu đến rao giảng tin mừng cứu độ như là vị tiên tri cao trọng hơn mọi tiên tri. Người còn thể hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh để hoàn thành sứ mệnh tiên tri của Người một cách siêu việt hẳn hơn Giêrêmia ngày trước... Và hơn cả hôm Người ở trong hội đường ở Nadarét.
Mầu nhiệm bàn thờ đây còn tuôn đổ Thánh Thần yêu mến cho những ai thành khẩn tham dự. Nhưng cử hành thánh lễ sốt sắng bao nhiêu, họ phải sống bác ái chân thật và cụ thể bấy nhiêu để lấy kiên nhẫn lướt thắng sự tội và lấy phục vụ xóa bỏ nghèo khó. Phấn đấu hết mình cả về phương diện tinh thần cả về phương diện vật chất là nhiệm vụ của những ai đi trong con đường bác ái. Ai đã dự lễ mà có thể từ chối đi vào con đường ấy?

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật IV Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Jer 1:4-5, 17-19; I Cor 12:31-13:13; Lk 4:21-30.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sứ vụ khó khăn của ngôn sứ
Con người nông nổi thích được khen tặng và những ai ca tụng họ; ngược lại, họ ghét những ai phê bình cho dù biết đó là sự thật. Ngôn sứ được kêu gọi để nói sự thật; vì thế, họ sẽ bị những con người nông nổi ghen ghét và truy tố.
Các Bài đọc hôm nay tập trung trong sứ vụ của ngôn sứ và những thách đố người ngôn sứ phải đương đầu với. Trong Bài đọc I, Thiên Chúa tuyển chọn ngôn sứ Jeremiah trước khi ông được tạo thành trong dạ mẹ, thánh hóa và trao sứ vụ trước khi ông lọt lòng mẹ. Ngài hứa sẽ bảo vệ và ban chiến thắng nếu ông trung thành với sứ vụ Ngài trao ban. Trong Bài đọc II, thánh Phaolô nêu bật một đức tính quan trọng ngôn sứ phải có là đức mến đối với Thiên Chúa và với tha nhân. Nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trở về quê quán Nazareth để rao giảng Tin Mừng. Ngài thách đố những người đồng hương phải thay đổi lối suy nghĩ và cách biểu tỏ niềm tin nơi Thiên Chúa. Hậu quả họ đã không thay đổi, lại còn tức giận toan tính xô Ngài xuống vực thẳm; nhưng Ngài can đảm bước qua giữa họ mà đi.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi.
1.1/ Mối liên hệ hai chiều giữa Thiên Chúa và ngôn sứ: Ngôn sứ là người "nói thay" hay là "miệng lưỡi" của Thiên Chúa; chứ không phải là người nói trước hay tiên báo những gì sẽ xảy ra, cho dù nhiều lần những gì ngôn sứ nói được ứng nghiệm trong tương lai. Trong trình thuật hôm nay, ngôn sứ Jeremiah nêu bật những gì liên quan đến ơn gọi làm ngôn sứ.
(1) Thiên Chúa tuyển chọn và trao sứ vụ cho ngôn sứ: Không ai có thể tình nguyện làm ngôn sứ, nhưng phải được Thiên Chúa tuyển chọn từ khi người đó chưa hình thành trong lòng mẹ: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân."
(2) Ngôn sứ phải can đảm nói những gì Thiên Chúa truyền: Ngôn sứ là phát ngôn viên chính thức của Thiên Chúa; vì thế, ông phải nói những gì Thiên Chúa truyền, chứ không phải những gì ông muốn nói hay thiên hạ thích nghe. Nếu vì bất cứ lý do gì ngôn sứ không nói những gì Thiên Chúa truyền, ông không còn là ngôn sứ của Thiên Chúa: "Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn."
1.2/ Thiên Chúa ban ơn và bảo vệ ngôn sứ của Ngài: Thiên Chúa biết rõ những khó khăn ngôn sứ phải đương đầu với, Ngài hứa với ngôn sứ hai điều: (1) Ngài luôn bảo vệ họ khỏi mọi người hãm hại: "Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Judah đến các thủ lãnh, các tư tế, và toàn dân trong xứ." (2) Lời hứa chiến thắng: "Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì - sấm ngôn của Đức Chúa - có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi." Nhiều khi Thiên Chúa để các ngôn sứ bị thiệt thân để làm chứng cho Ngài; dẫu vậy, Ngài sẽ cho ngôn sứ được sống lại vinh quang với Ngài sau cái chết ở đời này.
2/ Bài đọc II: Tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả: con đường đức mến.
2.1/ Đức mến là động lực thúc đẩy mọi việc tốt lành: Thánh Phaolô biết con người luôn khát khao được trở nên trọn lành; vì thế, Ngài khuyên các tín hữu Corintô: "Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả." Con đường hoàn hảo nhất Ngài nói ở đây là con đường đức mến: mến Chúa và yêu người. Một người cần phải có nhân đức nền tảng này trước khi có tất cả những điều tốt lành khác. Theo Phaolô, đức mến là ân huệ của Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải nhờ luyện tập mà có. Giống như các nhân đức đối thần, con người phải luyện tập để cho đức mến ngày càng phát triển và đạt tới mức hoàn hảo. Nếu không có nhân đức này, tất cả các ân huệ và các việc tốt lành khác sẽ không phát triển được, và sẽ từ từ biến mất. Thánh Têrêsa Hài Đồng cùng một tư tưởng với Phaolô: nếu không có đức mến, nhiệt thành truyền giáo sẽ tắt ngúm và mong ước tử đạo cũng không còn.
2.2/ Ngôn sứ không thể thiếu đức mến: Thánh Phaolô quả quyết: "Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì."
Điều này đúng trong phương diện kỹ thuật: Các chuyên gia không phải chỉ có kiến thức về phương diện chuyên môn; nhưng còn phải có lòng yêu thích lãnh vực đó; nếu không, họ dễ chán nản bỏ cuộc và không dám hy sinh mọi sự cho nghề nghiệp của mình.
Điều này càng đúng cho các ngôn sứ, họ phải có lòng yêu mến sự thật và mong muốn mang sự thật họ biết về Thiên Chúa cho tha nhân; để tha nhân cũng được giải thoát bởi sự thật. Đức mến là động lực thúc đẩy ngôn sứ thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Mến Chúa là yêu thương tha nhân; nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Ngôn sứ không thể nhìn thấy dân chúng lầm lạc xa Thiên Chúa. Họ không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ngôn sứ phải kiên nhẫn trong việc đưa tội nhân về cùng Thiên Chúa. Họ rao giảng Tin Mừng không vì lợi lộc thấp hèn, nhưng để đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, ngôn sứ có thể chịu đựng tất cả, miễn sao cho mọi người được hưởng ơn cứu độ.
2.3/ Đức mến tồn tại muôn đời: Theo Phaolô, đức mến cao trọng hơn cả, vì chỉ có đức mến vững bền mãi mãi. Phaolô lý luận: "Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi."
Phaolô lý luận tương tự khi so sánh ba nhân đức đối thần: "Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến." Khi con người được về chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, họ không cần đức tin vì được diện kiến Thiên Chúa mặt đối mặt, họ cũng không cần đức cậy, vì họ đang được hưởng những gì bấy lâu nay họ trông cậy; nhưng họ cần đức mến để tiếp tục yêu Thiên Chúa cách nồng nàn.
3/ Phúc Âm: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
3.1/ Người ngôn sứ dám thách thức khán giả đương đầu với sự thật: Trình thuật hôm nay tường trình biến cố Chúa Giêsu về quê Nazareth để rao giảng Tin Mừng cho những đồng hương. Sau khi đã đọc Sách của ngôn-sứ Isaiah, Ngài bắt đầu giảng dạy và nói về sứ vụ ngôn sứ của Ngài: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Ngài thách đố khán giả đồng hương trực diện với ba điều quan trọng:
(1) Niềm tin chỉ đặt căn bản trên phép lạ là niềm tin không chắc chắn: Chúa Giêsu biết người Do-thái thích phép lạ. Họ đã nghe biết những phép lạ Ngài làm; và họ đang mong Ngài làm phép lạ như Ngài đã từng làm ở Capernaum. Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ: tin Thiên Chúa thì quan trọng hơn tin những phép lạ Ngài làm. Phép lạ được làm là để khơi dậy niềm tin; nếu sau khi đã chứng kiến phép lạ mà vẫn không tin, phép lạ mất mục đích của nó. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên phép lạ sẽ không vững bền, và sẽ dễ dàng bị mất khi không thấy phép lạ nữa.
(2) Đừng có thái độ khinh thường những người mình đã quá quen thuộc: Chúa Giêsu nói với họ một sự thật: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.'' Tục ngữ Việt-nam cũng nói lên thói xấu này: "gần chùa gọi bụt bằng anh." Người Do-thái đã quá quen thuộc với Thiên Chúa, nên họ đâm ra khinh thường và không biết nhận ra những hồng ân Ngài đổ xuống trên họ. Con người phải biết thân phận và giới hạn thụ tạo của mình khi đứng trước nhan Thiên Chúa.
(3) Nhiều Dân Ngoại biểu lộ đức tin vào Thiên Chúa mạnh mẽ hơn người Do-thái: Chúa Giêsu đưa ra hai trường hợp với mục đích nêu bật đức tin của Dân Ngoại: (1) "Vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha miền Sidon." (2) "Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisha, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi." Bà góa thành Zareptha và ông Naaman được giúp đỡ vì họ đã tin và thi hành những gì các ngôn sứ truyền cho họ phải làm. Người Do-thái đã biết quá nhiều về Thiên Chúa và uy quyền làm phép lạ của Ngài, lẽ ra họ phải biểu lộ đức tin cách chắc chắn hơn Dân Ngoại; nhưng thực tế nhiều lần cho thấy Dân Ngoại biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa cách chắc chắn hơn họ.
3.2/ Phản ứng của dân chúng: Trình thuật cho chúng ta thấy thái độ nông nổi và dễ dàng thay đổi của dân chúng. Khi mới nghe những gì Chúa Giêsu giảng dạy, "họ thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người." Nhưng sự thật chưa đủ để thuyết phục họ đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, họ đang trông chờ Ngài làm phép lạ.
Sự thật mất lòng, họ tức giận khi bị Chúa Giêsu bắt phải đương đầu với sự thật: "Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ." Họ không thể chịu đựng nổi sự xỉ nhục khi nghe Chúa Giêsu so sánh họ với Dân Ngoại; vì họ vẫn tự mãn cho họ là Dân Chúa, là con cháu tổ-phụ Abraham, và xứng đáng được hưởng mọi đặc quyền của Ngài. Dân Ngoại sinh ra để làm nô lệ và không xứng đáng được hưởng ơn cứu độ. Nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát: con cái Thiên Chúa mà không tin Thiên Chúa hay ngôn sứ Ngài gởi tới, có xứng đáng làm con cái của Thiên Chúa không? Không những từ chối sự thật, họ còn muốn tiêu hủy Chúa Giêsu, nguồn gốc mọi sự thật và là Người đang nói sự thật cho họ. Giận quá mất khôn: "Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực."
Không một chút sợ hãi, "Người băng qua giữa họ mà đi." Khốn thay cho những con người từ chối và tiêu hủy sự thật.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả chúng ta đều đã nhận lãnh chức vụ ngôn sứ khi chịu Phép Rửa Tội để rao giảng, sống, và làm chứng cho Tin Mừng.
- Khi thi hành sứ vụ ngôn sứ, chắc chắn chúng ta sẽ bị thế gian từ khước, truy tố, và ngay cả đe dọa đến tính mạng. Thiên Chúa, Đấng trao ban sứ vụ và thánh hóa ngôn sứ, sẽ tiếp tục ban ơn, bảo vệ, và hứa sẽ giúp ngôn sứ chiến thắng mọi nguy hiểm của thế gian.
- Đức bác ái là quà tặng Thiên Chúa ban cho các ngôn sứ. Sứ vụ rao giảng sẽ có ngày chấm dứt; nhưng đức bác ái sẽ tồn tại muôn đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

31/01/16 CHÚA NHẬT TUẦN 4 TN – C
Lc 4,21-30

Suy niệm: Nhà bác học lỗi lạc nhất của thế kỷ 20 là A. Einstein thú nhận: “Khi còn bé, tôi đã học cả Kinh Thánh và sách Talmud. Là người Do Thái, nhưng tôi đã bị khuôn mặt sáng ngời của Đức Giê-su Na-da-rét mê hoặc... Chưa ai đọc các sách Tin Mừng mà không cảm thấy sự hiện diện thật sự của Đức Giê-su. Tính cách của Ngài rung lên trong mỗi từ ngữ. Một đời sống như vậy không huyền thoại nào chứa hết được.” Trước Einstein 20 thế kỷ, dân làng Na-da-rét cũng bị mê hoặc bởi những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người như vậy. Đó không chỉ là lời khôn ngoan của bậc vĩ nhân, mà còn là Lời hằng sống, là Ngôi Lời Thiên Chúa, là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Mời Bạn: “Đức Giê-su là một bậc thầy nghệ thuật không ai bì kịp về khả năng phơi bày cái cốt lõi thâm sâu của chân lý tinh thần” (G. Vermes). Ngài không chỉ nói những lời hay ý đẹp, nhưng còn có thể giúp bạn nhận thức chân lý mang tính sinh tử cho đời mình. Bạn hãy đọc và nghiền ngẫm lời Ngài trong sách Tin Mừng để hiểu được chân lý ấy.
Sống Lời Chúa: Trong năm mới cũng là Năm Thánh này, tôi sẽ dành thời gian mỗi ngày đọc một đoạn Tin Mừng nhằm giúp mình hiểu biết và yêu mến Chúa Ki-tô hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con thán phục lời hay ý đẹp từ miệng Chúa như bao người khác. Thế nhưng, nhiều khi nại cớ bận rộn công việc mỗi ngày, con ngại ngùng khi phải dành thời gian đọc và suy gẫm Lời Chúa. Kế hoạch sống của con trong năm nay là có thời giờ tiếp cận Lời Chúa hằng ngày. Amen.

KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN
Hôm nay, chúng ta đã biết, tin và gần gũi Ðức Giêsu, nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ tương tự như người Nadarét: tưởng mình đã múc cạn được mầu nhiệm hay muốn độc quyền giữ Ðức Giêsu cho mình. 


Suy nim:
Tin là thái độ căn bản trong cuộc sống.
Chẳng ai có thể sống mà không tin.
Không tin người này nhưng lại tin người kia.
Không tin lý thuyết này nhưng lại tin giả thuyết nọ.
Thành ra ai cũng phải chọn một niềm tin.
Không phải chọn một cách vu vơ, mù quáng,
nhưng một cách sáng suốt và tự do.
Ðiều khó là giữ cho lòng mình được tự do thanh thoát,
không bị những định kiến ràng buộc hay tư lợi chi phối,
nhờ đó chúng ta dám chọn sự thật,
dù sự thật đó làm đổ nhào mọi điều ta nghĩ,
và xoay lại hướng đi của cả đời ta.
Có lẽ dân làng Nadarét ít có thứ tự do này.
Khi Ðức Giêsu giảng trong hội đường Nadarét thân quen,
họ đã ngỡ ngàng thán phục trước lời Ngài nói.
Hãnh diện biết mấy khi một thành viên trong làng
nay được tiếng tăm lẫy lừng khắp miền Galilê!
Nhưng tin Ðức Giêsu là một ngôn sứ
lại là điều họ không làm được.
“Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”
Ký ức của họ vẫn còn giữ nguyên những hình ảnh
của Ðức Giêsu  sống tại đây hơn ba mươi năm qua.
Một cuộc sống quá đỗi bình thường!
Một ông thợ mộc, con một ông thợ mộc khác.
Gốc gác, họ hàng của Ðức Giêsu, họ đều nắm rõ.
Tiếc là họ đã không thể đi xa hơn.
Cái hiểu biết trước đây khiến họ mãn nguyện, tự hào,
và tưởng mình chẳng còn gì để biết thêm về Giêsu.
“Những gì ông đã làm ở Caphácnaum, hãy làm ở đây xem.”
Người làng Nadarét không tin Ðức Giêsu là ngôn sứ.
Họ muốn Ngài chứng minh bằng phép lạ.
Họ muốn thấy tận mắt, chứ không chỉ nghe nói thôi.
Nhưng Ðức Giêsu không làm phép lạ để ép người ta tin.
Chính lòng tin đưa đến phép lạ,
mà Ngài lại chẳng gặp lòng tin nào nơi người đồng hương.
Lòng chai đá cứng cỏi của họ chuyển thành sự phẫn nộ,
khi Ðức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisa
được Thiên Chúa sai đến thi ân cho dân ngoại.
Dân làng không giữ được Ðức Giêsu cho riêng mình.
Khi thấy mình chẳng còn chút đặc quyền, đặc lợi,
thì họ tìm cách thủ tiêu Ngài.
Tin Ðức Giêsu là ngôn sứ, là Mêsia, là Con Thiên Chúa,
điều đó chẳng dễ dàng chút nào.
Người không tin cũng có thể đưa ra bao lập luận.
Ðiều cần thiết là phải tìm kiếm chân lý với cả tâm hồn.
Chúa Thánh Thần vẫn soi sáng cho người thành tâm thiện chí.
Hôm nay, chúng ta đã biết, tin và gần gũi Ðức Giêsu,
nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ tương tự như người Nadarét:
tưởng mình đã múc cạn được mầu nhiệm
hay muốn độc quyền giữ Ðức Giêsu cho mình.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
31 THÁNG GIÊNG
Hợp Tác Và Liên Đới
Nếu như trong quá khứ có một khuynh hướng xem lao động như chuẩn mực duy nhất đo lường giá trị con người, thì trong thời đại chúng ta lại thấy xuất hiện một nhãn quan mới: đánh giá con người theo chức năng. Theo cách nhìn này, lao động chỉ có ý nghĩa thông qua thu nhập trong một nghề nghiệp nào đó. Trước một trào lưu như vậy, chúng ta càng phải khẩn cấp hơn bao giờ hết để nắm bắt lại niềm xác tín rằng “lao động là một chiều kích căn bản của hiện sinh con người trên trái đất” (Laborem exercens 4). Nhưng đồng thời cũng phải nhận thức rằng lao động không phải là cứu cánh cuối cùng. Vâng, lao động phải luôn luôn phụ thuộc vào con người – và chính con người mới là mục tiêu và là cứu cánh cuối cùng của lao động (Laborem exercens 6).
Xuất phát từ sự thật đó, một yêu cầu quan trọng đặt ra cho tất cả mọi người: yêu cầu phải cộng tác và liên đới với nhau. Người ta vốn phải luôn luôn cần sự giúp đỡ và cộng tác của nhau để có thể cùng nhau thăng tiến. Liên đới có luật của nó: không ai có thể áp đặt nó lên một người khác. Trái lại, mỗi bên đều sẵn lòng đón nhận sự cộng tác của bên kia trong một đường lối xây dựng. Điều này áp dụng cả cho những doanh nghiệp cá thể lẫn cho toàn bộ tiến trình sản xuất. Nó cũng áp dụng – theo một nghĩa rộng – cho tất cả đời sống xã hội.
Khi nhìn lao động và sản xuất trong tinh thần hợp tác và liên đới, chúng ta có thể nhận ra những vai trò thiết yếu của mỗi bên liên hệ. Các chủ xí nghiệp và các vị lãnh đạo đảm nhận vai trò đưa ra các quyết định để bảo vệ mối thống nhất, sự hợp tác và điều hành hoạt động của xí nghiệp.
Những người lao động độc lập thì tự nhận lấy các trách nhiệm, những mối ràng buộc và những rủi ro trong công việc. Họ đem lại sự uyển chuyển cho toàn tiến trình sản xuất và họ được đền bù thích đáng bởi nguyên tắc phụ trợ. Theo nguyên tắc này, cả nhà nước lẫn xã hội đều không thể hạn chế sáng kiến và sự lựa chọn tự do của của cá nhân (Huấn thị của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tự Do và Giải Phóng theo Kitô giáo, số 73).
Về phần mình, những công nhân trực thuộc các xí nghiệp không chỉ có quyền nhận được món tiền lương công bằng – tức bảo đảm mức sống cho bản thân họ và gia đình họ; nhưng một cách liên đới trách nhiệm, họ cũng tham gia vào các sáng kiến và các quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của xí nghiệp, nghĩa là các quyết định có ảnh hưởng đến chính tương lai của họ. Hơn nữa, họ sẽ làm việc bằng một cung cách sao cho luôn luôn bảo đảm tôn trọng phẩm giá và khả năng sáng tạo của mình. Như vậy, họ có thể thực sự cảm nhận được vai trò làm chủ của mình trong môi trường lao động (Laborem exercens 14 – 15).
Chúng ta biết rằng mọi quyền đều gắn liền với bổn phận. Nguyên tắc công bằng và bình đẳng không chỉ chi phối đến các mối quan hệ giữa chúng ta với nhau, nhưng cũng chi phối cả đến sự đóng góp của mọi người vào thiện ích chung. Nếu chúng ta muốn một xã hội công bằng hơn và một cuộc sống có chất lượng hơn, mọi người chúng ta đều phải biết nhìn xa hơn những ích lợi nhất thời của riêng mình. Chúng ta phải sẵn lòng dự phần vào trách nhiệm chung, vì thiện ích của mọi người.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 31/01
Chúa Nhật IV Thường Niên
Gr 1, 4-5. 17-19; 1Cr 13, 4-13; Lc 4, 21-30.

Lời Suy Niệm: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”
Những người trong hội đường khi được nghe lời ngôn sứ I-sai-a từ miệng Chúa Giêsu, với lời xác nhận của Chúa Giêsu: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh”. Tất cả những người nghe,  đã hết sức vui mừng khi liên tưởng đến: “Năm Toàn Xá”. Một thời đại mới, mà họ đang mong đợi. Thời đại mà mọi người nghèo khó được trở về phần sở hữu của mình, thời đại mà mọi kẻ bị bán làm nô lệ được trở về dòng họ của mình.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã đến để khai mở một thời đại mới, một thời đại đầy tình thương và ân xá, để từ đây con người được hiểu mà thờ phượng Thiên Chúa và thương yêu phục vụ nhau trong yêu thương và khiêm nhường. Xin Chúa ban cho mỗi người trong chúng con cùng được sống trong niềm hạnh phúc này.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 31-01: Thánh GIOAN BOSCÔ
Linh mục (1815-1888)

Ngày 16 tháng 8 năm 1815, Gioan chào đời trong một túp lều tranh thuộc tỉnh Turinô. Cha Ngài qua đời lúc Ngài được hai tuổi. Mẹ Ngài là bà Magarita một mình nuôi nấng ba người con trai. Bà tập cho con quen với công việc nặng nhọc, với đời cầu nguyện. Bà thường lập lại với các con bà: - Chúa thấy hết, Chúa thấy hết.
Và con cái bà biết rằng chính nhờ tình yêu mà Người ta làm đẹp lòng Chúa, Gioan sau này sẽ nói: - Nếu tôi trở thành linh mục đó là nhờ mẹ tôi.
Cậu bé đã tỏ ra có ơn gọi làm tông đồ. Ngoài đồng cỏ, Ngài đã đổi phần bánh ngon miệng của mình lấy mẩu bánh đen của một mục đồng nghèo. Mẹ Ngài trách cứ Ngài vì đã làm bạn với những người xấu. Gioan đáp lại: - Khi con chơi với chúng nó, chúng nó bớt khùng hơn.
Lúc chín tuổi, Gioan đã có một giấc mơ lạ lùng: một đám đông trẻ con tinh nghịch vây quanh Ngài, chúng nó nói phạm thượng. Bất chợt chúng hiện hình thành bọn lang sói. Nhưng đức Trinh Nữ đã nói với Gioan: - Đừng dùng bạo lực, nhưng hãy ngọt ngào nếu con muốn chiếm được tình nghĩa với chúng.
Ngài còn nói: - Đó là môi trường làm việc cùng con. Sau này con sẽ làm cho con cái mẹ, điều Mẹ sắp làm cho những con thú này.
Và rồi những con vật dữ tợn trên biến thành chiên ngoan Gioan đã kẻ lại giấc mơ trên. Một người anh đã nói với Ngài: - Mầy sẽ là thằng chăn chiên. Và người anh khác nói tiếp: - Hay là tướng cướp.
Vì tình yêu Chúa, cậu bé tưởng tượng ra mình là một thằng múa rối. Ngày Chúa nhật bọn trẻ xếp vòng tán thưởng nhà nhào lộn và leo giây đại tài, cha mẹ chúng, cũng tới nữa, những lúc đổi trò, mọi người phải lần chuỗi. Nhà nhào lộn trở thành nhà giảng thuyết, lập lại bài giảng của cha sở.
Một linh mục già cho Gioan cuốn sách văn phạm latinh và dạy Gioan học. Một trong các anh ghen tỵ. Gioan ôm sách đi tìm việc làm trong một nông rại. Hai năm sau trở về nhà, Gioan phải chân không cuốc bộ hai mươi cây số ngàn để tới trường học mỗi ngày. Sau này ở trường Chieri, Ngài làm gia nhân khi có giờ rảnh để khỏi tốn tiền mẹ. Ngài thành lập một hội vui để lôi kéo bạn bè vào đường thiện hảo, lành mạnh.
Gioan được thụ phong linh mục. Theo phong tục Italia, người ta gọi Ngài là Don Boscô. Mẹ Ngài đã nhắn nhủ: - Đùng lo nghĩ tới mẹ nữa mà chỉ cầu nguyện cho mẹ thôi. Lo lắng duy nhất của con là phần rỗi các linh hồn.
Ngài theo học ở Turinô, viếng thăm các tù nhân và đã kinh ngạc khi thấy bao nhiêu là thanh thiếu niên ở đó, thấy trong các đường phố những đứa trẻ này bị bỏ mặc cho sự cùng khổ và tật xấu của chúng. Phương pháp cứu vớt tuổi trẻ này. Trong thánh đường, một ông quản xua đuổi đứa trẻ lêu lổng. Gioan nhắc nhở ông ta rằng: nó lại không muốn nhận biết Thiên Chúa tốt lành sao ?
Chính Don Boscô sẽ dạy nó đọc chữ và giải thích giáo lý cho nó. Hôm sau đứa trẻ trở lại với bạn bè của mình. Hội bảo trợ đầu tiên được thành lập. Trong hai tháng số trẻ lên tới cả trăm. Nhưng tụ họp chúng ở đâu ? Khắp nơi người ta đều xua đuổi chúng, và người ta lại không cho rằng Don Boscô điên rồi sao ? Ngài thuê một căn nhà trong khu phố nghèo đói nhất và phải trả tiển nửa tháng một lần, Mẹ Ngài lo lắng: - Con không có lấy một xu.
Thánh nhân trả lời: - Nếu mẹ có tiền lại chẳng cho con sao ? Mẹ có tin là Chúa quan phòng giầu có vô cùng lại không tốt bằng mẹ sao ?
Ngài tập họp những trẻ xấu nết lại và dọn cho chúng ruớc lễ vỡ lòng, khu vực đốn mạt sắp trở thành nơi có tinh thần Kitô giáo nhất thành phố. Ngài không hề mất tin tưởng. Không có gì làm Ngài nản chí được. Ngài dẫn về cho mẹ mình những đứa vô lại chiêu tập trong một hàng quán. Đêm về những đứa vô lại này biến mất, mang theo cả chăn nệm, Ngài đưa về một thàng nhãi bị trui đến tận xương tủy. Chẳng mấy chốc căn phòng đã có tới bảy đứa như vậy.
Don Boscô mua một căn nhà. Trẻ nội trú đông nhung nhúc. Một ngày sống bắt đầu với thánh lễ, sau đó là đi học hay tập nghề. Chính lúc này mà thánh nhân muốn giúp đỡ từ những người nghèo tới các công tử. Các nhà sắp được xây dựng khắp nơi, cả đến Mỹ Châu.
Đối với các trẻ em nam, Gioan đã thiết lập một dòng gồm các linh mục mang danh là Salésien, để kính thánh Phanxicô Salê mà Ngài đã lấy châm ngôn của thánh nhân làm của mình.
- Lạy Chúa xin cho các linh hồn vì phần còn lại có đang giá gì cho con đâu ?
Và thánh nhân khuyên nhủ hãy làm điều đó: - Trong vui tươi hoan hỉ không ngừng.
Cùng với chị thánh Maria Mazzarello, Ngài cũng thiết lập một dòng tu mang danh hiệu các nữ tu Đức Mẹ phù hộ. Công cuộc các chị cũng sẽ lan rộng trên khắp thế giới. Mệnh lệnh của Ngài là: - Hãy tin tưởng cầu nguyện và can đảm tiến tới không ngừng.
Don Boscô đi thực hiện các công trình tại Pháp. Các sự lạ xảy ra vô số trên đường Ngài đi qua. Ơ Marseille Ngài gặp một đứa trẻ bệnh hoạn, Ngài bảo nó đọc một kinh kính Mừng và chữa lành cho nó. Cả đứa trẻ lẫn mẹ nó khóc nức nở vì biết ơn. Dọc đường xe Ngài bị vây chặt đến độ người đánh xe đã phải kêu lên: - Kéo theo một con quỉ, còn hơn chở một vị thánh.
Ở Paris Ngài được tiếp đón tưng bừng. Đức Hồng y xin Ngài chúc lành. Thi sĩ Victor Hugô hai lần muốn gặp Ngài. Người ta ngạc nhiên khi thấy Ngài rất đơn sơ vui vẻ và hiền hậu. Ngài giảng dạy nhiều. Các viện mồ côi, trường huấn nghệ, hội bảo trợ mọc lên khắp nước Pháp. Người ta nói Ngài dừng lại một chút, Người trả lời rằng: lên thiên đàng ta sẽ ngừng, hoặc, ma quỉ không có ngừng. Don Boscô muốn đưa cả thế giới về với Chúa Kitô. Các giấc mơ cho Ngài biết rằng: ước muốn của Ngài sẽ được thực hiện. Trong một giấc mơ Ngài thấy những người hoang dại quỳ gối trước mặt các tu sĩ Salésiens. Suốt đời Ngài không dứt các giấc mơ, các lời tiê đoán và các thị kiến.
Gioan phải trả cho định mệnh siêu nhiên của Ngài bằng những dằn vặt mà chỉ mình Ngài biết được. Một vị Hồng y đã phải lo lắng thấy mặt Ngài xanh mét kiệt sức. Thánh nhân cho Ngài biết là ma quỉ quấy phá mình cả đêm. Nhưng những người thân cận không hề biết gì những đau khổ của Ngài. Ngài nói: - Vì hồn tôi đã uống những chén đắng, tôi có quyền thêm vào những lo âu của con cái tôi bằng một gợn sóng đau khổ không ?
Bọn ác nhân giận dữ vì việc lành Ngài đã làm, đã tìm cách sát hại Ngài. Nhưng sức mạnh của sự dữ không nghĩa lý gì. Vượt qua mọi trở ngại tưởng như không thể lướt thắng nổi, Don Boscô còn hoạt động nhiều hơn nữa. Y sĩ tuyên bố rằng: phép lạ lớn lao nhất là Don Boscô còn sống được.
Cuối cùng Gioan cảm thấy rằng: thân xác Ngài không còn chiến đấu nổi nữa. Ngài sắp qua đời. Ngài nói với các linh mục của mình khi họ tới thăm: - Hãy nói với các con cái của tôi rằng: tôi đợi chúng tất cả trên thiên đàng.
Ngài còn nói như lời dặn dò thân thiết nhất: - Hãy cổ võ việc siêng năng rước lễ và lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ:
Người ta còn nghe thấy Ngài nói trong cơn mê sảng: - Mẹ, mẹ ơi, ngày mai... Mẹ hãy mở cửa thiên đàng cho con.
Thánh Don Boscô qua đời, đoàn con cái xếp hàng hôn bàn tay đã tận tình cứu giúp họ. Ngày 30 tháng giêng năm 1888.
(daminhvn.net)


31 Tháng Giêng
Kỳ Quan Của Thế Kỷ 19
Ngày 31 tháng 1, cách đây đúng một thế kỷ, thế giới mất đi một người mà ông Rattazzi, thủ tướng nước Italia, thời bấy giờ nổi tiếng là người chống báng Giáo Hội, đã phải thốt lên: "Ngài là kỳ quan vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 19. Cả nước Pháp đã suy tôn Ngài như một vị Thánh Vinh sơn đệ Phaolô của thế kỷ". Con người đó chính là Thánh Don Bosco.
Thánh nhân chào đời năm 1815 tại miền Piemonte, thuộc mạn bắc nước Italia. Mẹ Ngài là bà Magarita mong ước cho Ngài được làm linh mục. Nhưng bà đã dặn dò con mình: "Mẹ đã sinh ra trong nghèo khó, mẹ đã sống trong nghèo khó, mẹ cũng muốn chết trong nghèo khó. Nếu con muốn làm linh mục để giàu có, mẹ sẽ không bao giờ bén mảng đến với con".
Don Bosco đã thực hiện lời khuyên của mẹ. Không những Ngài đã sống nghèo, nhưng chỉ sống với người nghèo, nhất là trẻ em nghèo. Ngài đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm, thu nhặt những trẻ em lang thang đầu đường xó chợ.
Nếu mãi đến năm 1848, Karl Marx mới đưa ra tuyên ngôn kêu gọi giới công nhân đứng lên, đoàn kết đấu tranh cho quyền lợi của họ, thì trước đó, Don Bosco cũng đã tranh đấu cho giới công nhân rồi.
Thời của Thánh nhân, kỹ nghệ mới phát triển, nhiều vấn đề xã hội được đặt ra. Thánh nhân chủ trương không chỉ mang lại cho giới trẻ một nền giáo dục về mặt tinh thần hay tu đức, mà còn giúp cho giới trẻ một nghề nghiệp trong tay. Thánh Don Bosco đã được xem như là cha đẻ của những trường huấn nghệ ngsày nay.
Phương pháp sư phạm được Thánh nhân đề ra nhắm đến sự đề phòng hơn là trừng phạt. Thay vì chữa trị những sai trái, tốt hơn là đề phòng để những sai trái không xảy ra. Trong tất cả mọi sự, tình thương và sự dịu dàng là cơ sở cho tất cả mọi cư xử của Thánh Don Bosco.
Hiền lành và vui vẻ là hai nhân đức trội vượt trong sự thánh thiện của Thánh Don Bosco. Với sự hiền lành đầy cảm thông, Thánh nhân nhìn mọi người bằng chính cái nhìn của Chúa Giêsu. Cái nhìn đó muốn nói với tội nhân hay bất cứ một tâm hồn xấu xa nào rằng: "Bạn có một giá trị cao cả. Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương bạn. Bạn đừng ngã lòng".
Ði đôi với sự hiền lành chính là vui vẻ. Châm ngôn của Thánh Don Bosco chính là: Phụng sự Chúa trong vui tươi. Sự vui vẻ của Thánh Don Bosco là liều thuốc hữu hiệu nhất cho thời đại đầy ohiền muộn và chán nản của chúng ta. Niềm vui của Thánh nhân xuất phát từ một xác tín cơ bản trong Kitô giáo của chúng ta: Thiên Chúa là Tình Yêu. Do đó những người được Thiên Chúa yêu thương không thể nào buồn thảm được.
Sứ điệp của Thánh Don Bosco vẫn luôn hợp thời, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Giữa một xã hội mà tương quan con người được xây dựng trên thù hận, nghi kỵ, bon chen, giành giật, lừa đảo. Thánh Don Bosco nói với chúng ta rằng: Con người vẫn còn đáng thương yêu, vẫn còn đáng tôn trọng và tin tưởng.
Giữa một xã hội mà sự buồn thảm đang ngự trị, Thánh nhân muốn đem lại cho chúng ta nụ cười của lạc quan. Nụ cười lạc quan đó chỉ có thể nở rộ khi con người còn tin tưởng ở Tình Yêu của Thiên Chúa. Giữa những mất mát từng ngày, Thánh Don Bosco mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm lại mọi sự trong Tình thương của Chúa.
(Lẽ Sống)


SỐNG LỜI CHÚA MỖI NGÀY
NĂM THÁNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Chúa Nhật, 31 tháng 1 – Chúa Nhật IV Thường Niên
Giêrêmia 1,4-5.17-19 · Thánh Vịnh 70,1-2.3-4a.5-6ab.15ab.17 · 1Côrintô 12,31- 13,13 · Luca 4,21-30

Tỏ Tường

Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. 1 Côrintô 13,12

          Mới đây, con trai tôi phải đeokính, và việc nó đột ngột nhìn thấy mọi sự một cách tỏ tường hơn đã gợi lại trong tôi nhiều kỷ niệm.
          Nếu bạn đã từng đi mua kính hoặc đi đổi lại kính mới theo lời bác sĩ, chắc bạn sẽ biết rằng khi bạn tìm được chiếc kính thích hợp, lúc nhìn qua kính, cảnh vật bỗng trở nên thật tuyệt vời. Bạn biết rằng thị lực của mình đã yếu đi, nhưng chỉ đến khi đeo kính vào, bạn mới thật ngạc nhiên khi nhận ra rằng sao nó lại yếu đến như vậy.
          Nhiều lúc, tôi nhận thấy cuộc sống của mình thật êm ả. Tôi đang nhìn thấy mọi thứ một cách tỏ tường và tôi nghĩ rằng mình đang đi đúng đường, phải rồi, vì đó là con đường mà tôi đã lựa chọn và chẳng có lý do gì để tôi nghĩ  khác đi cả.
          Nhưng rồi, trong một khoảnh khắc tĩnh lặng để đón nhận Lời Chúa, rất nhiều điều đã được khai mở trong tôi. Bằng sự khiêm hạ, tôi nhận ra tầm nhìn hiện tại của đôi mắt tâm hồn tôi thật sự mờ nhạt đến mức nào, và trong sự biết ơn, tôi chờ đợi được chiêm ngắm nét tỏ tường của Lời Hằng Sống.

Amy Welborn


HỌC HỎI NĂM THÁNH
Dung Nhan Lòng Thương Xót – Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Hỏi 93 : Đức Thánh Cha ước mong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót  đem lại những gì cho cuộc đối thoại giữa các tôn giáo cũng như giữa các dân tộc?

Đáp 93 : Đức Thánh Cha ước mong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót thúc đẩy cuộc gặp gỡ giữa những tôn giáo và sự giao thoa giữa những truyền thống tôn giáo cao quý khác, đồng thời mở rộng hơn những cuộc đối thoại để chúng ta có thể hiểu biết nhau hơn; nhằm xua đi mọi hình thức khép kín và khinh khi lẫn nhau; và đẩu lùi mọi hình thức bạo lực và phân biệt đối xử (số 23).


CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin cho con luôn sống trong niềm cậy tin về sự sống đời đời dưới đôi mắt yêu thương của Ngài.
Quyết tâm : Thanh luyện con mắt đức tin qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa.

(nguồn trích: Sống Lời Chúa số 2 – Mùa Thường Niên 1 của Tgp. Sài Gòn)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét